Những phiên tòa nối tiếp phiên tòa

Vào ngày 10 tháng Chín, 2008, nhà báo tự do Nguyễn Văn Hải tức blogger Điếu Cày đã bị Tòa án Nhân dân TP.HCM kết án 30 tháng tù vì tội “trốn thuế”. Nhưng những người hiểu chuyện đều biết, Điếu Cày bị tù vì đã dám lên tiếng trước những bất công oan trái của xã hội, quan trọng hơn, dám chống Tàu! Cùng với các sinh viên, văn nghệ sĩ và bạn bè trong nhóm “Câu lạc bộ Nhà báo Tự Do” Điếu Cày đã dám viết lên những chữ “Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam”, dám biểu tình kỷ niệm 34 năm ngày mất Hoàng Sa 19 tháng 1,1974-19 tháng 1, 2008, ngay trước cửa Nhà hát Thành phố, khi mà trận hải chiến Hoàng Sa còn là điều “nhạy cảm” không được công khai nhắc đến, đối với nhà cầm quyền lúc bấy giờ. Đến tháng 10, 2010, lẽ ra Điếu Cày phải được trả tự do nhưng bản án của ông lại bị gia hạn để “điều tra thêm”. Và rồi tháng 4, 2012 ông bị tòa án xét xử thêm về tội “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 Bộ Luật Hình sự, cùng với nhà báo Tạ Phong Tần tức blogger Công lý và Sự thật, và luật gia Phan Thanh Hải tức blogger Anh Ba Sài Gòn. Ông Nguyễn Văn Hải bị kết án 12 năm tù, bà Tạ Phong Tần 10 năm còn ông Phan Thanh Hải nhẹ nhất với 3 năm tù.   Sáu năm sau, ngày 26 tháng Tám, 2014, một phiên tòa bỏ túi khác diễn ra tại Tòa án Nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, xử ba nhà tranh đấu Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh. Kết quả bà Bùi Thị Minh Hằng 3 năm tù giam, anh Nguyễn Văn Minh 2 năm rưỡi và cô Nguyễn thị Thúy Quỳnh 2 năm, về tội “gây rối trật tự công cộng khiến ách tắc giao thông nghiêm trọng”. Và giữa hai phiên tòa này là những phiên tòa ô nhục khác, trong những vụ án có tính chất chính trị hay đàn áp tôn giáo, với lần lượt nhiều người theo nhau đi vào nhà tù nhỏ. Từ giới luật sư, kỹ sư, doanh nhân, nhà báo, blogger cho tới dân thường, các thanh niên Công giáo, Tin Lành, phật tử của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, người dân tộc thiểu số… Người bị kết án nặng 16 năm như kỹ sư Trần Huỳnh Duy Thức, 12 năm như blogger Điếu Cày, người nhẹ cũng hai, ba năm.   Nhưng có những lý do khiến bài viết này phải nhắc đến bản án của blogger Điếu Cày, người đầu tiên bị tù vì những gì đã viết và đăng tải trên mạng, và vụ vừa mới xảy ra của nhà hoạt động nhân quyền Bùi Thị Minh Hằng. Thứ nhất, vì một số điểm chung giữa họ. Cả hai, ông Nguyễn Văn Hải hay bà Bùi Thị Minh Hằng đều là những người dân bình thường, sinh ra và lớn lên trong môi trường của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trước đó đang có một cuộc sống kinh tế khá thoải mái, sung túc do tự kinh doanh.   Cả hai, do vậy, không có gốc gác con em “ngụy quân ngụy quyền” để có thể có mối thù riêng với chính quyền, cũng chẳng nhờ kiến thức sách vở hàn lâm mà hiểu ra những chủ trương, chính sách sai lầm của nhà cầm quyền. Chính từ thực tế cuộc sống, những oan ức của người dân, những bất công phi lý trong xã hội khiến họ cũng như rất nhiều người Việt Nam khác nhìn ra sự thật. Và từ lòng yêu nước thôi thúc họ phải xuống đường, cùng với những người khác, cảnh báo mối họa xâm lược từ Trung Cộng. Với blogger Điếu Cày, nỗi đau còn từ những ngày lặn lội lên tận thác Bản Giốc, tận mắt chứng kiến và ghi lại qua những tấm ảnh, một phần “thân thể của đất nước” nay đã thuộc về nước khác. Trong nỗi đau có cả cảm giác bị phản bội của một người từng cầm súng bảo vệ cái chế độ này. Tội lớn nhất của họ, không chỉ là tội “tuyên truyền chống nhà nước”, mà trong mắt của một nhà cầm quyền luôn khiếp sợ Tàu, đó là tội chống Tàu! Cả hai phiên tòa, dù cách nhau 6 năm, nhưng những gì diễn ra trong, ngoài, trước và sau phiên tòa thì chẳng có gì thay đổi. Vẫn những sự đàn áp, khủng bố của đám công an chìm nổi các loại được lệnh phải ngăn chặn bằng mọi giá những người đến dự các phiên tòa được gọi là “công khai”, cho tới toàn bộ diễn biến khôi hài, bất chấp pháp luật của phiên tòa và bản án được tuyên. Có khác chăng, và cũng là tín hiệu đáng mừng, số lượng người hiểu chuyện và tìm cách vượt vòng vây đến với phiên tòa của bà Bùi Thị Minh Hằng bây giờ nhiều hơn trước kia.   Ngày càng nhiều người vượt qua nỗi sợ hãi, ngày càng nhiều người dám lên tiếng, dấn thân. Đồng thời, những bản án như vậy chỉ khiến cho bản thân người bị kết án trở nên trưởng thành hơn về nhận thức chính trị, có lòng tin mạnh mẽ hơn vào việc làm của mình, của bạn bè. Nhìn vào sự vững vàng của blogger Điếu Cày trong suốt thời gian bị cầm tù khắc nghiệt vừa qua hay khuôn mặt, thái độ bình thản của Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh, người ta cảm nhận được điều đó.   Không những thế, bạn bè, gia đình, người thân của họ cũng từ chỗ có thể chưa hiểu việc làm của họ, nhưng khi chứng kiến quá trình bắt giữ, xét xử, kết án bất chấp luật pháp, quá trình giam giữ phi nhân trong tù, sẽ hiểu ra và ủng hộ. Như chị Dương Thị Tân, vợ cũ của blogger Điếu Cày và con trai, hay Trần Bùi Trung, con trai của Bùi Thị Kim Hằng. Như ông Trần Văn Huỳnh phụ thân anh Trần Huỳnh Duy Thức, bà Trần Thị Ngọc Minh mẹ của cô Đỗ Thị Minh Hạnh, bà Nguyễn Thị Kim Liên mẹ của Đinh Nguyên Kha, Đinh Nhật Uy hay bà Nguyễn Thị Nhung mẹ của Nguyễn Phương Uyên… Và rất nhiều sự hy sinh khác phía sau của những người mẹ, cha, vợ, con…của những tù nhân chính trị, kể làm sao cho hết từ cái thời Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án xét lại những năm 60-70 của thế kỷ XX, qua thời hàng ngàn hàng vạn quân dân cán chính của chế độ miền Nam phải đi “học tập cải tạo” dài ngày cho tới những vụ án có tính chất chính trị sau này. Chính nhà cầm quyền, bằng vào sự thiển cận hẹp hòi và những chính sách sai lầm, hà khắc đã tự đẩy người dân về phía đối nghịch, ngày càng nhiều. Một tín hiệu vui khác, giữa những ngày mà dư âm của phiên tòa xử Bùi Thị Minh Hằng và hai người bạn vẫn đang làm mọi người phẫn nộ thì thông tin về việc blogger Điếu Cày có khả năng được thả ra, vốn đã loan truyền trước đó, lại nổi lên. Rất có thể trong những ngày sắp tới, một vài tù nhân lương tâm nổi tiếng sẽ được thả, như 5, 6 trường hợp tù chính trị gần đây, để nhà cầm quyền đổi lại những điều mà họ đang rất cần như được gia nhập Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (viết tắt TPP) hay được Mỹ bỏ cấm vận bán vũ khí sát thương…Mà cũng có thể sẽ chỉ là mừng hụt. Nhưng cho dù blogger Điếu Cày và vài tù nhân lương tâm khác có được thả ra, thì cũng vẫn có những người khác đang hoặc chuẩn bị bước vào tù thay thế họ, như nhóm Bùi Thị Minh Hằng mới đây chẳng hạn. Quyền được lên tiếng cùng với những cái quyền tối thiểu nhất của một con người, một công dân vẫn tiếp tục là điều xa xỉ, ở Việt Nam. Sinh mạng, sự an toàn của mỗi tù nhân chính trị tiếp tục trông chờ vào dư luận bên ngoài, sức ép từ quốc tế và những cân nhắc có tính đổi chác không hề biết xấu hổ của nhà cầm quyền, trong khi những người khác tiếp tục là những “tù nhân dự bị”. Bởi vì trước mắt, chẳng có bất cứ dấu hiệu gì cho thấy nhà nước này thật sự muốn thay đổi, dù chỉ một lần, thử đặt quyền lợi của đất nước, dân tộc lên trên quyền lợi của đảng. Có lẽ đã từng có những hy vọng nhen nhóm nào đó trong người dân khi mới đây, Trung Cộng ngang nhiên đưa giàn khoan khủng xâm phạm lãnh hải Việt Nam, làm thổi bùng lên cơn phẫn nộ của cả nước và khiến nhà cầm quyền có những dịch chuyển mơ hồ về phía Hoa Kỳ và các nước dân chủ tiến bộ trên thế giới. Nhưng nếu có, hẳn cũng tắt ngúm trước thực tế Hà Nội tiếp tục kết án những người yêu nước, cử “đặc phái viên” sang Tàu tạ tội, cam kết khôi phục mối quan hệ giữa hai bên và thỏa thuận cho phép Trung Cộng khai thác vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Cùng với những diễn biến khác nữa, chỉ chứng minh rằng điều duy nhất mà nhà nước cộng sản Việt Nam mong muốn, là tiếp tục đu dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ cùng các nước dân chủ để hưởng lợi từ hai bên, đồng thời kéo dài sự tồn tại của chế độ bất chấp mọi quy luật của thời đại và ý nguyện của người dân. Nguồn: FB Song Chi
......

Bàn về các Thái Tử Đảng

Gần 20 năm trước, trong phần kết luận của tiểu luận “Chia Tay Ý Thức hệ”, Tiến sĩ Hà Sĩ Phu đã nhận định rằng: “Càng suy nghĩ về nội dung cũng như về hiện tình của Ý thức hệ Mácxít, tôi càng thấy rõ đây là một Ý THỨC HỆ PHONG KIẾN TRÁ HÌNH của triều đại phong kiến cuối cùng, đang kìm hãm sự tiến bộ xã hội, và được dùng làm BÌNH PHONG cho những yếu tố tiêu cực ẩn nấp.” Nếu qua nhận định vừa kể, ông Hà Sĩ Phu chỉ hiện thực hoá ý thức hệ Mác Xít thành một ý niệm khác gần gũi và dễ hiểu hơn nhưng vẫn mang tích cách trừu tượng, thì đảng Cộng Sản Việt Nam đã cụ thể hoá sự trừu tượng đó trong việc họ công khai xây dựng triều đại Cộng Sản thành một triều đại phong kiến theo nghĩa đen, qua các “quy hoạch cán bộ cấp chiến lược” (hội nghị trung ương 7, tháng 5/2013) nhằm đưa con cháu của những người từng có nhiều quyền hành hoặc đương quyền vào những vị trí lãnh đạo cao cấp, chuẩn bị cho đường tiến thân lên vị trí cao hơn ở kỳ họp đảng sắp đến. Kết luận của hội nghị trung ương IX của đảng vào tháng 5 vừa qua còn tái khẳng định đó là “chủ trương lớn của đảng”. Tuy nhiên, đối với dân chúng thì đó chỉ là cách để củng cố triều đại phong kiến kiểu cộng sản.   Điểm cũng cần nói tới là, đây không chỉ là “chủ trương lớn” của riêng đảng CSVN, mà là hiện tượng chung của bốn nước cộng sản còn rơi rớt lại trên quả đất này (Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên và Cuba – không kể nước Lào nhỏ bé). Cả 4 nước đều có những cách làm tương tự như vậy để chuẩn bị và củng cố vai trò lãnh đạo cho thành phần con cháu lãnh đạo đảng đương thời, gọi là "thái tử đảng" (ký giả phương Tây có chữ riêng cho họ: princelings). Danh sách các “thái tử đảng” Việt Nam đã lên đến mấy chục người (mà người ta có thể dễ dàng tìm kiếm trên mạng internet) mới đây lại vừa được bổ xung thêm ông Nguyễn Bá Cảnh, con của ông Nguyễn Bá Thanh, ủy viên Bộ Chính Trị, trưởng ban Nội Chính Trung Ương; hầu kịp thời chạy đua và hợp thức hoá họ lên hàng ngũ cán bộ cấp trung ương trong kỳ đại hội đảng sắp tới. Nhân dịp này báo chí lề đảng tha hồ trổ tài nịnh hót mấy thái tử đảng là con cháu của những lãnh tụ chóp bu hiện nay, như là những nhà lãnh đạo tương lai “tuổi trẻ tài cao, học hành đến nơi đến chốn”, v.v.... Thậm chí có báo còn đăng hình ảnh để chứng minh các thái tử đó không những “tuổi trẻ tài cao” mà còn “đẹp trai như tài tử Holywood” (quên mất sự thường tình ’xấu đẹp tuỳ người đối diện’ của các mục tìm bạn bốn phương). Sự khen ngợi đến độ lố bịch này đã khiến dây thần kinh xấu hổ của lãnh đạo đảng được hồi phục lại trong giây lát để dẹp bài báo đó xuống, nhưng sự mỉa mai và bất phục vẫn được lan truyền với tốc độ của ánh sáng trên mạng. Tuy cùng là “thái tử đảng” nhưng mấy năm trước “thái tử” Nông Quốc Tuấn (con của nguyên tổng bí thư Nông Đức Mạnh) chỉ được báo chí lề đảng tâng bốc bâng quơ. Một phần vì báo chí biết rằng ông Nông Đức Mạnh sắp về vườn; phần khác vì quả thực ông Tuấn (đã hơn 40 tuổi) không thuộc hàng trẻ tuổi nữa, lại không học hành đến nơi đến chốn mà bắt đầu bằng việc đi xuất khẩu lao động ở Đức; không những thế ông Tuấn còn bị chỉ trích là bất tài, thiếu năng lực. Một điểm chung là các “thái tử đảng đẹp trai như tài tử” này đều được đi du học ở những nước “tư bản thối nát”, chẳng một ai đi học ở các nước “xã hội chủ nghĩa anh em tiến bộ” như Trung Cộng, Bắc Hàn, Cu Ba. Đây là điều khiến nhiều người thắc mắc, khi mà đảng CSVN phát động phong trào đấu tranh chống các “thế lực thù địch” (được đảng xác định là xuất phát từ các nước tư bản) và chống “tự diễn biến”; nhưng con cái của lãnh đạo đảng lại đi học ở những nước tư bản, thừa hưởng sự giáo dục của những nước ấy thì họ chống thế lực thù địch và chống tự diễn biến như thế nào? Thực ra thì còn nhiều thắc mắc khác liên hệ đến thái tử đảng, chẳng hạn như cương lĩnh đảng vẫn ghi rõ “đảng là đại diện của giai cấp công nhân và nhân dân lao động” nhưng thành phần lãnh đạo đảng hiện nay ai là người thuộc hai giai cấp vừa kể? Làm sao để các thái tử đảng đang sống xa hoa trên hàng núi của cải biến thành những công nhân và nhân dân lao động bần cùng, hầu trở thành giai cấp lãnh đạo đúng như cương lĩnh? Tuy thắc mắc như vậy nhưng đến nay người ta cũng hiểu rằng những lãnh đạo chóp bu của đảng vẫn “mở máy” nói về tư bản, về xã hội chủ nghĩa, nhưng thực sự có lẽ họ cũng chẳng tin vào những điều họ nói. Chẳng hạn như ông Nguyễn Phú Trọng vẫn cho rằng, tình trạng tham nhũng trong đảng bất trị hiện nay là do “tác động tiêu cực” của mặt trái nền kinh tế thị trường, mà ông ta không hề tự hỏi tại sao hàng trăm quốc gia tư bản theo nền kinh tế thị trường mấy chục năm qua, thậm chí cả thế kỷ qua, vẫn trị được “mặt trái” của nền kinh tế đó một cách hữu hiệu. Như đã đề cập ở trên, từ 20 năm trước ông Hà sĩ Phu đã nhìn ra cái chế độ hiện nay chỉ là một triều đại phong kiến trá hình, được dùng làm bình phong cho các yếu tố tiêu cực ẩn nấp (ngày nay danh từ thời thượng cụ thể hóa sự tiêu cực đó là các ’nhóm lợi ích’). Cho đến nay càng ngày người ta càng thấy rõ, chỉ duy trì được chế độ phong kiến trá hình này để làm bình phong thì đảng mới duy trì và củng cố được quyền lực, chứ công khai minh bạch thì đảng sẽ.... vắn số. Quyền lực mới là vấn đề quan trọng đối với đảng. Vì vậy, việc “cơ cấu” các thái tử đảng (và cán bộ trung, cao cấp theo quy hoạch cán bộ cấp chiến lược) tuy đậm nét phong kiến, nhưng là điều cần thiết, không chỉ để củng cố, mà còn duy trì quyền lực đó lâu dài. Hồi tháng 3 vừa qua có đợt luân chuyển 44 cán bộ, trong đó có đến 22 người được “cơ cấu” vào Ban Chấp hành Trung ương đảng CSVN khóa XII (tức cơ quan cao nhất của đảng CSVN) và vào những chức vụ quan trọng khác, chính là cách thực hiện việc kế thừa quyền lực vừa kể. Ở đây cũng cần mở một dấu ngoặc để nói về sự kế thừa quyền lực ở cấp bộ thấp hơn. Đầu tháng 8 vừa qua, có vụ 40 người đã nộp “phí chống trượt”, nhưng không chen chân nổi với đám 5 C (con cháu các cụ cả) trong kỳ thi vào cao học tại Trung tâm Giáo dục Thường xuyên tỉnh Thanh Hóa. Tương tự, tháng 10 năm ngoái, lần đầu tiên Cục Quản lý Thị Trường tổ chức thi tuyển thì 10 người trúng tuyển (trong số 300 người dự thi) đều thuộc dạng 5C. Những sự kiện vừa kể cho thấy việc “kế thừa quyền lực” được thực hiện xuyên suốt từ trên xuống dưới. Nếu ở cấp trung ương có các thái tử đảng, thì ở địa phương với những chức vụ cò con thì có những người thuộc dạng 5C. Trở lại chuyện các thái tử đảng, một nhu cầu trọng yếu khác nữa khiến lãnh đạo hiện nay phải cài cắm cho được con mình vào những vị trí then chốt là để bịt chặt những chuyện thâm cung bí sử, những hồ sơ cũ, những vụ tham nhũng, hãm hại người khác động trời của chính họ không lọt ra ngoài. Nhu cầu này lại càng cần thiết một khi họ đã "hạ cánh"? (Như chuyện bà Võ Thị Thắng [2] vừa qua đời, nhưng cho đến chết vẫn chưa biết tại sao ? và những ai trong bộ chính trị đã rắp tâm hãm hại mình?). Đó là chưa kể đến những hồ sơ liên quan đến sự bán chác đất đai, biển đảo với người “vừa là đồng chí vừa là anh em” đang được dư luận râm ran bàn tán hiện nay. Đã có một dạo dư luận, kể cả một số “học giả nước ngoài”, hy vọng rằng, với kiến thức và kinh nghiệm các thái tử đảng thu thập được khi du học ở các nước tư bản, thế hệ lãnh đạo mới này sẽ làm đất nước “thay da đổi thịt” theo con đường tiến bộ. Hy vọng này có thể đúng đối với những quốc gia bình thường (theo nghĩa không có một chế độ độc tài theo dạng nào đó quyết bám giữ quyền lực), nhưng với một chế độ phong kiến trá hình như ở Việt Nam thì như đã phân tích ở trên: “quyền lực là tất cả”, cho nên áp dụng một điều bình thường vào một chế độ bất thường là điều bất khả. Thí dụ tương tự rõ nhất là trường hợp lãnh tụ Kim Chính Ân của Bắc Hàn. Ông Kim Chính Ân du học ở Thuỵ Sĩ nhưng chẳng áp dụng một điều nào học hỏi được khi ông ta nắm quyền lực trong triều đại phong kiến trá hình ở Bắc Hàn. Thực tế từ hơn hai thập niên qua cũng cho thấy đảng đã mở những chiến dịch mời gọi trí thức Việt Nam ở nước ngoài về giúp xây dựng đất nước, nhưng một số nhỏ nhoi những trí thức làm theo lời mời gọi đó đều đã thất vọng bỏ đi sau khi va chạm thực tế. Thực tế đó là quyền lực của đảng từ trung ương đến mọi ngóc ngách địa phương. Một trường hợp tương tự là “12/13 quán quân Olympia không về nước” mới được báo chí đăng tải gần đây. Gameshow “Đường lên đỉnh Olympia” quy tụ những học sinh giỏi nhất nước, đã phát sóng từ 14 năm qua. Khi đoạt giải sẽ được đi du học ở Úc. 12 trong số 13 người của chương trình này đã ở lại Úc hoặc những nước tiến bộ khác để phục vụ hoặc tiếp tục con đường học vấn mà không quay về Việt Nam, hầu họ có thể sống “cho ra con người”, và đặc biệt là không phải va chạm với quyền lực của các thái tử đảng khi họ muốn thực thi sở học để phục vụ đất nước. Quyền lực đó của đảng to lớn như thế nào thì chỉ cần nhớ lại sự phân cấp trên – dưới: “cương lĩnh đảng cao hơn hiến pháp” được chính ông Nguyễn Phú Trọng nói ra là biết. Khi loan tin về các thái tử đảng, báo chí không quên nhắc nhở rằng, họ là những người được đào tạo bài bản ở các trường đại học (trong đó có những trường nổi tiếng) ở các nước tây phương tiên tiến, hầu nhắc nhở độc giả tự hiểu rằng “dù vậy họ vẫn trở về nước phục vụ quê hương”, chứ không như hai thành phần trí thức nêu trên. Sự trái ngược này khiến nảy sinh ra một câu hỏi khác: “Nếu không phải là con cái những lãnh đạo chóp bu thì liệu rằng các thái tử đảng đó có trở về nước hay không? Và động cơ nào thúc đẩy họ về nước?” Câu trả lời thực ra không khó. Những sinh viên du học khác, sau khi học hành vất vả kiếm được mảnh bằng về nước nhưng nếu không nằm trong những thứ tự ưu tiên cao để xin được việc: “Nhất hậu duệ - Nhì quan hệ - Ba tiền tệ - Bốn trí tuệ - Còn lại là mặc kệ”, mà chỉ có trí tuệ thôi thì có nhiều triển vọng sẽ thất nghiệp đứng đường như hơn một trăm ngàn cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp hiện nay. Còn các thái tử đảng dù có học hành đến nơi đến chốn hay không (khó ai biết được) thì cũng đã có đầy đủ 3 ưu tiên cao nhất kể trên mà có khi chẳng cần đến trí tuệ, và đều được “cơ cấu” vào những vị trí béo bở để chuẩn bị cho việc kế thừa quyền lực từ thế hệ trước, hầu duy trì triều đại phong kiến trá hình hiện nay cùng với quyền lực của đảng. Một câu trả lời của nhà thơ Nguyễn Duy được thuật lại trong một bài viết đăng trên trang blog Quê Choa gần đây (3) có lẽ là gợi ý cho câu trả lời xác đáng nhất và thú vị nhất cho câu hỏi động cơ nào thúc đẩy các thái tử đảng trở về nước. “Nhà văn Nguyễn Quang Lập hỏi nhà thơ Nguyễn Duy, người đi Mỹ nhiều lần, có lần ở cả 6 tháng và không phải là cưỡi ngựa xem hoa: ’Ông hãy nói cho tôi biết chỉ một câu về nước Mỹ’. Nguyễn Duy cũng trả lời không cần suy nghĩ: ’Đó là đầy đủ tất cả những điều mà Mác mơ ước’“. Ước mơ của Mác là thiên đường cộng sản, trong đó người ta “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”. Chưa vội nói đến thiên đường cộng sản, trong trường hợp Việt Nam ông Nguyễn Phú Trọng đã băn khoăn là không biết sang thế kỷ sau nước mình có thể tiến được lên xã hội chủ nghĩa chưa, để mấy...ngàn (hay tỷ) năm sau đó mới tiến lên được xã hội cộng sản. Chuyện tiến lên tiến xuống các cung bậc những loại xã hội do Mác định đặt ra là chuyện của dân. Còn lãnh đạo đảng và gia đình họ thì đã tiến lên và vượt qua khỏi thiên đường cộng sản rồi. Vì dù có năng lực hay không thì họ cũng đã và đang thụ hưởng thừa mứa những nhu cầu. Các thái tử đảng nằm trong thành phần ít oi này. Bởi vậy chẳng dại gì mà họ không trở về nước để thụ hưởng. Không những thụ hưởng thừa mứa, mà họ còn nắm trong tay đầy quyền lực, chẳng khác gì các vua chúa, thái tử của những triều đại phong kiến ngày xưa. Ông Nguyễn Văn An nói thành phần lãnh đạo đảng là “vua tập thể” chẳng có gì là quá đáng. Bởi vậy cũng nên sửa lại một câu nói của bà phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan cho phù hợp với triều đại phong kiến cộng sản hiện nay; “Chế độ ta phong kiến gấp trăm lần các nước khác và vua chúa khác. Chúng chỉ có MỘT hoàng tộc [ngay cả Bắc Hàn cũng chỉ có một hoàng tộc], trong khi chế độ ta có vua tập thể nên có rất nhiều hoàng tộc”. Mà tất cả những thành viên trong các hoàng tộc đó họ “ăn của dân không từ một thứ gì”. - - -   Chú thích: (1) Một vài “thái tử đảng” tiêu biểu: Nguyễn Minh Triết (Phó Bí thư tỉnh đoàn Bình Định), Nguyễn Thanh Nghị (Phó Bí thư tỉnh ủy Kiên Giang, uỷ viên dự khuyết trung ương đảng). Cả hai đều là con của đương kim Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Lê Trương Hải Hiếu (Phó Chủ tịch quận 1, quận sầm uất, giàu có nhất Sài Gòn) là con của Bí thư thành phố Sài Gòn Lê Thanh Hải. Nguyễn Bá Cảnh (được chỉ định làm Ủy viên Ban chấp hành đảng bộ Đà Nẵng), là con của Trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh. (2) “VÕ THỊ THẮNG: có một nụ cười khác”, Đào Hiếu, http://daohieu.wordpress.com/2014/08/23/vo-thi-thang-co-mot-nu-cuoi-khac-2/ (3) http://quechoablog.wordpress.com/2011/10/17/n%C6%B0%E1%BB%9Bc-m%E1%BB%B9... Nguồn: viettan.org
......

14 tổ chức NGO quốc tế lại lên tiếng cho Ls. Lê Quốc Quân

Kính gởi:Ông Trương Tấn Sang Chủ tịch CHXHCN Việt Nam 02 Hùng Vương, Quận Ba Đình Hà Nội Việt Nam Ông Nguyễn Tấn Dũng Thủ tướng CHXHCN Việt Nam 01 Hoàng Hoa Thám street, Quận Ba Đình Hà Nội Việt Nam Ngày 26 tháng 8 năm 2014 Về việc bắt giam tùy tiện Ls. Lê Quốc Quân Kính thưa quí Ông, Các tổ chức ký tên trong thư này yêu cầu quí ông trả tự do cho ông Lê Quốc Quân, một luật sư nhân quyền và blogger được nhiều nể trọng. Ông Lê Quốc Quân bị bắt vào ngày 27 tháng 12 năm 2012 vì bị cáo buộc về tội trốn thuế. Sau khi bị bắt, ông bị biệt giam và không được phép gặp luật sư trong hai tháng. Lời yêu cầu của gia đình đi thăm bị liên tiếp từ chối. Ông Quân lần đầu tiên gặp người nhà trong phiên xử ngày 2 tháng 10 năm 2013, khi ông bị kết tội trốn thuế lợi tức công ty và kết án 30 tháng tù giam và nộp phạt 1.2 tỷ đồng (khoảng USD 59,000). Vào năm 2013, Ủy Ban Điều Tra về Bắt giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc đã lên án việc ông Lê Quốc Quân bị giam cầm là vi phạm quyền tự do ngôn luận và quyền được xét xử bình đẳng. Ủy Ban cho rằng ông Lê Quốc Quân trở thành mục tiêu tấn công vì việc hoạt động và viết blog, và kêu gọi thả ông ngay lập tức hoặc bản ản phải được xem xét lại bởi một tòa án độc lập. Ủy Ban còn đề nghị Việt Nam phải bồi thường thiệt hại cho ông Lê Quốc Quân vì việc bắt giữ tùy tiện này. Nhà cầm quyền Việt Nam đã không phản hồi về phán quyết này. Vào ngày 18 tháng 2 năm 2014, Tòa phúc thẩm tại Hà Nội vẫn giữ nguyên bản án đối với ông Lê Quốc Quân. Phán quyết của Ủy Ban Điều Tra về Bắt giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc đã không được lưu tâm đến. Với ngày Quốc Khánh Việt Nam ngày 2 tháng 9 năm 2014 sắp tới đây, chúng tôi một lần nữa kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam hãy tuân theo phán quyết của Ủy Ban Điều Tra về Bắt giữ Tùy tiện của Liên Hiệp Quốc và thả ông Lê Quốc Quân ngay lập tức và vô điều kiện. Chúng tôi cảm ơn sự quan tâm của ông. Một bản sao của lá thư này đã được gởi đến Tổng thống Hoa Kỳ và đại diện Liên Hiệp Châu Âu tại Hà Nội. Trân trọng,   Amnesty International USA Lawyers’ Rights Watch Canada (LRWC) Article 19 Media Defence – Southeast Asia (MDSEA) Center for International Law (Centerlaw), Philippines Media Legal Defence Initiative (MLDI) Electronic Frontier Foundation National Endowment for Democracy (NED) English PEN Reporters Without Borders Front Line Defenders Réseau Avocats Sans Frontières / ASF Network Lawyers for Lawyers (L4L) World Movement for Democracy (BBT-WebVT chuyển ngữ) Nguồn: viettan.org
......

Tinh thần Bùi Thị Minh Hằng - Kỳ 1: Đào thoát

Phiên sơ thẩm xử Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh (từ giờ xin viết tắt là BTMH, NVM và NTTQ) đã kết thúc với bản án rất nặng. Đây là vụ án được quan tâm đặc biệt. Sự quan tâm đó đến cả từ hai phía: phía thực hiện kịch bản mang ba người bỏ tù cho bằng được và phía bảo vệ họ.   Chưa bao giờ, một vụ án được nhiều người quan tâm đến thế. Ước tính khoảng 200 người gồm bạn hữu, dân oan từ khắp 3 miền đã đổ về Cao Lãnh. Họ đi bằng đủ các phương tiện, bằng đủ mọi cách để đến với BTMH, NVM và NTTQ bằng được, bất chấp hiểm nguy, vất vả. Về phía nhà cầm quyền, họ đã huy động một lực lượng cảnh sát, mật vụ khổng lồ với phương tiện đầy đủ để ngăn chặn, bố ráp, bắt bớ sao cho không một người nào ủng hộ Bùi Thị Minh Hằng bén mảng được đến khu vực tòa án. Một số người còn bị đánh đập dã man.   Xin mở đầu ghi chép này bằng câu chuyện của tôi. Kỳ 1: Đào thoát Sau 9 ngày công an tỉnh Đồng Tháp bắt BTMH, NVM và NTTQ, không thấy thả ra, tôi đã xác định bằng giá nào cũng phải có mặt tại Đồng Tháp để tham gia phiên tòa. Tôi đã nói với nhiều bạn bè ở Hà Nội, Sài Gòn về ý định này. Càng gần đến ngày xử, tôi càng nhận được những thông tin có thêm nhiều người ở Hà Nội sẽ đi Cao Lãnh với cùng mục đích. Thoạt đầu, tôi nghĩ chỉ một nhóm 5 người vào được Cao Lãnh là tốt lắm rồi. Ấy thế mà con số cuối cùng đã lên tới 20. Tất cả những người đến được Cao Lãnh đều không thể ra khỏi nhà một cách công khai. Có người phải ẩn náu tạm đâu đó mấy hôm, chờ ngày ra sân bay. Có người phải tìm mọi cách thoát khỏi nhà bằng con đường bí mật, mạo hiểm. Nhà của mình, muốn đi làm việc chính đáng mà không thể ra một cách công khai. Kẻ chính phải trốn, phải chui lủi trước sự lùng sục, bố ráp của bọn tà.  Không biết ngoài đất nước này, còn nơi đâu như thế nữa không. Tuy nhiên, chúng tôi trốn không phải vì sợ bị bắt mà mối lo duy nhất là không đến được với những người bạn của mình bị đưa ra xét xử một cách vô luật. Đang háo hức chờ ngày đi Cao Lãnh thì ngày 12/8 tôi đột nhiên bị bệnh, đã tưởng phải bỏ cuộc. Rất may bệnh của tôi, nhờ được sơ cứu và cấp cứu kịp thời nên tôi chỉ phải nằm viện 1 tuần. Còn tôi, sau khi qua giai đoạn cấp cứu, ngày nào tôi cũng gạ gẫm bác sĩ xin ra viện. Có lần đến nhà vệ sinh, gặp bác sĩ, tôi cố đi ra vẻ hùng dũng như người khỏe mạnh bình thường thì suýt bị ngã, may mà thằng con đi theo trông chừng đỡ kịp. Rất nhiều bạn bè khuyên tôi mới bệnh dậy cần phải ở nhà dưỡng bệnh, đề phòng bệnh tái phát. Nhưng chẳng có thể ai khuyên được tôi. Tôi bảo, nếu không đi, ở nhà có khi còn bệnh thêm. Biết khuyên tôi không được, bạn bè tôi góp tiền lo cho vợ tôi cùng đi để chăm sóc tôi. Tôi cảm động lắm nhưng ai lại làm thế. Vợ tôi biết tính chồng, không dám khuyên ngăn gì. Cô ấy hiểu, khuyên gì chứ khuyên đừng đến với Bùi Thị Minh Hằng thì thế nào cũng dẫn đến cãi nhau.   Kế hoạch của tôi là ngày 24/8 sẽ bay vào Sài Gòn, nghỉ lại đó rồi ngày 25 sẽ đi Cao Lãnh để 26 đến tòa án. Sáng ngày 23 tình hình còn yên tĩnh. Nhưng khi đang ăn cơm trưa, một cháu gõ cửa vào báo có 7,8 người đang canh tôi. Việc tôi bị canh mỗi khi có sự kiện, điều đó chẳng có gì lạ. Thường là họ canh cứ canh, còn tôi đi cứ đi. Họ có thể đi theo, có thể theo dõi xem tôi đi lúc nào, bằng phương tiện gì. Chưa bao giờ tôi bị chặn, ép xe đuổi về hoặc bị "mời" đi uống nước. Tôi xác định sáng 24 sẽ vẫn ra sân bay như bình thường.   Nhưng đến chiều, vợ tôi phát hiện ra có cả xe cảnh sát cũng đỗ cùng với đám người canh cửa. Mỗi khi nhà tôi có ai mở cửa ra ngoài, tất cả đám đều nhốn nháo bật dậy, đứa thì leo lên xe máy sẵn sàng, đứa thì chạy về phía ô tô đang đỗ.   Từ sự xuất hiện của ô tô cảnh sát, tôi hiểu, chắc chắn lần này, tôi không thể ngang nhiên đi trước mặt họ như những lần trước. Họ sẽ cưỡng bức tôi lên xe mang về đồn câu lưu cho đến khi tôi muốn đi Đồng Tháp cũng không kịp nữa thì mới thả ra. Việc bắt bớ với tôi đã thành quen. Nhưng lần này bị bắt, tôi sẽ không thể tham gia vào một sự kiện lớn như thế này.   Thời gian nặng nề trôi. Đến tối, tôi vẫn chưa biết nên như thế nào. Vợ tôi hỏi: - Bây giờ làm sao hở anh? Sáng mai thì không được rồi. Tất nhiên đến nước này thì phải tính đến chuyện "dạt vòm". Nhưng ra khỏi nhà bằng cách nào bây giờ? Tôi tính đủ mọi phương án: Cải trang ư? Lúc này, bất cứ người nào ra khỏi nhà, họ cũng đều phải xác định bằng được người đó là ai. Phương án này nhanh chóng cho qua. Phía trước nhà tôi là đường quốc lộ, phía sau là một cánh đồng, đi qua cánh đồng này khoảng 300 mét thì tới con đường làng. Nhưng đây là cánh đồng hoang, cây dại mọc um tùm, không có bờ, cũng chẳng có lối mòn, nơi chỗ cao chỗ thấp mấp mô, chỗ đất cứng, có chỗ lún sụt, trời lại tối om, rắn rết chẳng biết thế nào. Phía sau nhà tôi là một hàng rào lưới B40 sát một con mương nhỏ, nhưng người vừa ở bệnh viện ra như tôi sao đủ sức vượt qua. Đến kẻ trộm cũng chẳng dám đột nhập vào nhà tôi theo hướng ấy. Phương án này cũng được bỏ qua. Chán nản, tôi bảo vợ:   - Hay là kiếm cho anh cái quan tài, anh chui vào đấy rồi gọi mấy đứa con về khiêng đi, giả như đến gửi ở nhà tang lễ Phùng Hưng. Anh vừa đột quỵ, giờ chết ai chẳng tin. Vợ tôi bảo: - Quan tài chúng cũng khám, nó tha gì. Tôi lên sân thượng, nhìn về phía đám đang canh tôi. Nào mật vụ, nào xe máy, nào ô tô lúc nào cũng sẵn sàng. Đầu óc tôi căng lên. Chợt phát hiện ra cái thang đám thợ xây hồi làm nhà xong rồi vứt luôn ở đấy, tôi phác nhanh một kế hoạch. Tôi bảo vợ: - Gọi thằng Phan (cháu vợ tôi) rủ thêm một thằng bạn nó về đây. Bảo nó đi xe nào có cốp to ấy. Vợ tôi không hiểu tôi định làm gì nhưng cũng không dám hỏi lại, liền rút điện thoại ra bấm số. Tôi cũng mở máy tính, nhắn tin cho thằng Khải dặn đón tôi ở đầu đường Hoàng Quốc Việt.   30 phút sau thì tụi thằng Phan có mặt. Tôi chia đồ đạc của tôi làm ba phần. Tư trang nhẹ nhưng cồng kềnh, chia làm 2, còn 1 phần là laptop, ipas. Cứ một phần tư trang nhét vào 1 cái cốp xe. Hai cốp xe nhét 2 nửa tư trang. Một thằng nhét laptop, một thằng nhét ipas vào bụng. Tôi dặn:   - Chúng mày đi ngược hướng rồi tìm đường khác vòng lại đầu kia. Đi song song và thong thả thôi, vừa đi vừa nói chuyện, coi như dạo chơi. Khi nào chắc chắn không có đứa nào theo thì đến chỗ ấy đợi tao. Đợi lâu đấy. Xong nhét cho mỗi đứa mẩu giấy, có ghi số sim rác của tôi:   - Không được liên lạc với bất cứ ai khác ngoài tao, nghe chưa.   30 phút sau, chúng nó nhắn tin đã đến vi trí. Tôi nhắn lại: - Dồn đồ đạc vào cho thằng Phan giữ, còn thằng kia đi chỗ khác, xa ra, đợi. Tôi tạm biệt vợ. Lúc ấy là 9 giờ tối ngày 23/8. Tôi người không, cầm theo cái thang bắt đầu di chuyển trên các trần nhà hàng xóm. Nhà nào liền nhau thì bước nhẹ nhàng, nhà nào cách hơi xa, tôi dùng thang bắc cầu. Có nhà cao thấp không bằng nhau thì dùng thang tụt dần xuống hoặc leo lên. Nhà nào cách nhau xa quá thì thả thang tụt xuống đất rồi lại bắc thang trèo tiếp. Có nhà chỗ thấp nhất cao hơn cái thang, tôi phải bám tay vào mép trần rồi dùng chân khèo lên. Bỗng có tiếng chó sủa inh ỏi. Tim tôi đập thình thịch. Họ mà ra túm được tôi với cái thang trong tay, nghĩ là trộm thì tôi ăn no đòn, hả hê rồi thì giao cho công an. Nhưng lại nghĩ, khi họ nhận ra tôi sẽ chẳng ai tin rằng người như tôi lại đi ăn trộm, nhưng đem giao cho công an vẫn là cái chắc vì họ cho rằng tôi đang hoạt động khủng bố theo lệnh từ nước ngoài. Đám đang canh tôi tha hồ nhàn và chỉ đám ấy mới biết tôi chẳng phải đi ăn trộm hay khủng bố. Tôi bình tĩnh cầm hòn đá ném ngược hướng tôi di chuyển. Tiếng chó sủa im bặt. Chắc cu cẩu chạy đến hít hít, ngửi ngửi xem có phải là khúc xương không. Đến đoạn khuất tầm mắt tụi canh tôi rồi, tôi nới vứt thang lại, lợi dụng bóng tối của các tán cây, bờ tường mò đến điểm hẹn. Tôi ngồi phắt lên sau xe, bảo thằng Phan: - Chạy lẹ, nhưng phải đảm bảo an toàn. Tao mà gãy chân, hỏng việc thì tao bỏ luôn cô mày. - Đi đâu chú - Cứ đi, không phải hỏi. Tao bảo rẽ là rẽ. Tôi lấy điện thoại của thằng Phan gọi cho thằng bạn nó: - Quay về nhà chơi với cô. Đợi thằng Phan, 1 tiếng rưỡi nữa nó sẽ về. Tôi nhắm hướng, chỉ cho nó đi theo đường mà tôi chưa đi bao giờ. Tôi không dám đi đường quen vì vẫn sợ chúng nó đuổi theo. Cuối cùng thì cũng đến đầu Hoàng Quốc Việt. Thằng Khải đã đón sẵn tôi ở đấy. Tôi  giúi vào tay thằng Phan tờ 100 k bảo: - Thôi mày về đi, giờ thì đi thong thả thôi nhé. Nói xong tôi nhảy phốc sang xe thằng Khải. Thằng Khải không đưa tôi về nhà mà ngoặt vào một ngõ nhỏ, rồi vào một ngách, lại một tiểu ngách... Cứ thế, lúc rẽ phải, lúc rẽ trái. Những con hẻm hẹp, tưởng xe này đi thì xe kia phải chờ. Ngoằn nghèo hồi lâu, nó dừng trước một ngôi nhà. Nó mở cửa, bật điện lên. Tôi theo nó vào nhà, thấy toát lên mùi hôi hôi, ngai ngái của căn nhà lâu không có người ở. Nó bảo: - Nhà cháu bị theo dõi rồi, chú không ở đó được. Đây cũng là nhà của cháu nhưng cháu chỉ để đấy, thỉnh thoảng mới cho người ở nhờ.   Nó chỉ cho tôi nơi tắm rửa, vệ sinh rồi chỉ vào cái nệm đặt ở góc nền nhà: - Chú nằm đấy nhé. Thôi cháu về đây. Vừa lúc, thằng Tú chui từ nhà vệ sinh ra. Chẳng hiểu thằng Khải tha nó nhét vào đây từ khi nào. Trông thấy tôi, nó cười rinh rích. Thằng Khải về rồi, tôi mới cắm 3G vào laptop đọc tin, thấy quân ta bị canh giữ khắp nơi, mỗi đứa bị một kiểu. Lúc này, tôi đã thấm mệt nhưng khi đặt mình xuống lại không sao ngủ được. Tôi đang tính cách ngày mai ra sân bay như thế nào, có bị đuổi theo lôi lại không. Vẩn vơ mãi lại nghĩ thằng Khải mà chơi xỏ tôi, mai nó không đến thì tôi cũng chịu vì chẳng biết ra bằng lối nào. 29/8/2014 NGUYỄN TƯỜNG THỤY Nguồn:  rfavietnam.com  
......

Đức đòi trả tự do cho B.Hằng, T.Quỳnh, V.Minh

Đại Sứ Quán Đức tại Hà Nội lên tiếng đòi trả tự do ngay 3 người tại phiên toà Đồng Tháp. Về việc ba nhà hoạt động nhân quyền tại Việt Nam bị kết án nhiều năm tù ông Christoph Strässer, phái viên về chính sách nhân quyền và viện trợ nhân đạo của Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức ngày hôm nay (27.08) đã tuyên bố như sau: „Tôi lo ngại về hình phạt tù giam nhiều năm đối với ba nhà hoạt động nhân quyền vì tội "gây rối trật tự công cộng". Như vậy ba nhà hoạt động này bị giam trong tù nhiều năm chỉ vì cản trở giao thông trong một thời gian ngắn. Điều đó hoàn toàn không tương xứng và kỳ lạ. Rất tiếc là nó cho thấy rằng, tình hình nhân quyền ở Việt Nam vẫn rất khó khăn: Những người khác chính kiến vẫn tiếp tục bị trấn áp, đe dọa hoặc bắt giam. Tôi yêu cầu các cơ quan chức trách Việt Nam đình chỉ án phạt tù và thả ngay ba người này. Việt Nam là thành viên Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc và đã ký kết nhiều công ước Liên hiệp quốc về nhân quyền. Việt Nam phải coi đó là thước đo."   *Thông tin chi tiết:* Ngày 26.08.2014 ba nhà hoạt động Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh đã bị xử tù giam 3 năm, 2 năm và 2 năm rưỡi vì tội "gây rối trật tự công cộng". Những người đến dự và quan sát viên quốc tế đã không được vào phiên tòa - tuy đây thực ra là một phiên tòa xét xử hình sự công khai. Liên minh châu Âu và các nước thành viên cho rằng có hàng chục tù nhân chính trị tại Việt Nam - đa số bị tù vì thực thi quyền tự do chính kiến và hội họp của họ. Các tổ chức phi chính phủ đánh giá Việt Nam thấp trong việc tôn trọng các quyền công dân và chính trị. Nguồn: hanoi.diplo.de *** Regierungsbeauftragter Strässer besorgt über harte Haftstrafen in Vietnam Zur Verurteilung von drei Menschenrechtsaktivisten in Vietnam zu mehrjährigen Haftstrafen erklärte der Beauftragte der Bundesregierung für Menschenrechtspolitik und humanitäre Hilfe, Christoph Strässer, heute (27.08.): „Ich bin besorgt über die mehrjährigen Haftstrafen gegen drei Menschenrechtsaktivisten wegen 'Störung der öffentlichen Ordnung'. Die drei Aktivisten sitzen nun faktisch wegen der kurzzeitigen Behinderung des Straßenverkehrs auf Jahre im Gefängnis. Das ist vollkommen unverhältnismäßig und grotesk; es zeigt leider, dass die Menschenrechtslage in Vietnam sehr problematisch bleibt: Andersdenkende werden weiterhin unterdrückt, eingeschüchtert oder weggesperrt. Ich fordere die vietnamesischen Behörden auf, die Haftstrafen auszusetzen und die drei Personen umgehend freizulassen. Vietnam ist Mitglied des UN-Menschenrechtsrats und hat zahlreiche UN-Menschenrechtskonventionen unterzeichnet. Daran muss es sich messen lassen.“ Hintergrund: Am 26.08.2014 wurden die Aktivisten Bui Thi Minh Hang, Nguyen Thi Thuy Quynh und Nguyen Van Minh zu drei  Jahren, zwei Jahren und zweieinhalb Jahren Freiheitsstrafe wegen „Störung der öffentlichen Ordnung“ verurteilt. Besucher wurden von dem – an sich öffentlichen – Strafprozess ebenso ausgeschlossen wie internationale Beobachter. Die EU und ihre Mitgliedstaaten gehen von mehreren Dutzend politischen Gefangenen in Vietnam aus – die meisten sind wegen Ausübung ihrer Meinungs- und Versammlungsfreiheit inhaftiert. Nichtregierungsorganisationen stellen Vietnam hinsichtlich der Beachtung der bürgerlichen und politischen Rechte ein schlechtes Zeugnis aus.
......

CSVN vi phạm quyền tự do đi lại

Tuyên bố liên hội Nhà báo độc lập VN - Cựu tù nhân lương tâm VN về việc nhà cầm quyền vi phạm quyền tự do đi lại của công dân Một lần nữa trong rất nhiều lần, nhà cầm quyền Việt Nam lại vi phạm nghiêm trọng quyền tự do đi lại của công dân, liên quan đến phiên tòa được xem là “công khai” ở Đồng Tháp xét xử Bùi Thị Minh Hằng và hai đồng sự của bà vào ngày 26/8/2014. Một lần nữa trong nhiều lần, thế giới và cộng đồng quốc tế, các chính phủ quan tâm đến dân chủ và nhân quyền cần biết và hiểu một cách sâu sắc về sự thật của tuyên xưng “Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con người” thực chất là thế nào, ngay cả sau khi nhà nước này có được một cái ghế trong Hội đồng nhân quyền Liên hiệp quốc và đang đón chờ những dấu chỉ hy vọng từ TPP và vũ khí sát thương.    Một lần nữa, hàng loạt nhà hoạt động nhân quyền và nhà báo độc lập thực thi quyền hiến định nhưng lại bị chính quyền và cơ quan an ninh xâm phạm nghiêm trọng khi tổ chức ngăn chặn, sách nhiễu, đánh đập nhằm không cho tham dự phiên tòa xử Bùi Thị Minh Hằng. Nhiều người bị khống chế đã trở nên quá quen thuộc như bác sĩ Nguyễn Đan Quế, Thượng tọa Thích Thiện Minh, cựu tù nhân lương tâm Phạm Bá Hải, nhà báo Trương Minh Đức, nhà báo Phan Thanh Hải, nhà báo Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo Nguyễn Tường Thụy, nhà báo Phạm Chí Dũng… Nhà văn và cũng cựu đại tá quân đội Phạm Đình Trọng, người đã hơn bảy chục tuổi, cũng trở thành điển hình bị bắt cóc, ngăn chặn thô bạo và vô pháp khi ông ra khỏi nhà. Chỉ trong trong tháng 8/2014, nhà báo Phạm Chí Dũng - chủ tịch Hội Nhà báo độc lập VN - đã bị tống gửi đến 6 giấy triệu tập của Cơ quan an ninh điều tra - Công an TP. Hồ Chí Minh, liên quan đến chuyến làm việc ở Việt Nam của Báo cáo viên đặc biệt của Liên hiệp quốc về tự do tôn giáo và phiên tòa xử Bùi Thị Minh Hằng. Chưa kể nhiều trường hợp các blogger và người cảm tình đến tham dự phiên tòa tại Đồng Tháp đã bị công an bắt giữ với nhiều cớ buộc hoặc không cần nguyên cớ nào. Sơ bộ, có đến hàng trăm người bị bắt giữ, đẩy đuổi trong bầu không khí cực kỳ căng thẳng bên ngoài phiên tòa xử Bùi Thị Minh Hằng. ***Một lần nữa trong nhiều lần, các tổ chức nhân quyền trên thế giới như Ân xá quốc tế, Quan sát nhân quyền quốc tế và cả Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam đã phải lên tiếng, lên án hành động ngăn cản phi pháp của nhà cầm quyền Việt Nam - hành vi mà không thể khác hơn là trái ngược với Công ước quốc tế về các quyền chính trị và dân sự và với chính hiến pháp của nhà nước Việt Nam. Nhận định nghiêm trọng hơn cho thấy hiện tại và trong tương lai, nhà cầm quyền Việt Nam đang và sẽ có xu hướng tổ chức ngăn chặn, đối xử thô bạo tàn nhẫn và không cần dựa theo luật pháp đối với Xã hội dân sự, giới dân chủ và bất đồng chính kiến, trong đó có các nhà báo độc lập và cựu tù nhân lương tâm, vào bất cứ khi nào xảy ra những sự kiện mang dấu ấn về nhân quyền, chính trị, pháp luật mà nhà cầm quyền lo sợ sẽ đe dọa đến chân đứng của chế độ. Chúng tôi - các thành viên của Hội Nhà báo độc lập VN và Hội Cựu tù nhân lương tâm VN - thấy cần phải thông báo khẩn cấp về ý đồ, hành động và xu hướng của nhà cầm quyền VN về đối xử vi phạm quyền tự do đi lại và một số quyền tự do cơ bản khác của công dân cho các chính phủ và cộng đồng quốc tế biết để có hành động thích đáng.  Chúng tôi cũng khẩn thiết đề nghị Quốc hội và Chính phủ Hoa Kỳ xem xét một cách cẩn trọng và có điều kiện chính sách dành cho Nhà nước Việt Nam về TPP, vũ khí sát thương, hợp tác quân sự, viện trợ không hoàn lại và cả vấn đề “đối tác chiến lược toàn diện” trong tương lai, cũng như các cuộc tiếp xúc cao cấp với giới lãnh đạo ở Việt Nam như Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bí thư Hà Nội Phạm Quang Nghị…, nếu Việt Nam không có được độ thành tâm tối thiểu để thực thi các yêu cầu cơ bản về nhân quyền và dân chủ cho công dân của họ.  Tuyên bố này không phải là duy nhất và cũng không thể là cuối cùng về những gì mà Nhà nước Việt Nam chỉ nói mà không làm, hoặc làm và nói là hai chuyện trái nghịch.  Ngày 28 tháng 8 năm 2014    Thay mặt Hội Nhà báo độc lập VN và Hội Cựu tù nhân lương tâm VN  Bác sĩ Nguyễn Đan Quế Linh mục Phan Văn Lợi Hòa thượng Thích Không Tánh Nhà báo Phạm Bá Hải Luật sư Nguyễn Văn Đài Nhà báo Phạm Chí Dũng Linh mục Lê Ngọc Thanh Nhà báo Bùi Minh Quốc Nhà báo Nguyễn Tường Thụy ***Joint statement of IJAVN and FVPoC on the Vietnam government’ violation on the right to the freedom of movement   Once again the Vietnam government seriously violate the right to freedom of movement of citizens relating to the trial, considered as "public", of Bui Thi Minh Hang and her two colleagues on Aug 26, 2014 in Dong Thap province. Once again the international community, governments interested in democracy and human rights need to know and understand deeply about the truth of the commitment that "State of Vietnam always concerns and guarantees the human rights", even after the state has been a member of the Human Rights Council and waiting for signs of hope from TPP and lethal weapons. Once again tens of human rights defenders and independent journalists were harassed, beaten in order to prevent them from attending the trial of Bui Thi Minh Hang, such as Dr. Nguyen Dan Que, Ven.Thich Thien Minh, former PoC Pham Ba Hai, journalist Truong Minh Duc, journalist Phan Thanh Hai, journalist Huynh Ngoc Chenh, journalist Nguyen Tuong Thuy, journalist Pham Chi Dung, etc. Writer and former army colonel Pham Dinh Trong (over 70 years) was also subjected to a typical abduction: manhandled and illegal prevention as soon as he left his house. Only in August 2014, journalist Pham Chi Dung - Chairman of IJAVN - has received six summonses from the HCMC interrogative department on the occasion of the Vietnam visit of the UN Rapporteur on religious freedom and of the trial of Bui Thi Minh Hang. Besides lots of bloggers and people sympathetic to attend the trial were detained without any pretext by Dong Thap police, there are hundreds of participators were detained, dragged and pushed away in the tense air outside the court. ***  Once again the human rights organizations, such as Amnesty International, International Federation for Human Rights, and United States Embassy to Vietnam had to raise their concerns on the illegal actions of the Vietnamese government that are contrary to the International Covenant on Civil and Political Rights and the constitution of the state. Based on the recent incidents it indicates that the Vietnam government tends to prevent, manhandle roughly and illegally to the civil society organizations, pro-democracy activists and dissidents, including independent journalists and former prisoner of conscience in any human rights, political or judicial event which may loose the government power. We - the members of IJAVN and FVPoV realize that it is necessary to urgently inform about intention, action of the authorities abuse human rights, the right to freedom of movement and some other basic rights of citizens so that the international community can take appropriate measure. We also urge the Congress and the government of the United States carefully and conditionally consider favorable policies for Vietnam as in TPP, lethal weapons, army cooperation, ODA, as well as meetings with senior leaders, as General Secretary Nguyen Phu Trong, President Truong Tan Sang, Prime Minister Nguyen Tan Dung, Hanoi party secretary Pham Quang Nghi, etc. if Vietnam does not have the lowest level to implement the basic requirements of human rights and democracy to their citizens. This statement is not the first and also not the last about what the Vietnam government either worded but did not take action or taken action and worded are contrary.   Dated Aug 28, 2014 Co-signed by Independent Journalists Accociation of Vietnam’s and Former Vietnamese Priosoners of Consciecnce’s representavies:  Doctor Nguyen Dan Que  Father Phan Van Loi Venerable Thich Khong Tanh Journalist Pham Ba Hai Lawyer Nguyen Van Dai  Journalist Pham Chi Dung  Father Le Ngoc Thanh  Journalist Bui Minh Quoc Journalist Nguyen Tuong Thuy Nguồn: ijavn.org
......

Về Vụ “Đặc Xá” Blogger Điếu Cày

Theo anh Nguyễn Trí Dũng cho biết hôm 28/8, Blogger Điếu Cày đã gọi điện báo cho anh rằng công an đã yêu cầu Blogger Điếu Cày làm giấy “xin tha tù” nhưng Blogger Điếu Cày không đồng ý mà lại viết đơn “yêu cầu giải quyết ra tù”. Mặc dù lời nhắn của Blogger Điếu Cày rất ngắn; nhưng chứa đựng hai nội dung quan trọng. Thứ nhất, Hoa Kỳ đã áp lực CSVN phải thả Blogger Điếu Cày, người đứng đầu trong danh sách những tù nhân lương tâm mà Bộ ngoại giao Hoa Kỳ luôn luôn đưa ra trong các buổi đối thoại nhân quyền Việt-Mỹ hàng năm. Thứ hai, Blogger Điếu Cày đã biểu hiện sự kiên cường của anh trước bạo quyền và nhất là không bao giờ bị khuất phục trước những cưỡng bức phi lý và phi nhân của bộ máy công an trong suốt thời gian anh bị chế độ trả thù vì lòng yêu nước - từ năm 2009 cho đến nay. Việc Cộng sản Việt Nam phải thả Blogger Điếu Cày trong thời gian tới không chỉ là một thắng lợi của phong trào dân chủ mà còn cho thấy là ý chí đấu tranh của Blogger Điếu Cày đã làm cho quốc tế, đặc biệt là Hoa Kỳ, phải khâm phục và xiển dương. Sự kiện Blogger Điếu Cày gọi điện thoại cho anh Nguyễn Trí Dũng xảy ra vào lúc cộng đồng Việt Nam và dư luận thế giới đang phẫn nộ về bản án dã man tại Đồng Tháp hôm 26/8, khiến một số người cho rằng công an đã dàn dựng vụ thả anh Điếu Cày để làm giảm bớt cường độ chống đối của dư luận. Cộng sản Việt Nam không ba đầu sáu tay như vậy. Đây chỉ là sự trùng hợp tình cờ; nhưng sự kiện này cho thấy là Cộng sản Việt Nam rất gian manh trong những thủ đoạn tạo hỏa mù trong dư luận khi đưa chị Bùi Minh Hằng, chị Thúy Quỳnh và anh Nguyễn Văn Minh ra xét xử vào lúc này. Chúng ta cần biến sự phẫn nộ của phiên tòa Đồng Tháp hôm 26/8 thành một chuỗi những tranh đấu để buộc CSVN phải trả tự do cho chị Bùi Hằng, chị Thúy Quỳnh và anh Nguyễn Văn Minh trong phiên tòa phúc thẩm sắp tới.   LTHhttps://www.facebook.com/lythaihung52
......

Bùi Hằng thanh thản hát khi bước vào và bước ra

Nhớ lại mấy điều đặc biệt ở phiên Tòa:   1. Nhân chứng 1 bên yêu cầu triệu tập 17 người: Tòa cho có mặt 03. Bên kia nhân chứng 32 người (trong đó 1/3 là công an huyện, xã). 2. HĐXX (03) và VKS (02) vẫn chưa chắc ăn bất ngờ cho thêm 01 LS là Chủ tịch Đoàn LS Đồng Tháp làm người bảo vệ cho 01 CA huyện là người bị anh Minh đánh đúng 1 cái vào tay (a Minh nói ko đánh ai) không có có 1 tý xây xước. Vị LS làm chức năng KSV buộc tội bị cáo chứ ko làm chức năng bảo vệ cho thân chủ (vì người CA huyện đó ko có gì cần pải bảo vệ). 3. Có 02 bản tường trình đánh máy của 02 nhân chứng là CA giống hệt nhau từng chữ, chấm, phẩy, chỉ khác ký tên.   4. Bên ngoài thì ở các ngã tư hoặc thảm cỏ vỉa hè tập chung nhưng nhóm khoảng 4-5 người cách nhau độ vài trăm mét. Khi có các LS đi qua thì họ cử 01 người giả đi tập thể dục ở đằng sau, bên cạnh để xem chúng tôi nói chuyện gì. Họ là phụ nữ khoảng trên 50 tuổi, đeo khẩu trang, đi bộ đội muc BH, chỗ tập trung nhóm của họ có nước đóng chai, giống nhau như là được phát để trực làm nhiệm vụ. Nếu nghe được gì họ sẽ đt báo cho lực lượng khác đại ý là chúng nó đang đi hướng về hướng nào, nó nói cái gì ấy, bọn này như là LS... Đặc trưng này lần đầu tôi gặp ở ngoài phiên tòa. ... 5. Bà Hằng khi bước vào phiên toà và khi ra khỏi phiên toà đều hát rất thanh thản. Trong phiên toà bà Hằng rất bình tĩnh và mạch lạc, sau khi bị tuyên án bà Hằng tươi cười và bình thản khi tay bị còng, bước ra xe tù, có người áp giải xung quanh. * * * Tôi xin chia sẻ bài bào chữa tại phiên tòa ngày 26/08/2014 tại Đồng Tháp để mong được trao đổi và học hỏi.   BÀI BÀO CHỮACho bà Bùi Thị Minh Hằng và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh tại phiên tòa HSST ngày 26/08/2014 tại TAND tỉnh Đồng Tháp Về “Tội gây rối trật tự công cộng” theo điểm c khoản 2 điều 245 - BLHS Kính thưa HĐXX,   Tôi là Luật sư Hà Huy Sơn, Công ty Luật TNHH Hà Sơn – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội xin trình bày quan điểm bào chữa cho bà Bùi Thị Minh Hằng và bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh bị cáo buộc về “Tội gây rối trật tự công cộng” theo điểm c khoản 2 điều 245 – BLHS, như sau: Điều 245. Tội gây rối trật tự công cộng 1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: ... c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng; I. Tóm tắt vụ án:   - Khoảng 08 giờ ngày 11/02/2014, xảy ra sự việc. - 11 giờ 45 Công an xã Mỹ An Hưng B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang bà Hằng, bà Quỳnh và một số người khác. - 19 giờ ngày 11/02/2014, CA huyện Lấp Vò ra QĐ 15/QĐ-TGN tạm giữ bà Hằng theo thủ tục hành chính 24 giờ (19 g 11/02/2014 – 19 g 12/02/2014); bà Quỳnh cũng vậy. - Ngày 12/02/2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lấp Vò ra Lệnh số 26/LBKC-CQĐT bắt khẩn cấp đối với bà Hằng và bà Quỳnh cũng vậy. - Ngày 21/02/2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện Lấp Vò ra QĐ 20 Lệnh tạm giam bà Hằng 02 tháng 21 ngày (21/02 – hết 12/05/2014) và bà Quỳnh cũng vậy.   II. Tố tụng hình sự:   1. Số lượng người dân theo: - KLĐT là 700 người dân (trang 04), - Cáo trạng là 500 người dân (trang 03), - BL 724 ghi lời khai của Công an viên Lê Văn Huy Tin Anh cho rằng khoảng 600 người dân. - BL 728 ghi lời khai của CA huyện Lấp Vò, Nguyễn Thành Lai: khoảng 600 người dân,… Đây là một căn cứ không khách quan, nên không thể coi là chứng cứ theo như quy định của khoản 1 điều 64 “Chứng cứ” – BL TTHS. 2. Cáo trạng (trang 04) cho rằng bà Hằng, bà Quỳnh chửi người dân địa phương là “đồ ngu dân” là không đúng vì nếu có thì cụm từ này không ám chỉ người dân. 3. Lực lượng tuần tra giao thông đường bộ tuyến đường liên huyện thông thường không cần thiết phải mang theo đến 04 máy camera ghi hình, ghi âm nếu không có một mục đích được xắp đặt trước. Việc này cho thấy có dấu hiệu Công an huyện Lấp Vò có đã chuẩn bị trước để tìm kiếm chứng cứ nhằm ghép tội cho bà Hằng, bà Quỳnh, ông Minh và những người cùng đi. 4. Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 11: 45 ngày 11/02/2014 của Công an xã Mỹ An Hưng B đối với bà Hằng, bà Quỳnh và những người cùng đi được lập tại ấp An Quới là sai với quy định của khoản 1 điều 82 – BL TTHS: “Điều 82. Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã 1. Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.” 5. Quyết định số 15/QĐ-TGN ngày 11/02/2014, tạm giữ người theo thủ tục hành chính đối với bà Hằng (bà Quỳnh cũng vậy) 24 giờ từ 19 giờ ngày 11/02/2014 đến 19 giờ ngày 12/02/2014 là sai với quy định tại khoản 1 điều 122 Luật xử lý vi phạm hành chính 2012: “Điều 122. Tạm giữ người theo thủ tục hành chính 1. Việc tạm giữ người theo thủ tục hành chính chỉ được áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn, đình chỉ ngay những hành vi gây rối trật tự công cộng, gây thương tích cho người khác.” Vì sự việc xảy ra đến 12 giờ 30 ngày 11/02/2014 trở giao thông đã được giải tỏa. 6. Bà Hằng, bà Quỳnh vừa bị bắt theo trường hợp phạm tội quả tang (theo điều 82 – BL TTHS) lại vừa bị bắt theo Lệnh bắt khẩn cấp (theo điều 81-BL TTHS) là vô lý nó thể hiện quyết tâm bắt người bằng được của cơ quan công an Đồng Tháp. III. Yếu tố cấu thành tội phạm:   1. Mặt khách quan của tội phạm: Cáo trạng cho rằng ách tắc giao thông đến 12 giờ 30, khoảng 2 giờ 30 phút. Kết luận này chỉ dựa vào lời khai của những người làm chứng, nhưng những người làm chứng không có căn cứ nào để chứng minh là ắch tắc giao thông từ khoảng 10 giờ đến 12 giờ 30. 1.1. Cơ quan điều tra chỉ dựa vào các lời khai của những người làm chứng, nhưng những người làm chứng hôm đó không có máy ghi hình, kèm đồng hồ đo thời gian để chứng minh mà chỉ khai theo cảm tính. Người làm chứng không có bằng chứng khách quan nào để xác định giờ nào bắt đầu ắch tắc giao thông hoặc giờ nào thì giải tỏa. Theo khoản 2 điều 67 “Lời khai của người làm chứng” – BL TTHS: “Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.” Do vậy, các lời khai đó không được coi là chứng cứ. 1.2. Lực lượng tuần tra hôm đó không lập biên bản về việc ắch tắc giao thông nên không có căn cứ xác định ắch tắc giao thông 2 giờ 30 phút.   2. Mặt chủ quan của tội phạm: “Tội gây rối trật tự công cộng” theo điểm c khoản điều 245 – BLHS phải là lỗi cố ý. 2.1. Nếu xảy ra việc vi phạm giao thông: đi xe mô tô dàn hàng ba thì bà Hằng, bà Quỳnh cũng không phải là người có liên quan. 2.2. Cáo trạng cho rằng đã có khoảng 500 người dân kéo đến xem và người đi đường không đi được phải dừng phương tiện giao thông làm cho người tham gia giao thông trên đường không thể qua lại được trên huyện lộ DH67B thuộc huyện Lấp Vò. Hay nói cách khác đây là do hiếu kỳ của người dân địa phương chứ không phải lỗi của bà Hằng, bà Quỳnh. Sáng ngày 11/02/2014, bà Hằng, bà Quỳnh và mọi người cùng đi đến Lấp Vò đã xuất phát từ Tp.HCM ngày 10/02.2014 để về thăm người quen ở Lấp Vò nên vô lý họ mới cố ý gây ra cản trở giao thông để để phá hỏng chuyến đi của mình. 2.3. Cáo trạng không chứng minh được hành vi của bà Hằng, bà Quỳnh: “có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;” theo quy định khoản 2 điều 63 “Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự” – BL TTHS “Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh: 2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;” 2.4 Nếu ngày 11/02/2014, có gây ra cản trở giao thông thì đối với bà Hằng, bà Quỳnh không phải là lỗi cố ý nên về mặt chủ quan của tội phạm không cấu thành tội theo điều 245 – BLHS. Mặt khác lực lượng tuần tra có nhiệm vụ bảo đảm an toàn giao thông thuộc phạm vi địa bàn tuần tra, kiểm soát theo khoản 2 điều 4 Thông tư 65/2012/TT-BCA ngày 30/10/2012 của Bộ Công an, quy định:   “Điều 4. Nhiệm vụ Cán bộ thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát giao thông đường bộ có các nhiệm vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân và nhiệm vụ cụ thể sau đây: 2. Bảo đảm trật tự, an toàn giao thông thuộc phạm vi địa bàn tuần tra, kiểm soát; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.” 2.5. Nếu sáng ngày 11/02/2014, lực lượng tuần tra giao thông xác định được nhiệm vụ chính là bảo đảm an toàn giao thông trên huyện lộ DH67B, không xử phạt trường hợp đi xe mô tô dàn hàng 3 thì đã không xảy ra ách tắc giao thông.   IV. Kiến nghị:   Kính thưa HĐXX, Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và thẩm vấn tại phiên tòa hôm nay, mọi chứng cứ để cáo buộc bà Hằng, bà Quỳnh chỉ duy nhất dựa vào lời khai của các nhân chứng do Cơ quan điều tra xắp đặt. Lỗi gây ra ách tắc giao thong ngày 11/02/2014, nếu có không phải lỗi cố ý của bà Hằng, bà Quỳnh mà là lỗi của lực lượng Công an tuần tra giao thông. Thế giới ngày nay là một thế giới phẳng, sự việc xảy ra ở nơi thì cả thế giới đều biết đến. Công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của Việt Nam chịu sự ảnh hưởng rất lớn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Nếu phiên tòa hôm nay không khách quan, không có công lý sẽ không thuyết phục được người dân và làm mất đi đáng kể sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Vụ án này thu hút sự quan tâm rất lớn của dư luận trong nước và quốc tế. Về nhân thân bà Hằng, bố đẻ là người có công với chế độ, bản án ngày hôm nay nếu là một án oan thì sẽ là một báo oán, vì vậy tôi mong HĐXX xem xét. Về nhân thân bà Quỳnh, chưa có tiền án, tiền sự; gia đình có công với chế độ. Với các luận cứ tôi đã trình bày ở trên: 1- Căn cứ khoản 1 điều 227 – BL TTHS tôi đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bà Bùi Thị Minh Hằng và bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh vì các bị cáo không có tội. 2- Đề nghị Tòa trả lại các đồ vật tạm giữ cho bà Bùi Thị Minh Hằng và bà Nguyễn Thị Thúy Quỳnh. 3- Đề nghị Tòa ra quyết định khởi tố vụ án “Cố ý gây thương tích và cướp giật tài sản” mà bị hại chính là bà Hằng, bà Quỳnh và những người cùng đi. Tôi xin chân thành cám ơn các sự lắng nghe của các quý vị,   Tp. Cao Lãnh, ngày 26/08/2014 Người bào chữa Luật sư Hà Huy SơnTheo FB Hà Huy Sơn
......

Thảm đỏ cho một giàn khoan Tàu trên đất liền Việt Nam?

Theo tin từ mạng vietnam.net thứ Hai vừa rồi: hơn 10.000 lao động nước ngoài trong đó 90% là người Tàu vừa được tuyển dụng bởi công ty Formosa ở Vũng Áng, Hà Tĩnh, chỉ chưa quá hai tháng sau những sự cố đẫm máu mà khu công nghiệp này là sân khấu.   André Menras  Hồ Cương Quyết   Bắc Kinh trở lại, đầu ngẩng cao, nanh sắc nhọn Trong một hoàn cảnh hợp tác lành mạnh giữa hai nước láng giềng và khuôn khổ trao đổi hai bên cùng có lợi, thì cái tin này lẽ ra có thể gây nên niềm lạc quan và thậm chí cả hy vọng của cư dân địa phương và của các nhà quan sát nước ngoài. Nhưng sự xâm nhập bạo liệt của giàn khoan Tàu cùng với đội tàu chiến hộ tống vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, sau những vụ gây hấn với Viking 2, Bình Minh 2, gây hấn với dân chài miền Trung Việt Nam đang tiếp tục xảy ra, thì sự trở lại của đoàn ngũ « lao động » Tàu – mà việc ra đi trước đây đã được tuyên truyền mạnh mẽ - mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Bắc Kinh trở lại, đầu ngẩng cao và nanh vuốt thật sắc nhọn. Nó đánh dấu lãnh thổ của mình ngay trong lòng Việt Nam!   Bình cũ rượu cũ: "Nĩ hảo ma? Huānyíng! " [Chào bạn, khoẻ không ? Xin hoan nghênh !] Những mối nghi ngờ cất lên từ một số công dân VN vậy là được xác nhận : cuộc mặc cả đã rõ ràng được tiến hành. Trong giai đoạn giàn khoan HKSY981, sự im lặng kéo dài của người trách nhiêm lớn nhất của « đảng lãnh đạo » trong những ngày đầu của vụ xâm nhập này có một ý nghĩa. Sự im lặng tiếp theo sau vụ rút lui đột ngột của giàn khoan và việc thả cũng đột ngột 13 dân chài VN bị giam giữ ở Hải Nam cũng có một ý nghĩa. Chúng rất giống với những tín hiệu của sự nhượng bộ từ phía VN sẽ tiếp theo sau, tức là những sự bỏ mặc chủ quyền thực tế mới. Những tuyên bố chắc nịch và xứng đáng từ chối một « tình hữu nghị viển vông » đổi lấy việc bỏ mặc chủ quyền, những tuyên bố chính trị bắt buộc tạo nên sức động viên trong và ngoài nước, nhanh chóng nhường chỗ trong miệng cũng nhà hùng biện có giọng phẫn nộ ấy, cho lời kêu gọi cảnh sát đàn áp các « phần tử tay sai của thế lực phản động nưóc ngoài » bla-bla-bla... Bình cũ rượu cũ. Không còn chuyện thử kiện Tàu ra toà án quốc tế. "Nĩ hảo ma? Huānyíng! ". Hoan nghênh… các đồng đô la Tàu. Cuộc gây hấn mới mà dự án công nghiệp Hà Tĩnh gây nên chứng tỏ, nếu như vẫn còn cần phải chứng tỏ, rằng các nhà lãnh đạo ĐCSVN không thể hiện sự khác biệt chủ yếu với nhau về sự phụ thuộc vào chính quyền Tàu. Tất cả họ đều là cái rờ mọoc chính trị của các nhà lãnh đạo Bắc Kinh, buộc chặt vào đấy bởi những cuộc mặc cả cũ và rất mới, những cuộc mặc cả trong bóng tối cũng như không thể thú nhận. Những lời lẽ loanh quanh giả xã hội chủ nghĩa giả hữu nghị không còn che đậy được thực tế của mối quan hệ chủ-tớ. Và với các nhà dân chủ đáng thương, chỉ còn bước chuyển qua dùng sức mạnh hay đàn áp để buộc phải chấp nhận cái đường lối chính trị tàn hại và đáng xấu hổ của họ: sự hợp tác trái tự nhiên.   "Thóat Trung" [tiếng Việt trong nguyên bản] hay "Cúi Trung" [nguyên bản]: một vực thẳm   Trách nhiệm Trong khi ngày càng đông đảo các công dân VN nói về "Thoát Trung" [nguyên bản], thì những người tự xưng là đại diện về chính trị của họ không ngừng đưa họ lún sâu vào một sự phụ thuộc mà quốc gia sẽ ngày càng khó rút ra. Như thế, cái hố Tàu trở thành một vực sâu giữa nhóm lãnh đạo ấy và ý chí của nhân dân. Nó ngăn cản VN phát triển lành mạnh. Nó làm VN đông cứng và cô lập với phần còn lại của thế giới. Và trách nhiệm gây ra tình huống này không thể nào rõ ràng hơn. Trong hệ thống hiện tại của đảng duy nhất được thiêng hoá bởi điều 4 Hiến pháp, mọi phe cánh, mọi nhóm lợi ích hiện diện trong lòng Bộ Chính trị phải chịu trách nhiệm về sự phụ thuộc Tàu mang tính tàn phá đất nước. Trách nhiệm tập thể nhưng nhất là trách nhiệm cá nhân. Mỗi nhà lãnh đạo phải chịu trách nhiệm cá nhân. Không một ai trong lòng quyền lực trung ương có thể giữ im lặng trước sự phản bội các khát vọng của nhân dân hay đổ lỗi cho các chính quyền vùng miền, mà không đánh mất danh dự công dân của mình.   Về phía mình, các chính quyền vùng miền, vốn đã nổi danh một cách đáng buồn vì sự hối thúc tàn bạo tịch thu đất đai của cải của nông dân, không thể viện dẫn quyền tự do kinh doanh cho những doanh nhân Tàu rõ ràng đang phục vụ cho chiến lược của Bắc Kinh. Họ sẽ không thể còn buộc tội quản lý yếu kém cho các ban tổ chức của các khu kinh tế địa phương khi xảy ra các sự cố sẽ không thể không xảy ra giữa bọn chiếm đóng không được mong muốn và một quần chúng địa phương bực tức vì sự chung sống bị áp đặt ấy ; từ thực tế sống, quần chúng cảm nhận điều này như một sự khiêu khích thường trực đối với tình tự dân tộc và với những lợi ích tức thời của mình. Tóm lại, trong lòng các cấp của Đảng từ trên xuống dưới, không ai còn có thể chơi trò đà điểu trước cái điều mà nhiều công dân và một số chiến sĩ dũng cảm đã tố cáo từ lâu: hiểm hoạ chết người của sự Tàu hoá đang đe doạ quốc gia. Sự xâm nhập của giàn khoan đã đem đến cơ hội tái cân bằng nền kinh tế bằng cách dần dần lấy lại thế làm chủ. Cơ hội đã bị ĐCSVN dứt khoát khước từ. Tiến tới những « Ukraine » kiểu Tàu ?   Mượn cái cớ giả dối là phát triển, đảng này, ngày càng « lạ » đối với quốc gia và dân tộc mình, liên tục mở cửa nhập khẩu một lượng lao động Tàu thường không có chuyên môn, số cư dân bùng nổ trong xã hội VN, một xã hội đang làm mồi cho cuộc khủng hoảng toàn cầu trong đó nạn thất nghiệp đánh vào hằng trăm ngàn người trẻ buộc phải đi bán sức lao động ở nước ngoài… Trong một đất nước mà hằng nghìn hecta phần lớn nằm ở những vùng chiến lược đã được đem cho thuê nhiều thập niên, tức là trên thực tế bị nhượng cho bọn bành trướng Bắc Kinh đeo mặt nạ, các nhà lãnh đạo VN đang cầm quyền lại còn khuyến khích cho làn sóng mạnh thêm… Bao nhiêu giàn khoan Tàu trên đất liền đã từ nhiều năm nay lặng lẽ khoan vào di sản cha ông của VN để hút lên tài nguyên ? Và thế đó, sau khi đã bán đổ bán tháo những tài nguyên thiên nhiên, năng lượng và kỹ nghệ của quốc gia, các nhà lãnh đạo nước này sắp sửa bật đèn xanh để hy sinh thêm nữa những nguồn nhân lực… và thậm chí còn hơn thế nữa. Hằng nghìn gia đình Tàu mới sắp được định cư. Những gia đình khác sắp được lập nên tại chỗ. Họ sắp làm việc trong các khu kinh tế mà người VN bình thường sẽ bị trục ra ngoài và các chính quyền địa phương sẽ chỉ có thể vào sau khi đã lễ phép chìa chân ra cho họ khám. Họ sẽ sống theo kiểu Tàu trong những con phố, khu phố, quận huyện tự quản mà chính quyền VN thực sự chỉ là những kẻ làm công dễ bảo… Đôi khi, do được Bắc Kinh ngầm khuyến khích bằng tài chính, những cộng đồng Tàu này sẽ sống trong các điều kiện ưu việt hơn hằng ngàn gia đình VN quằn quại bởi nạn thất nghiệp và đồng lương chết đói… Họ sẽ áp đặt ở đó luật lệ kinh tế và do đó áp đặt những chọn lựa chính trị của mình. Những kẻ chiếm đóng mới ấy sắp chủ động gieo trên đất VN một dòng giống Tàu, dòng giống này có thể một ngày nào đó – tại sao không hình dung trước nhỉ ? – sẽ đòi quyền lãnh thổ. Xứ Ukraine kiểu Tàu. Tàu hoá bằng huyết thống. Trong trường hợp có những sự ngập ngừng ở cấp địa phương hay kháng cự ở cấp toàn quốc trước mỗi chấn động mới của nền chính trị Đại Hán [nguyên văn], các nhà lãnh đạo VN không thể không tính đến sức mạnh gây bất ổn của những cái túi thuốc nổ bằng người ở trên đất liền mà mồi lửa có thể được châm từ Bắc Kinh và được tiếp sức tại chỗ bằng những tên mật vụ địa phương người Tàu hay người Việt đánh thuê. Và lúc đó không phải là vài cuộc biểu tình « nhấn nút », « đuợc phép » của Hà Nội để gỡ mặt mũi như vào thời điểm giàn khoan HYSY981, sẽ đưa đến sự thay đổi. Vũng Áng xác nhận : con vịt VN sẽ bị quay kiểu Tàu ! Việc trở lại của người lao động Tàu ở Vũng Áng là một thông điệp rõ ràng xác nhận sự đồng loã quả tang: Bắc kinh và Hà Nội thoả thuận về điều cốt yếu : « hiện đại hoá » và « phát triển » của VN sẽ được nấu bằng nước xốt Tàu, vì lợi ích « Đại cục » [nguyên văn], mà nhịp điệu được xác định bởi các nhà lãnh đạo Tàu và được hợp thức hoá bởi các nhà lãnh đạo ĐCSVN sau lưng nhân dân mình. Cái ĐCSVN ngày hôm nay, không thể nhận ra nếu so sánh với cái đảng hôm qua, gánh mọi trách nhiệm lịch sử và sớm muộn sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử…   Ghi chú của tác giả dành cho các cư dân VN gốc Tàu và những người lao động Tàu chân chính :   Xin các công dân VN gốc Tàu giản dị không phật lòng vì vài dòng phẫn nộ trên. Chúng không hề nhắm tới họ. Xin những người lao động Tàu bị bóc lột bởi một chế độ độc tài không coi những lời này như kêu gọi chủ nghĩa chủng tộc. Tác giả ở đây chỉ chỉ thẳng một thực tế : các nhà lãnh đạo của hai đảng CS Tàu và VN này không động tâm khi sử dụng quyền lực toàn trị của họ cho những mục đích lợi lộc riêng tư đi ngược lại các lợi ích nhân dân hay quốc gia… Trong khi che giấu những trách nhiệm khủng khiếp của mình, họ sử dụng những người này nhằm cố tình làm trầm trọng thêm sự đói nghèo, thất vọng, sỉ nhục của những người khác. Họ không chuẩn bị tình bạn mà lòng thù hận. Họ không chuẩn bị hoà bình mà những tấn bi kịch mới cho cả hai cộng đồng.   A.M. Tác giả gửi BVN bản tiếng Pháp Bản dịch của BVN ******* Tapis rouge pour une nouvelle plateforme chinoise sur les terres continentales du Vietnam ? André Menras – Hồ Cương Quyết L'information est donnée par vietnam.net ce lundi: plus de 10000 travailleurs étrangers dont 90% de Chinois vont être embauchés par la société Formosa à Vũng Áng province de Hà Tĩnh, moins de deux mois après les incidents sanglants dont cette zone industrielle a été le théâtre. Pékin revient la tête haute et les crocs acérés Dans un contexte de saine coopération entre deux pays voisins et dans le cadre d'échanges mutuellement profitables, cette nouvelle aurait pu susciter l'optimisme et même l'espoir des populations locales et des observateurs étrangers. Mais après l' intrusion violente de la plateforme de forage chinoise avec l'armada de navires qui l'ont accompagnée dans la zone économique exclusive du Vietnam, après les agressions contre le Viking 2, le Binh Minh 2, celles des pêcheurs du centre Vietnam qui continuent, le retour en force de ce contingent de "travailleurs" chinois, dont le départ avait été fortement médiatisé, revêt une toute autre signification. Pékin revient la tête haute et les crocs bien aiguisés. Il marque son territoire au cœur même du Vietnam ! Vieille jarre et vieux vin: "Nĩ hảo ma? Huānyíng! " Les soupçons émis par grand nombre de citoyens vietnamiens sont ainsi confirmés: le marchandage a bien eu lieu. Lors de l'épisode de la plateforme de forage HKSY981, le long silence du plus grand responsable du "parti dirigeant" dans les premiers jours de cette intrusion avait un sens. Celui qui a suivi le retrait subit de la plateforme et la libération tout aussi subite des 13 pêcheurs vietnamiens détenus à Hai Nan avait aussi un sens. Ils étaient vraisemblablement les signes annonciateurs des concessions vietnamiennes qui allaient suivre, c'est à dire de nouveaux abandons de souveraineté réelle. Les déclarations de refus ferme et digne d'une " amitié illusoire" en échange d'abandons souverains, déclarations politiciennes obligées étant donné la force de la mobilisation dans le pays et à l'étranger, ont vite laissé place dans la bouche du même orateur aux accents indignés à des invites policières pour réprimer les" agents-des-forces-réactionnaires-de-l'étranger-bla-bla-bla...). Vieille jarre et vieux vin . Plus question d'intenter un procès à la Chine devant la cour internationale. "Nĩ hảo ma? Huānyíng! ". Bienvenue... aux dollars chinois. La nouvelle agression que constitue le projet industriel de Ha Tinh prouve si c'était encore nécessaire que les dirigeants du PCV ne présentent pas entre eux de différences essentielles concernant la dépendance à la Chine. Ils sont tous politiquement à la remorque des dirigeants de Pékin auxquels ils sont puissamment liés par des tractations anciennes et d'autres très récentes, toutes aussi obscures qu'inavouables . La vieille phraséologie pseudo socialiste et pseudo fraternelle ne cache plus la réalité de ces relations de type suzerain-vassaux. Et il ne reste plus à ces piteux démocrates que le passage en force ou la répression pour faire accepter leur désastreuse et honteuse politique de collaboration contre nature. "Thóat Trung", "Cúi Trung", se dégager de la Chine ou s'y soumettre : un abîme. Responsabilités Alors que les citoyens du Vietnam sont de plus en plus nombreux à parler de "Thoát Trung", sortir de la Chine, ceux qui se proclament être leurs représentants politiques ne cessent de les enfoncer dans une dépendance dont la nation aura de plus en plus de mal à s'extirper. Ainsi, le fossé chinois devient un abîme entre ce groupe de leaders et la volonté populaire. Il empêche le Vietnam de se développer sainement. Il le fige et l'isole du reste du monde. Et la responsabilité de cette situation est on ne peut plus claire. Dans le système actuel du Parti unique sacralisé par l'article 4 de la Constitution, toutes les factions, tous les groupes d'intérêt présents au sein du bureau politique doivent porter la responsabilité de cette dépendance chinoise désastreuse pour le pays. Responsabilité collective mais surtout individuelle. Chaque dirigeant est individuellement responsable. Personne au sein du pouvoir central ne peut, sans perdre son honneur citoyen, ni garder le silence devant cette trahison des aspirations populaires ni en rejeter la faute sur les autorités régionales. De leur côté, les autorités politiques régionales, déjà tristement célèbres par leur empressement violent à réquisitionner les terres et les biens paysans, ne peuvent invoquer le droit à la libre entreprise pour des hommes d'affaires chinois clairement au service de la stratégie de Pékin. Elles ne pourront pas non plus incriminer de mauvaise gestion les comités d'organisation des zones économiques locales lors des incidents qui ne manqueront pas de se produire entre des occupants indésirables et une population locale excédée par cette cohabitation imposée, vécue comme une provocation permanente à son sentiment national et à ses intérêts immédiats . En bref, au sein des instances du Parti, du plus haut au plus bas, personne ne peut plus jouer l'autruche devant ce que nombre de citoyens et certains militants courageux ont déjà dénoncé depuis longtemps: le danger mortel de sinisation qui menace la nation. L'intrusion de la plateforme de forage avait donné l'occasion de rééquilibrer l'économie en en reprenant graduellement la maîtrise. L'occasion est délibérément rejetée par le PCV. Vers des "Ukraine" à la chinoise? Sous prétexte fallacieux de développement, ce parti, de plus en plus " étrange" pour sa nation et son peuple, ouvre continuellement la porte à l'importation d'une main d'œuvre chinoise souvent non qualifiée, population explosive dans la société vietnamienne en proie à une crise globale où le chômage frappe des centaines de milliers de jeunes obligés d'aller vendre leur force de travail à l'étranger... Dans un pays où des milliers d'hectares situés pour la plupart dans des zones stratégiques, ont déjà été loués pour des décennies, c'est-à-dire en réalité cédés aux expansionnistes de Pékin masqués ou non, les dirigeants vietnamiens au pouvoir encouragent encore l'intensification du flot... Combien de plateformes terrestres chinoises ont, depuis des années et en toute tranquillité foré le patrimoine vietnamien pour en ponctionner les richesses? Et voilà qu'après avoir bradé des pans entiers des ressources naturelles, énergétiques et industrielles nationales, les dirigeants de ce pays vont donner le feu vert pour sacrifier plus encore les ressources humaines... et même au-delà. Des milliers de nouvelles familles chinoises vont s'installer. D'autres vont se créer sur place. Elles vont travailler dans des zones d'où les Vietnamiens ordinaires seront exclus et où les autorités locales n'auront accès qu'après avoir poliment montré patte blanche. Elles vont vivre à la chinoise dans des rues, des quartiers, des districts chinois autogérés où les autorités vietnamiennes seront en fait de dociles salariés à leur service... Souvent, parce qu'encouragées financièrement en sous-main par Pékin, ces communautés chinoises vivront dans de biens meilleures conditions que les milliers de familles vietnamiennes touchées de plein fouet par le chômage et les salaires de misère. Elles vont y imposer leur loi économique et donc leurs options politiques. Ces nouveaux occupants vont ainsi fixer en maîtres sur la terre vietnamienne une descendance chinoise qui pourra un jour -pourquoi ne pas l'envisager ?- exiger le droit du sol. Ukraine à la chinoise. Sinisation par le sang. En cas de réticences populaires locales ou de résistance nationale marquée à chaque nouvelle secousse de la politique Đại Hán, les dirigeants vietnamiens ne peuvent pas ignorer le pouvoir déstabilisateur de ces poches continentales d'explosifs humains dont la mèche peut être allumée à partir de Pékin et relayées sur place par les services d'agents locaux, chinois ou vietnamiens mercenaires. Et ce ne sont pas les quelques manifestations "presse- bouton", "autorisées" à ce moment-là par Ha Noi pour sauver la face comme au moment de l'intrusion de HYSY981 qui donneront le change. Vũng Ánh confirme: le canard vietnamien sera laqué ! La nouvelle du retour en force de travailleurs chinois à V ũng Ánh est un message clair qui confirme une complicité flagrante : Pékin et Ha Noi sont d'accord sur l'essentiel: "la modernisation" , le "développement" du Vietnam se feront à la sauce chinoise, au profit d'une " Đại cục", (situation générale), chinoise dont le rythme est défini par les dirigeants chinois et validé, bon gré mal gré, par ceux du PC vietnamien dans le dos de leur propre peuple. Ce parti communiste vietnamien d'aujourd'hui, méconnaissable par rapport à celui d'hier, en porte toute la responsabilité historique et devra tôt ou tard l'assumer... Note de l'auteur à l'intention des résidents vietnamiens d'origine chinoise et des vrais travailleurs chinois. Que le simple citoyen vietnamien d'origine chinoise ne prenne pas ombre de ces quelques lignes d'indignation. Elles ne sont aucunement dirigées contre lui. Que les travailleurs chinois exploités par un régime de dictature ne considèrent pas ces propos comme des incitations au racisme. L'auteur ne fait ici que pointer du doigt une triste réalité: les dirigeants des deux partis communistes chinois et vietnamien utilisent sans état d'âme leur pouvoir sans partage à des fins de profit privé à l'encontre des les intérêts populaires ou nationaux... Tout en masquant leurs terribles responsabilités, ils utilisent les uns pour aggraver délibérément la misère, le désespoir, l'humiliation des autres. Ils ne préparent pas l'amitié mais la haine. Ils ne préparent pas la paix mais de nouvelles tragédies pour les deux communautés. Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

“Tự do cho Điếu Cày”: Hy vọng “đặc xá” lớn dần

Đã đến công đoạn “xin tha tù” Ảnh Blogger Điếu Cày (VNTB) - Sáng hôm 28/8/2014, tức chỉ còn vài ngày nữa sẽ đến Quốc khánh Việt Nam 2/9, trang Facebook của Nguyễn Trí Dũng, con trai của người khởi xướng “Câu lạc bộ nhà báo tự do” Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, loan tin: “Cách đây 5 phút, cha tôi là ông Nguyễn Văn Hải đã gọi điện về nhà và báo cho gia đình biết Bộ công an đã vào phòng giam để yêu cầu viết đơn "xin tha tù" nhưng bất thành. Cha tôi nhận định bản thân ông không có tội và bị bắt giam một cách tùy tiện không bản án. Vậy nên đơn duy nhất ông viết là đơn "yêu cầu giải quyết ra tù". Ông gửi lời cám ơn đến các tổ chức và các nhân vật đấu tranh và ủng hộ dân chủ trong và ngoài nước và nhắc lại những điều khoản trong Hiến Pháp cũng như luật pháp quốc tế mà nhà cầm quyền Việt Nam đã vi phạm khi đàn áp bắt bớ những người đấu tranh dân chủ, nhân quyền và truyền thông độc lập. Xin cô bác anh chị hãy lưu tâm rằng người tù có thể vẫn không được thả, nhưng họ vẫn giàn xếp tin tức để tự chúng ta tung ra để hòng giảm sự tập trung vào những người tù mới bị bắt giam vô cớ tương tự như phiên tòa xử 3 nhà bất đồng ở Cao Lãnh- Đồng Tháp vừa qua. Vậy nên khi hợp sức loan tin xin đưa kèm dòng status bên trên hướng về phiên tòa ở Đồng Tháp. Xin cám ơn!”.   Cử chỉ tương đồng Một cử chỉ tương đồng khá “thú vị” của cơ quan công an Việt Nam là vào khoảng từ đầu đến giữa tháng 6/2014, họ cũng yêu cầu Đỗ Thị Minh Hạnh - một trong những người khởi xướng phong trào công đoàn độc lập mà sau đó trở thành tù nhân bất đắc dĩ - phải ký một số giấy tờ mang tính “khoan hồng” và “xin tha tù”. Nhưng “Cánh chim báo bão” Minh Hạnh đã khước từ thẳng thừng. Cuối tháng 6/2014, Đỗ Thị Minh Hạnh nghiễm nhiên được tự do trước thời hạn án tù mà không kèm theo bất cứ điều kiện ràng buộc nào. Không những thế, vài tháng sau cựu tù nhân lương tâm này đã chính thức “khai trương” tổ chức Lao động Việt ngay tại đất nước mà hình thức công đoàn tự do vẫn bị coi là “bất hợp pháp”.   Cần nhắc lại, vào ngày 6/8/2014, trùng với thời điểm Thượng nghị sĩ Cộng hòa John McCain và đồng viện dân chủ Sheldon Whitehouse đến Hà Nội, gia đình của Điếu Cày bất ngờ nhận giấy mời của Chi cục thi hành án dân sự quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, yêu cầu thay mặt cho ông Hải đóng tiền án phí sơ thẩm và phúc thẩm hình sự để “đủ điều kiện xem xét giảm án đặc xá”. Dù chỉ là động tác hết sức “vi mô”, nhưng động thái giấy mời “đóng tiền án phí” mới diễn ra đã khiến rộ lên dự đoán về khả năng Điếu Cày có thể được trả tự do trong không bao lâu nữa. Thậm chí ngay trong tháng Tám này. “Khỏe re như con bò kéo xe” Xét về “nhân thân” và “quá trình công tác”, Điếu Cày - Nguyễn Văn Hải chính là một trong những tù nhân lương tâm kỳ cựu và có tiếng nhất ở Việt Nam, bị bắt và bị xử án đến hàng chục năm tù giam chỉ vì đấu tranh phản kháng Trung Quốc. Điếu Cày cũng là người luôn nằm trong danh sách ưu tiên mà Chính phủ Mỹ thường trao cho phía Việt Nam để đòi hỏi trả tự do. Tại cuộc Kiểm điểm định kỳ phổ quát về nhân quyền (UPR) đối với Nhà nước Việt Nam ở Geneva, Thụy Sỹ vào tháng 2/2014, đoàn Mỹ đã đặt thẳng yêu sách là Việt Nam phải phóng thích vô điều kiện các tù nhân lương tâm, trong đó có Điếu Cày. Nếu có thể so sánh, cần nhắc lại là ngay trước và sau chuyến công du Hà Nội của nữ Thứ trưởng Ngoại giao đặc trách chính trị Wendy Sherman của Hoa Kỳ đến Hà Nội vào đầu tháng 3/2014, Nhà nước Việt Nam đã phóng thích một loạt 5 tù nhân lương tâm, kể cả một người bị coi là “rất cứng đầu” như ông Cù Huy Hà Vũ. Trường hợp “người tù xuyên thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu, với 37 năm trong bốn bức tường đen đúa và bít bùng, cho biết từ trước tết 2014, ông cũng đã nhận yêu cầu từ cơ quan công an để ký giấy “xin khoan hồng”, nhưng ông đã hồn nhiên trả lời là ông có tội gì hết. Ngay sau khi ra tù, ông Cầu lập tức làm các trang mạng phấn chấn với bài hát tự sáng tác “Khỏe re như con bò kéo xe”và hình ảnh ôm guitar rất điệu nghệ của ông.   “người tù xuyên thế kỷ” Nguyễn Hữu Cầu nay đã tự do Một lần nữa, hãy quay trở lại cuộc họp báo, mà cách nào đó có thể ví với hình ảnh “bò kéo xe”, của Thượng nghị sĩ John McCain vào đầu tháng 8/2014 tại Hà Nội: “Những gì Mỹ có thể làm được tùy thuộc vào tiến bộ của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền. Mỹ đánh giá cao các tiến bộ của Việt Nam trong các tiến bộ này trong đó có tham gia ký kết công ước quốc tế chống tra tấn cũng như lĩnh vực tôn giáo. Phía Việt Nam công nhận những việc này nhiều hơn nữa, sẽ tốt cho ổn định, thịnh vượng và thành công của Việt Nam”. Nhưng tất nhiên phải là “những tiến bộ có thể chứng minh được” theo cách nói của người Mỹ. Tín hiệu tự do cho Điếu Cày cũng bởi thế đang có chiều hướng vươn tỏa vào chính những ngày này. Phạm Chí Dũng
......

Con Đường VN và bản án Đồng Tháp

PHONG TRÀO CON ĐƯỜNG VIỆT NAM Tuyên bố về phiên tòa xử các công dân Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thuý Quỳnh và Nguyễn Văn Minh Bất chấp dư luận trong ngoài nước và lời kêu gọi của các chính phủ, tổ chức quốc tế về quyền con người, sau sáu tháng bị bắt giữ, “tạm giam" trái quy định, ngày 26 tháng 8 năm 2014 chính quyền Việt Nam đã tiến hành phiên xử các công dân Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thuý Quỳnh và Nguyễn Văn Minh với tội danh “gây rối trật tự công cộng". Kết quả: ba công dân nói trên đã bị áp đặt bản án tổng cộng là 7.5 năm. Nghiêm trọng hơn, dù được thông báo là một “phiên xử công khai" nhưng ngay từ nhiều ngày trước đó chính quyền và an ninh các cấp, các nơi đã công khai đe dọa, khủng bố và ngăn chặn công chúng quan tâm đến theo dõi phiên toà. Chỉ trong 24 giờ trước khi phiên toà được mở ra tại Toà án Nhân Dân Đồng Tháp, hơn 60 công dân Việt Nam, trong số đó có 6 thành viên Con Đường Việt Nam và một số nhân chứng quan trọng của vụ án đã bị bắt giữ, cô lập, sách nhiễu không thể vào theo dõi hay tham dự phiên toà. Rõ ràng: 1. Việc bắt giữ và xét xử ba công dân nói trên là một thủ đoạn chính trị nhằm đàn áp nhà hoạt động Bùi thị Minh Hằng cùng các cộng sự, đồng thời khủng bố tinh thần của những nhà hoạt động xã hội dân sự khác đang bày tỏ chính kiến của mình một cách ôn hoà tại Việt Nam. 2. Đối với ba công dân nói trên, tất cả các quy trình từ bắt giữ đến xét xử đều là sự nguỵ tạo, dàn dựng thô thiển, vi phạm nghiêm trọng các quy định pháp lý về thời hạn tạm giam điều tra (điều 119 luật tố tụng hình sự), quyền được thăm gặp thân nhân trong thời gian tạm giam, quyền được xét xử công khai, minh bạch đúng pháp luật. 3. Đối với công chúng và dư luận quan tâm, chính quyền Việt Nam đã vi phạm trắng trợn đến quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin của người dân, chà đạp lên chính pháp luật Việt Nam (Khoản 1, điều 123 luật hình sự về “bắt, giữ, giam người trái pháp luật") và các quyền con người căn bản qua việc đánh đập và bắt giữ trái phép những người muốn tham dự phiên toà. Phong trào Con Đường Việt Nam cực lực phản đối quy trình bắt giam, xét xử, bản án bất công áp đặt của chính quyền Việt Nam đối với ba công dân Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thuý Quỳnh, Nguyễn Văn Minh và hành động ngăn chặn, bắt giữ phi pháp các công dân chung quanh phiên toà. Chúng tôi cho rằng việc nguỵ tạo tội danh, bắt giữ, xét xử thô thiển cùng các hành vi đàn áp ngăn cản công chúng quan tâm đến phiên toà là một thông điệp trái chiều mà chính phủ Việt Nam đã gửi đến dư luận thế giới trong vai trò là thành viên hội đồng nhân quyền LHQ và đặc biệt nguy hiểm khi đất nước đang cần sự ủng hộ của quốc tế trong hoàn cảnh kinh tế sa sút và chủ quyền lãnh thổ ngày càng bị xâm lấn, đe doạ hơn từ Trung Quốc như hiện nay. Chúng tôi yêu cầu: 1. Chính quyền phải làm gương trên hết trong việc tôn trọng pháp luật để gìn giữ kỷ cương, đặc biệt trong một xã hội đang có rất nhiều biểu hiện tiêu cực, thiếu ý thức tôn trọng luật pháp như hiện nay. Cụ thể: phải lập tức huỷ bỏ bản án và trả tự do không điều kiện cho ba công dân trên. 2. Chính quyền Việt Nam phải chấm dứt các hành vi sách nhiễu, vi phạm quyền con người của các công dân, bao gồm quyền tự do đi lại, quyền được thông tin, quyền được xét sử minh bạch công bằng, tôn trọng các thoả ước quốc tế về hạn định giam giữ, thủ tục tố tụng… để nhanh chóng hoà nhập cùng thế giới tiến bộ trong việc bảo vệ các giá trị phổ quát của quyền con người. 3. Con Đường Việt Nam cùng các tổ chức dân sự khác kêu gọi Liên Hiệp Quốc, các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ tiếp tục tạo sức ép để chính quyền Việt Nam phải nghiêm chỉnh tuân thủ và thi hành các nghĩa vụ quốc tế của mình, chấm dứt việc truy bức, bỏ tù công dân mình vì biểu hiện ái quốc trước xâm lược Trung Quốc hoặc vì bày tỏ khao khát dân chủ, tự do, công bằng xã hội. Ngày 27 tháng 8 năm 2014 TM. Con Đường Việt Nam Lê Quốc Tuấn Phát Ngôn Viên Phong trào Con đường Việt Namhttps://conduongvietnam.orghttps://facebook.com/quyenconnguoi
......

Món quà Bùi Minh Hằng cho Bắc Kinh

NHỮNG GÌ CHO PHÉP MÌNH KẾT LUẬN SAU VỤ XỬ MINH HĂNG VÀ “ĐỒNG CHÍ” CỦA CHỊ ĐÃ GÂY RỐI TRẬT TỰ …TRUNG CỘNG? Sở dĩ mình dùng cái tít dài dòng này chính là để nhấn mạnh: 1- Thực chất cuộc xử án “gây rối trật tự công cộng” này: CHÍNH LÀ XỬ ÁN MỘT TRONG NHỮNG NGƯỜI CHỐNG TÀU XÂM LƯỢC CAN TRƯỜNG NHẤT, NỔI TIẾNG NHẤT VÀ ĐƯỢC CẢ THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC CHÚ Ý THEO DÕI NHẤT, 2- Kết luận của cái gọi là “Tòa án” của đảng họ không thể nặng như vụ “trốn thuế của Điếu Cầy hoặc vụ “2 bao cao-su đã xử dụng” ngụy tạo với Cù Huy Hà Vũ mà nó phải đôi co mãi trong những tên “chóp bu” sẽ phải đánh mấy roi thì vừa lòng cả Thiên Triều lẫn dân VN, sau khi có vụ giàn khoan HD 981 đã đoàn kết hàng triệu người trên tinh thần “đoàn kết một lòng khi Tổ Quốc đứng trước nạn ngoại xâm”. 3- Và QUAN TRỌNG NHẤT LÀ MỌI Ý NGHĨ, SUY ĐOÁN, PHÂN TÍCH MÒ, LÀ SẼ CÓ SỰ “THAY ĐỔI”, “CỞI MỞ’, “‘NHẸ TAY” “THOÁNG HƠN”, thậm chí “TỐT HƠN” TRONG VỤ XỬ ÁN NÀY…ĐỀU HOÀN TOÀN …PHÁ SẢN! 4- Mình muốn nhắc lại một lần nữa: KHÔNG TRÔNG MONG GÌ Ở SỰ THAY ĐỔI CỦA NHỮNG NGƯỜI CÔNG SẢN NHẤT LÀ CỘNG SẢN VIỆT NAM KHI HỌ, NHŨNG CÁI TÊN “CHA VƠ CHÚ VẾU” Ở ĐÂU ĐÓ BỖNG DƯNG TRỞ THÀNH VUA, NHỜ SỰ ĐỠ ĐẦU TOÀN DIỆN CỦA THIÊN TRIỀU!   5- Nếu thực sự có vài tên muốn “thoát Trung” bắt tay Mỹ (mà mình tuyệt đối không bao giờ tin với bản chất của chúng hiện nay) thì lập tức sẽ bị vô hiệu hóa và “cho de” ngay lập tức chứ chẳng cần chờ Hội Nghị Trung Ương số này, số khác…(“dân chủ tập trung” ngay trong đảng họ đã cho phép một vài người, đôi khi một tên “vua không ngai” cho “biến trong không khí” nhiều nhân vật “to” ra trò nhưng có ý kiến khác “vua cha”, “vua chú” vẫn còn đó như những tấm gương tầy liếp)! Do đó, trông mong vào một vài lời nói “tiến bộ vu vơ”,một chuyến đi “thăm đột xuất” của một, hai nhân vật quan trọng nào đó của cả hai bên (Vụ PQ Nghị và J.M.Cain) mà tin rằng “sẽ có thay đổi”, sẽ thôi “đu dây” phải bỏ Tầu theo Mỹ vì những mục đich, PPT và “vũ khí sát thương” gì gì đó…thì quả là… non choẹt “về nhãn quan chính trị” và vô tình đã dẫn dắt bao người vào những điều “lạc quan tếu”!....Không biết bao facebooker, blogger, trước, và ngay ngày 26/8 xử vụ MH đã tung lên mạng những “Chị Hằng sẽ được thả tại chỗ”, “Đại diện Sứ Quán Mỹ đã có mặt bí mật tại Đồng Tháp” thậm chí tổ chức “đi đón Minh Hằng và các bạn của cô”(!) rồi.. “nên Liên hoan tại Sài gòn hay Vũng Tầu..”(?!) “Người không bán nước” đã mặc cả áo dài khăn đóng, để đi đón Minh Hằng cũng xúng sa xúng xính xuất hiên trên mạng ngay bến xe Cao Lãnh!...rất chi là… phấn khởi …. tươi cười …để rồi gần như bị màng lưới dày đặc côn an và chó săn cắn người thuê, cho…. nhập kho gần hết! So với vụ xử Phương Uyên, cũng không được vào chứng kiến tại chỗ phiên xử, cũng bị canh gác các đường đẫn đến Tòa Án, nhưng lực lượng anh em ta, đã lập tức chuyển ngay sang diễu hành trên đương phố, hô to những khẩu hiệu “Tự do cho Uyên-Kha”, “Đả đảo Tầu xâm lược!”, tay giăng cao những băng-đơ-rôn đã chuẩn bị sẵn cho một cuộc đấu tranh đòi công lý, đòi quyền con người, đả đảo bọn xâm lược! Tất nhiên không phải do họ mà tòa phải thả tại chỗ bé Uyên, nhưng hành động của họ đã làm xúc động cả triệu triệu con tim người trong nước và thế giới, ngay cả dân Long An hôm ấy cũng được mở mắt và đã góp phần không nhỏ cho một hành động chưa từng có tại các thứ tòa án cộng việt! (ảnh 1) …Còn lần này….vụ vu cáo để xử MH và “đồng chí” xảy ra trong bối cảnh chính trị hoàn toàn khác (họ không muốn xử ngay những ngày giàn khoan HD981 đang còn nghênh ngang, ngạo nghễ, xấc xược trên lãnh hải của ta ) mà phải xử-trả- thù chị như một tuyên ngôn cứng rắn về thái độ của họ là CHỐNG TRUNG QUỐC THIÊN TRIỀU LÀ CHỐNG CHÚNG TAO LÀ PHẢN ĐỘNG LÀ….VÀO TÙ MỌT GÔNG! Và chúng đã ra lệnh từ trên cao tít,huy động một lực lượng côn an chưa từng có trên khắp đất nước, xử dụng lượng ngân khố khổng lồ để ngăn chặn từ từng nhà,từ trước nhiều ngày những ai chúng cho là sẽ có thể có mặt tại Đồng Tháp để thẳng tay “hốt hết”. Khi họ vừa ló mặt đến địa điểm Đồng Tháp là chúng đã cho “nhập kho”, rồi tống lên ô-tô chở thẳng về Saigon sau khi cướp sạch các phương tiên thông tin máy ảnh, smart phone! Ngoài mấy tấm ảnh ít có giá trị tố cáo, không ai kịp có một hành động nào xứng đáng với công lao chui nhủi, tránh né, bài binh bố trận để vượt qua cả hàng trăm, hàng ngàn cây số để đến được với vụ xử án ô nhục chưa từng có trên thế gian! Để rồi cuối cùng,trước bản kết tội khốn nạn của chúng nó,chỉ còn biết …lên mạng mà… “tố cáo” những hành động hèn mạt của chúng (mà chúng cho là chiến thắng vẻ vang là cái chắc) hoặc… ”chửi bậy” cho đỡ cơn bực bội!? Nhân đây, mình cũng xin bắt chước học nghề bình luận và phán đoán tí chút về vụ án “gây mất trật tự, hai xe đi hàng ba” vừa qua: 1- Vụ này trước tiên phải gọi “đích danh bà lang Trọc” của nó là; vụ án chống nước bạn 4 Tốt Trung Quốc, chỗ dựa vững chắc của cái gọi là “Đảng Cộng Sản VN”! 2- Nó được tiến hành ngày 26/8/2014,sau khi một tên dữ và xấu tướng nhất trong bộ xậu 5 vua tập thể có uy quyền nhất trong triều đình Hà-Nội vừa hoàn thành “dâng sớ khấu đầu tạ tội với Thiên Triều về những “lộn xộn vừa qua” ở Việt Nam hai ngày truớc: Từ 24 đến 25/8! Nghĩa là nó đã phản ảnh sự quy thuận Thiên Triều một lần nữa bằng hành động cụ thể đã hứa “ổn định lâu dài” với ông anh! Xem qua vài đường bị “lộ bem” nè. (ảnh 2) Ông Lê Hồng Anh tuyên bố với báo chi là chuyến đi 2 ngày từ 24 đến 25/8 là nhằm “trao đổi về các biện pháp nhằm khôi phục và thúc đẩy quan hệ hai Đảng, hai nước phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài”. Ông Anh nói thêm “việc hai Đảng, hai nước tăng cường hợp tác, duy trì quan hệ phát triển lành mạnh, ổn định là hết sức cần thiết nhất là trong bối cảnh tình hình quốc tế hiện nay và tình hình Biển Đông có những diễn biến căng thẳng, phức tạp”… (Chẳng biết khi hội đàm bí mật có thêm cái ý “căng thẳng do bọn Đế Quốc Mỹ lăm le đưa hạm đội 7 vô Cam Ranh và thằng Remsey đã vô tận Đà Nẵng theo mong muốn của “nhóm bảo thủ” không?) Còn phía Trung Cộng chúng chỉ cho một thằng Hồng Lỗi nói với giọng trịch thượng: "Trung Quốc ghi nhận công tác và thái độ của phía Việt Nam,hy vọng rằng phía Việt Nam sẽ thực hiện nghiêm chỉnh các biện pháp phù hợp". Còn một số nhà phân tích thời sự có tiếng trên thế giới thì đánh giá khách quan như sau Đặc phái viên Lê Hồng Anh có thể là quyết định của một bộ phận ban lãnh đạo Việt Nam, những người vẫn tin rằng cần giữ hòa hiếu với Trung Quốc cho dù nước này ngày càng có nhiều hoạt động độc đoán trên Biển Đông. (BBC 27/8/2014) Cho nên xử MH 3 năm tù,theo mình còn là…nhẹ!....Và sự thảo luận cân nhắc tính toán so kè bớt một thêm hai rất có thể do kéo dài từ Hà Nội đến Bắc Kinh. Hà Nội—Đồng Tháp và trong các nhóm lợi ích với nhau (chẳng có mâu thuẫn gì về chính trị mà chỉ có thể về kinh tế hơn thua mà thôi! ). Đó là lý do vì sao phiên xử phải kéo dài một cách bất thường và phải đợi cả đến tối 26/8,đúng 18g50, Tòa Án Đồng Tháp mới có thể đọc lên cái lệnh cuối cùng của “Trên”: Y án 3 năm, 2, 5, 2 năm tù giam cho các bị can! Hạ màn mọi trò diễn!! Để kết luận mấy điều tập tành phán đoán,phân tích tình hình,” Chính trị nhiễu nhương” hiện nay mình xin phép được đưa ra những kết luận có người cho là bảo thủ của mình như sau: 1- KHÔNG BAO GIỜ NÊN TIN VÀO SỰ THAY ĐỔI GÌ CỦA CÁI BỌN SỐNG NHỜ TẦU KHỰA VÀ HÃY TIN VÀO CHÚNG SẼ CHẾT CÙNG TẦU KHỰA! 2- Để giữ chặt cái triết lý “liên kết nô lệ đến cùng” để tồn tại này, chúng sẽ không nương tay với bất cứ ai chống lại chúng dù chỉ trong tư tưởng! 1- Vì quyền lợi của con cháu muôn đời của chúng, không bao giờ chúng “bắt tay”. Với những cái gì là văn minh tiến bộ của loài người và loài người cũng đã quá quen với những lời nói và việc làm của chúng luôn là mâu thuẫn, giả dối, lừa bịp nên ai chứ mấy ông Mỹ thực dụng thì thừa sức “bắt bài” chúng không mấy khó khăn! Đừng hòng bịt mắt họ mả vẫn vào được TPP,được mua vũ khí sát thương để rồi bắn vào dân Việt Nam của mình là chính! Còn chuyện “Làm gì đây” trong tình hình hện nay thì…quả là mình đã “quá đát” để nói và hành động cùng lớp trẻ hôm nay…Chỉ mong các bạn hãy vững vàng,tự tôi luyện trong các cuộc thử lửa với cái “Xấu” đang lộng hành, chuẩn bị đội ngũ,phát động được càng nhiều càng tốt tinh thần chống quân xâm lược và…. chờ thời cơ….để có thể biến một cuộc biểu tình hoan hô chủ nghĩa cộng sản thành một cuộc biểu tình đòi hạ bệ một kẻ tưởng như muôn năm bất khả xâm phạm Ceaucescu bắt vợ chồng hắn từ khán đài diễn thuyết ba hoa ngày 21/12/1989, phải chạy trốn bằng trực thăng rồi bị xử tử ở một nơi hẻo lánh Târgoviste ngày 25/12/1989!(*) Thời cơ đó sẽ đến và phải đến, đến nhanh hay chậm là do hàng ngũ chúng ta ngảy càng đông, ngày càng có nhiều các đảng viên cộng sản bỏ đảng như bên Tầu,và ngày mà bọn Tầu khựa vứt bỏ công khai cái vỏ cộng sản, đó là ngày một Timisoara Việt sẽ ra đời, chẳng cấn súng nổ, máu chảy đầu rơi, chẳng cần nhóm, Hội nào lãnh đạo, toàn dân ta sẽ đủ điều kiện để làm cuộc ĐẬP BỎ chứ không phải là “LÀM CHO TỐT LÊN”, ”SỬA CHỮA” ĐIỂM TÔ CHO CÁI THỂ CHẾ UNG THƯ GIAI ĐOẠN CUỐI NÀY! Qua lần kết án Minh Hằng, Nguyễn văn Minh và Thúy Quỳnh lần này, một lần nữa mình xin phép được kết luận dứt khoát như trên ….Ai không đồng ý, xin cứ phản biện tự nhiên, miễn là coi mình như yếu kém, lẩm cẩm về quan điểm chính trị chứ không phải là … ”phản động với lực lượng phản động”! (*) Các bạn hãy gõ một chữ Ceaucescu vào Google để click vao hàng trăm tài liệu giúp ta suy ngẫm về “thời cơ” của một cuộc cách mạng. Nguồn: FB Tô Hải
......

Mỹ lên án Việt Nam kết án 3 nhà hoạt động nhân quyền

Ngày  26/08/2014, sau khi tòa án sơ thẩm Việt Nam tại Đồng Tháp kết án tù giam ba nhà tranh đấu Bùi Thị Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh, Đại sứ quán Hoa Kỳ ra tuyên bố bày tỏ « mối quan ngại sâu sắc ». Các tổ chức bảo vệ nhân quyền Amnesty International và Human Rights Watch đồng loạt lên án Việt Nam sử dụng tội danh gây rối trật tự công cộng để đàn áp những người « thể hiện ôn hòa quan điểm chính trị », « thực thi quyền tự do hội họp » và « bày tỏ tình đoàn kết với những người có nguy cơ bị bách hại ». Hôm qua, trong một phiên xử mà luật sư cho biết đã được tiến hành chỉ nhằm để buộc tội các bị cáo, tòa án sơ thẩm tỉnh Đồng Tháp đã kết án bà Bùi Thị Minh Hằng ba năm tù, cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh 2 năm và anh Nguyễn Văn Minh 2 năm rưỡi tù giam. Hồi đầu tháng 2/2014, bà « Bùi Hằng», 50 tuổi, cùng cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, 28 tuổi và anh Nguyễn Văn Minh, 34 tuổi, một tín đồ Phật giáo Hòa Hảo, bị công an tỉnh Đồng Tháp bắt giữ khi đến thăm ông Nguyễn Bắc Truyển, một cựu tù nhân chính trị cư trú tại tỉnh này, đang trong tình trạng bị công an đe dọa trấn áp. Sự cố nói trên bị nhiều nhà hoạt động nhân quyền lên án như một vụ án dàn dựng nhằm bỏ tù nhà tranh đấu nổi tiếng Bùi Thị Minh Hằng, thường được gọi là « Bùi Hằng ». Bà Bùi Hằng được công chúng biết đến sau nhiều lần tham dự các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc gây hấn tại Biển Đông. Theo luật sư, sức khỏe của các bị cáo, đặc biệt là bà Bùi Hằng rất kém. Bà Bùi Hằng cùng cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh, 28 tuổi và anh Nguyễn Văn Minh, đã trải qua nhiều cuộc tuyệt thực trong thời gian 6 tháng bị giam giữ để phản đối hành xử bất công của chính quyền. Trong tuyên bố hôm qua, Đại diện Ngoại giao Hoa Kỳ khẳng định việc tư pháp Việt Nam « sử dụng các điều luật về trật tự công công để bỏ tù những người chỉ trích chính phủ, vì họ bày tỏ quan điểm chính trị một cách ôn hòa là điều đáng báo động ». Mỹ kêu gọi chính phủ Việt Nam trả tự do « vô điều kiện ba cá nhân này, cũng như các tù nhân lương tâm khác và cho phép mọi người Việt Nam bày tỏ quan điểm chính trị của họ ». Phó Giám đốc Châu Á của tổ chức bảo vệ nhân quyền Human Rights Watch, Phil Robertson, tuyên bố các cáo buộc của tư pháp Việt Nam chống lại các bị cáo là « sai trái » và « vô nhân đạo ». Đại diện HRW khẳng định « Bùi Thị Minh Hằng và các đồng bạn bị kết án tù, chỉ vì đơn giản là thực hiện quyền hội họp và dám bày tỏ tiếng nói đoàn kết với những người có nguy cơ bị bách hại ». Ông Rupert Abbott, phó Giám đốc Châu Á Thái Bình Dương của tổ chức Ân xá Quốc tế (Amnesty International), lên án Việt Nam một lần nữa lại dùng biện pháp đàn áp nhắm vào những người tranh đấu ôn hòa. Nhân vụ án ba nhà tranh đấu vừa bị tòa án Đồng Tháp kết án, Amnesty International nhấn mạnh đến việc, mặc dù từ tháng 4 đến tháng 7, bốn nhà tranh đấu Việt Nam được chính quyền trả tự do, nhưng còn rất nhiều nhà hoạt động nhân quyền hiện vẫn đang bị giam giữ, chỉ vì bày tỏ chính kiến tại một quốc gia vừa được bầu làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc hồi năm ngoái. Nhiều nhân chứng tại chỗ tố cáo các lực lượng an ninh, đặc biệt tại tỉnh Đồng Tháp, đã bắt bớ hàng chục người tới thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, để bày tỏ sự ủng hộ đối với bà Bùi Thị Minh Hằng, cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và anh Nguyễn Văn Minh, nhiều người trong số họ bị đánh đập dã man. Trả lời AFP, từ Đồng Tháp ông Nguyễn Lân Thắng cho biết « khoảng 60 đến 70 người bị câu lưu ». Hiện tại theo một nguồn tin chúng tôi được biết, hầu như tất cả những người bị bắt hôm qua đã được trả tự do. Riêng bà Nguyễn Ngọc Lụa đang ở trong tình trạng sức khỏe rất đáng ngại, sau khi bị công an đánh phải đi cấp cứu. Vụ xét xử ba nhà hoạt động nhân quyền hôm qua với những án tù nặng, đặc biệt là bà Bùi Hằng – một biểu tượng của tinh thần phản kháng chống hiểm họa bành trướng Phương Bắc - xảy ra đúng vào thời điểm ông Lê Hồng Anh, đặc phái viên của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, đang trong chuyến công du Trung Quốc nhằm « khôi phục và thúc đẩy quan hệ » giữa Hà Nội và Bắc Kinh, sau sự cố Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam gây nhiều phẫn nộ trong nước và quốc tế. Trọng Thành - RFI ***** Những hình ảnh đáng nhớ về Người Yêu Nước Bùi Minh Hằng RadioCTM Radio Chân Trời Mới Tin Nhanh Số 12 — Phiên xử Bùi Minh Hằng - Nguyễn Văn Minh - Nguyễn Thị Thúy Quỳnh         Ông Phạm Minh Hoàng, một cựu tù nhân lương tâm, nhận định về chính sách của giới lãnh đạo đảng CSVN qua cách đối phó của họ với những người Việt yêu nước như các anh chị Bùi Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh: https://soundcloud.com/radio-ctm-1/thay-giao-pham-minh-hoang-ve-phien-xu...   Và nhiều bạn hữu nguyện tiếp nối các nỗ lực của chị Bùi Minh Hằng trong trách nhiệm bảo vệ đất nước, đùm bọc những gia đình tù nhân chính trị, và tranh đấu cho các quyền con người. RadioCTM sẽ tiếp tục tường trình các diễn tiến chung quanh vụ xử án các anh chị Bùi Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh, và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh tại các trang mạng, blog, và Facebook của đài. Mời quí độc giả, thính giả theo dõi.   Hoàng Trường, Tuyết Đan, Thanh Lan, Thùy An, Trần Quang Thành kính chào tạm biệt
......

Vụ Phạm Chí Dũng đậm nét đa nguyên báo chí

Vụ “Phạm Chí Dũng”: Hoan hô tính đa nguyên trong báo chí độc lập   (VNTB) - Chúng tôi vui mừng, vì chưa đầy hai tháng thành lập, mà tinh thần đa nguyên trong Hội nhà báo độc lập Việt Nam (HNBĐLVN) đã phát huy tác dụng, hứa hẹn một nền báo chí tự do sẽ mau đến cho công chúng Việt Nam. Đa nguyên về quan điểm Những lý thuyết gia và những nhà cai trị các quốc gia theo học thuyết Cộng sản thường đề cao việc thống nhất quan điểm, theo một quan điểm duy nhất. Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam và thế giới cho thấy việc thống nhất quan điểm, tạo ra một quan điểm duy nhất là một giải pháp kém hiệu quả nhất cho phát triển. Hầu như nó chỉ đáp ứng được cho mục tiêu của một nhóm nhỏ, mà chưa bao giờ đủ sức giải quyết các vấn đề chung của cả cộng đồng. Minh chứng rõ nhất tại Việt Nam là dùng chiến tranh để thống nhất đất nước, bỏ qua một bên Hiệp định tái lập hòa bình đã được ký kết ở Paris năm 1973. Còn trên thế giới là cuộc tấn công vào Iraq với lý do ngụy tạo của liên quân Mỹ-Anh. Do đó, việc đa nguyên trong quan điểm báo chí về tình hình chính trị xã hội Việt Nam nên là bước đi tiên phong cho cả cỗ xe Việt Nam đã khởi động rồi mà chưa biết lái theo hướng nào cho tốt. Việc nhà báo Phạm Chí Dũng đưa ra những nhận định của ông về diễn biến của Việt Nam sau chuyến thăm Hoa Kỳ của ông bí thư thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị trên BBC: "Chỉ trong khoảng ba tuần lễ, dường như những người trong “Phe bảo thủ” đã vượt lên một nhịp so với “Phe lợi ích”, khi trước đó thế giằng co là tương quan nổi trội tưởng như còn kéo dài đến tận Đại hội Đảng 12" là quan điểm bình luận của ông. Quan điểm này có nhiều người chia sẻ, đón nhận, nhưng cũng có không ít người chê bai. Ở đây có ít nhất ba luồng quan điểm xuất hiện: Quan điểm của nhà báo Phạm Chí Dũng, quan điểm của những người ủng hộ, và quan điểm của những người không đồng tình. Người đọc cũng cần phải cẩn thận khi chúng tôi không nhập chung quan điểm của ông Dũng và những người ủng hộ ông là một, vì trong thực tế, không ai ủng hộ ai 100% về mặt tư tưởng cả. Người ta chỉ ủng hộ những quan điểm phù hợp hoặc đang chi phối tích cực cho họ, hoặc ít là quan điểm đó được hiểu theo ý họ, nên họ theo. Ngược lại cũng hiếm có trường hợp không đồng tình hay chống đối một quan điểm 100%. Nguyên tắc Âm trong Dương và Dương trong Âm giúp hiểu rõ về vấn đề này. Những bài viết kế tiếp đăng cùng trên BBC của ông Nguyễn An Dân hay trên Tin tức hàng ngày của nhà báo Nguyễn Quang trình bày quan điểm khác với nhận định của nhà báo Phạm Chí Dũng về kết quả chuyến đi Mỹ của ông Phạm Quang Nghị là điều bình thường. Không ai đủ thông tin để khẳng định một trong các quan điểm này đúng hoàn toàn hay sai hoàn toàn. Do đó đa nguyên quan điểm cần được khuyến khích hơn nữa, để không chỉ dừng lại hai quan điểm như thể đối đầu nhau, mà còn có thể có thêm nhiều quan điểm xuất phát từ các lối tiếp cận khác hầu tiếp tục cung cấp cho công chúng những thông tin chính xác và minh bạch hơn, đồng thời giúp người dân có thêm nhiều cơ hội suy tư và chọn lựa khi cần. Tự do đa nguyên, nhưng không được tấn công cá nhân Xét về mặt tư tưởng, không ai dễ dàng chịu ai, nhưng không phải vì thế mà biến phản biện thành lên án cá nhân. Nhà báo Nguyễn Quang viết trên Tin tức hàng ngày: "Nếu như điều bình luận trên đây [bình luận của ông Dũng - NV] là của một quần chúng bình dân thì người ta có thể bỏ qua cái giả thiết cho rằng chuyến đi của John McCain và Sheldon Whitehouse đến Việt nam vừa rồi là do dựa vào lời mời của Phạm Quang Nghị. Song đây là bình luận của ông Phạm Chí Dũng - Chủ tịch Hội NBĐL, một nhà bình luận chính trị được đánh giá là sắc sảo hàng đầu thì đó là điều khó có thể tha thứ". Chúng tôi ủng hộ nhà báo Nguyễn Quang phản biện hay trình bày ý kiến đối nghịch với tiến sĩ Phạm Chí Dũng, nhưng chúng tôi không đồng ý ông Quang xem thường "quần chúng bình dân" [cách dùng từ của ông Quang - NV]. Ông Quang viết "Nếu như điều bình luận trên đây là của một quần chúng bình dân thì người ta có thể bỏ qua" nghĩa là gì? Ông xem thường "quần chúng bình dân" không đủ tri thức để hiểu vấn đề ông đang bàn sao? Trong cộng đồng "quần chúng bình dân" đó có cha mẹ, thầy cô của các nhà báo. Nhiều người trong họ là ân nhân về trí thức, về tâm linh và cả về vật chất của nhà báo. Chưa chắc nhà báo có khả năng hơn "quần chúng bình dân" đó. Nhà báo không được "hút máu người" rồi bảo "máu người tanh". Điểm thứ hai chúng tôi cũng không đồng ý với nhà báo Nguyễn Quang là đang phản biện về nhận định đúng sai của nhà báo Phạm Chí Dũng lại lôi thân thế, địa vị xã hội vào để hạ thấp uy tín cá nhân ông Dũng. Ông Quang viết: "Đây là bình luận của ông Phạm Chí Dũng - Chủ tịch Hội NBĐL, một nhà bình luận chính trị được đánh giá là sắc sảo hàng đầu thì đó là điều khó có thể tha thứ". Tại sao đang tranh luận về chuyện ông Nghị lại không tiếp tục đưa ra những bằng chứng để làm sáng tỏ quan điểm của ông Dũng là quan điểm thiểu số, không phù hợp với công chúng lại lôi cái này vào? Đây là cách cãi nhau của người không đủ lý, nên phải dùng yếu tố bên ngoài đưa thêm vào hỗ trợ. Cần lưu ý tư tưởng con người không bao giờ được đánh giá bởi địa vị xã hội của người đó. Một ông vua không luôn luôn có tư tưởng tuyệt vời, mặc dù nơi vị này tiềm năng đó rất lớn. Tráng sĩ Phạm Ngũ Lão đang ngồi giỏ tre, nhưng ai có thể cấm ngài có những thao thức lớn lao về đất nước. Cách thức kéo nhân thân ra để đánh ngã đối thủ còn thấy ở ông Nguyễn An Dân viết trên BBC tiếng Việt: "Điều này vừa sai vừa ủng hộ bảo thủ, cả hai điều đều phản lại tính chất “độc lập” của một nhà báo độc lập, lại là Chủ tịch Hội Nhà Báo Độc Lập". Xin các nhà báo hãy tranh luận cách trong sáng, đừng mang một tiêu chuẩn do mình định ra rằng "độc lập" phải thế này, "Chủ tịch HNBĐL" phải thế kia để đánh giá người khác về quan điểm. Hãy chứng minh quan điểm của nhà báo Phạm Chí Dũng sai, nếu quý vị có nhiều thông tin và trực nghiệm tốt hơn, chứ đừng bao giờ nhắm vào con người đang muốn dấn thân cho công cuộc chung. Điều này sẽ giúp báo chí Việt Nam thoát thai khỏi báo chí xã hội chủ nghĩa và hy vọng công chúng Việt Nam sớm có tự do báo chí. Đừng nhà báo nào lại tự buộc mình trở thành cho công cụ cho ai hay cho nhóm nào, vì sứ mạng của nhà báo là cung cấp cho công chúng của mình tin tức quan trọng, chính xác, đầy đủ và khách quan nhất.   Nguồn: Việt Nam Thời Báo
......

’là mây cao là tiếng hát’

"Riêng tặng chị Bùi Minh Hằng trước phiên xử 26.8.2014" Em là lá biếc là mây cao là tiếng hát Sáng mai khua thức nhiều nhớ thương (Bài ngợi ca tình yêu – Thanh Tâm Tuyền) Thi sĩ Bắc Phong đã có lần mơ thấy ánh mắt bà Trưng Nhị nhìn ông đằm thắm, để rồi trong giấc mơ của cuộc hạnh ngộ đó ông từ một viên lính quản tượng bỗng được “cất nhắc” để trở thành quan chép sử cho hai Bà. Tôi không lãng mạn và mơ mộng như Bắc Phong nhưng tôi cảm được những rung động của thi sĩ, vì thực lòng cũng như ông tôi thấy người phụ nữ VN đẹp lạ lùng. Nếu bạn được nghe Đỗ Thị Minh Hạnh hát trong những buổi trò chuyện với anh Phùng Mai thuộc Quỹ Tù Nhân Lương Tâm hay cô Trà Mi của đài VOA bạn sẽ thấy như tôi. Họ là tứ thơ của Thanh Tâm Tuyền, họ dịu dàng tươi mát như lá biếc như mây cao như tiếng hát, nhưng suốt trong chặng đường gian khó của tổ quốc, đối với quân xâm lược họ là những địch thủ đáng gờm. Đôi lúc họ xuất hiện dữ dội như hình ảnh nữ tướng Bùi Thị Xuân, mình mặc áo chẽn đỏ, cỡi voi trận xông pha trong lửa khói của đồn Ngọc Hồi, có lúc lại đằm thắm vững chãi như bà Linh Từ Trần Thị Dung vợ Thái sư Trần Thủ Độ. Điểm đáng nói ở những người phụ nữ này là họ có mặt khi đất nước cần, rồi thầm lặng đi vào đời thường. Khiến ta cứ ngỡ như họ hiện diện ở mọi thời khắc khó khăn nhất rồi biến mất. Thật ra họ vẫn luôn có mặt, miên viễn nối tiếp nhau từ đời này qua đời khác.   Xin cùng đọc câu chuyện về phu nhân của danh tướng Nguyễn Chích, vị tướng được xem là một khai quốc công thần của nhà Lê. Dưới thời nhà Minh đô hộ nước ta, danh tướng Nguyễn Chích phụng mạng Lê Lợi chiêu mộ thêm nghĩa quân ở Nông Cống – Thanh Hoá. Một buổi sáng đẹp trời có một tráng sĩ mặt đẹp như trăng rằm đến xin đầu quân. Trông dáng dấp anh ta nhỏ nhắn Nguyễn Chích có ý muốn đưa anh ta vào đội tuần cảnh, nhưng thấy người tráng sĩ tỏ thái độ không bằng lòng ông liền cho mở cuộc thi võ nghệ để phân tài cao thấp. Trong cuộc thi này, nhiều tướng giỏi của Lam Sơn đã bị người tráng sĩ này hạ gục. Tướng quân Nguyễn Chích rất hài lòng bèn phong cho anh ta làm phó tướng. Sau này viên phó tướng ấy đánh ngã luôn trái tim của danh tướng Nguyễn Chích, anh ta chính là một thiếu nữ giả trai để về đầu quân dưới trướng của Lam Sơn. Sau này hai người kết hôn với nhau, bà là người giúp chồng chiêu mộ quân sĩ, tích trữ lương thảo, rèn luyện nghĩa quân. Gặp lúc quân Minh vây hãm Lê Lợi ở Lam Sơn, cũng chính bà đã chỉ huy một đội quân góp phần giải vây cho chủ tướng. Khi đất nước ca khúc khải hoàn, có lẽ bà lui về giữ tròn vai trò hiền phụ trong gia đình, không thấy sử sách nhắc đến tên của bà sau này nữa. Khi đất nước suy vong người phụ nữ Việt Nam ngày nay đã không còn coi trách nhiệm cứu nước là bổn phận riêng của nam giới nữa. Thiên chức của một người vợ, người mẹ, đã khiến các chị cảm được sâu xa nhất về nỗi nhục của dân tộc và về những tai hoạ trước mắt. Số phụ nữ tham gia đấu tranh ở giai đoạn này đã lên đến con số đáng kể, cả những người trực tiếp hoặc gián tiếp. Sống sát cạnh những oan trái, khổ đau hàng ngày đã khiến các chị phải lên tiếng, không nhất thiết vì bản thân mình mà vì những uất ức, những bất công mà nhiều người chung quanh đang phải gánh chịu. Những phụ nữ này đến từ mọi ngõ ngách của cuộc đời, từ tiến sĩ kinh tế Phạm Chi Lan, đến nhà văn Võ Thị Hảo, luật sư Lê Thị Công Nhân, nghệ sĩ ưu tú Kim Chi, công nhân Trần thị Thuý Nga, cựu đại úy công an Tạ Phong Tần, …   Họ góp mặt trong hầu hết mọi lãnh vực, từ đấu tranh cho tự do tôn giáo như chị Mai Thị Dung, chị Trần thị Hồng vợ Mục sư Nguyễn Công Chính, đến đấu tranh cho dân oan như chị Trần thị Thuý, bà Lê thị Ngọc Đa, chị Hồ thị Bích Khương. Đặc biệt trong cuộc đấu tranh cho tiền đồ đất nước, chống lại bước chân xâm lược của Trung Quốc. Tên của họ có thể ghép thành một bản trường ca đẹp nhất nối tiếp bản trường ca của lịch sử dân tộc. Những Trần thị Hài, Bùi thị Minh Hằng, Phương Bích, Đặng Ngọc Minh, Nguyễn Đặng Minh Mẫn, Lê thị Phương Anh, Nguyễn Phương Uyên, Phạm Thanh Nghiên… Những phụ nữ này xuống đường bất kể thái độ hung hãn trấn áp của công an, bất kể họ có thể bị ném vào các trại tù, trại "phục hồi nhân phẩm". Và khi ở trại giam, dù bị đánh đập, bị hành hạ nhưng dũng cảm lạ lùng, ba chữ HS.TS.VN lại ngạo nghễ xuất hiện, lại vẫn lấp lánh trong nắng, trên những nón lá của những người nữ tù nhân này. Và không chỉ ở VN, không chỉ ở những cuộc biểu tình rầm rộ nhiều người biết đến. Ở Tháp đôi Kuala Lumpur tại Mã Lai, một phụ nữ Việt nhỏ bé đã đứng một mình ở nhà ga với một biểu ngữ trên tay. Biểu ngữ có hình ảnh một giàn khoan bị gạch chéo cùng hàng chữ “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam”. Chị đứng đó giữa một đất nước xa lạ, trước những ánh mắt tò mò, và đặc biệt giữa một cộng đồng đông đảo người Hoa sinh sống tại đây. Tại nhà ga, một người đàn ông lạ, tỏ vẻ kính phục đã đến hỏi chị rằng chị có thấy ngượng nghịu và sợ hãi không khi đứng một mình như vậy? Người phụ nữ có tên Liberty đó đã chia sẻ với ông rằng chính những gì đang xảy ra cho tổ quốc của chị đã giúp chị vượt qua mọi nỗi sợ hãi và ngượng ngùng. Ôi! Những Liberty và Lê Thị Tuyết Mai, họ chỉ là những người phụ nữ bình thường, vô danh không ai biết đến, nhưng họ tiêu biểu cho người phụ nữ ngàn đời của đất nước tôi. Một người biểu tình đơn độc ở Tháp đôi Kuala Lumpur, một người tự thiêu trước cổng trụ sở quan quyền. Cả hai đã nói những lời mạnh mẽ, tha thiết nhất với tổ quốc của mình. Ai đó, có thể ái ngại nhìn họ như những người đàn bà bé nhỏ và cô đơn, thực ra họ không hề cô đơn. Khi chọn đồng hành với vận mệnh của đất nước, họ nhìn thấy bên cạnh mình có rất nhiều người, dù không hiện diện, cả những người đã khuất. Điều đó giải thích tại sao những nữ tù nhân lương tâm hiện nay dù yếu đuối về thể chất lại có thể trở thành những quặng thép trong các trại tù. Dù cho công an dùng đủ loại thủ thuật để đàn áp, đặc biệt là trò ép tù đánh tù, nhưng sau cùng, sự dũng cảm của các chị đã làm cho cả trại giam phải tâm phục. Và sau đó, khi vừa bước ra khỏi trại giam, đa số còn mang đầy tật bệnh trong người, nhưng họ lại tiếp tục nhập dòng đấu tranh. Đặc biệt là đấu tranh cho những nữ tù chính trị còn trong trại giam. Con đường giải nạn cho cả dân tộc còn dài. Trên con đường đó, có rất nhiều người phụ nữ đã bước qua tù ngục trong quá khứ, đang trả giá tù ngục hiện nay và còn chấp nhận tù ngục trong tương lai. Những lời ngợi khen, những mỹ từ như “liệt nữ” “anh thư” bỗng trở thành nhỏ bé trước tâm hồn dung dị của những người phụ nữ Việt Nam này. Tôi tự hỏi vào những ngày trước khi tự thiêu bà Lê Thị Tuyết Mai đã nghĩ gì? Có lẽ bà không hề nghĩ đến mình, đến cái gia đình nhỏ bé của bà, và chắc chắn bà không hề nghĩ đến những lời ngợi khen hay ca tụng về hành động của bà. Điều duy nhất mà bà nghĩ đến chỉ có thể là niềm ước mong cả dân tộc đang khiếp nhược của bà sẽ cùng nhau vượt qua nỗi sợ hãi, cùng nhau đoàn kết đứng lên thì mới mong bảo vệ được tổ quốc, mới mong có ngày đóng hẳn những đau thương cho cả dân tộc. Chỉ chừng ấy thôi đã khiến người phụ nữ bình thường đó sẵn sàng khép lại cuộc đời mình bằng một lời tâm sự được viết bằng tay trên một tấm biểu ngữ : “Đốt ánh sáng soi đường cho những người yêu nước”. Trong cuộc chiến sống còn để bảo vệ sự trường tồn của dân tộc, người phụ nữ luôn luôn hiện diện. Họ góp mặt trọn vẹn, bằng tất cả nét tươi đẹp và đức tính hiếm quý của người phụ nữ Việt. Tôi tự hỏi trong mười năm Lam Sơn gian khổ nếu Tướng Quân Nguyễn Chích không gặp được phu nhân của ông, nếu Phó Tướng Trần Quang Diệu không tình cờ được cô thiếu nữ Bùi Thị Xuân đánh cọp cứu thoát, nếu người anh hùng Hùm thiêng Yên Thế Hoàng Hoa Thám không bất ngờ gặp được cô Nhu nơi bìa rừng nọ, thì có lẽ chúng ta, chứ không ai khác sẽ rưng rưng nuối tiếc như thi sĩ Phạm Thiên Thư – “leo lên cành bưởi tiếc người rưng rưng.”   ---oOo--- Nguồn: viettan.org
......

Hội Cựu Tù nhân Lương tâm gửi thư đến Chủ tịch Cộng đồng Âu châu Barroso

Thư ngỏ của Hội Cựu Tù nhân Lương tâm gửi Ngài Chủ tịch Cộng đồng Âu châu Barroso (nhân chuyến thăm VN ngày 25-26/8/2014) Mối quan hệ thương mại Châu Âu-Việt Nam sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng thê thảm của hàng trăm tù nhân lương tâm hiện đang bị giam cầm trong các nhà tù khắp VN nếu EU không có biện pháp chế tài và đòi hỏi chính quyền VN phải cải thiện nhân quyền một cách cụ thể. Chúng tôi mong đợi tiếng nói của ngài cũng như của các vị đại diện EU. José Mauel Barroso CTNLT | 24/8/2014 Kính gửi Ngài José Mauel Barroso, Chủ tịch EC. Chúng tôi xin gửi lời chào nồng nhiệt đến ngài nhân chuyến viếng thăm chính thức VN hai ngày tại Hà Nội và Sài Gòn. Được biết, ngài sẽ thảo luận với TT. Nguyễn Tấn Dũng về Hiệp ước thương mại tự do (FTA), hợp tác phát triển trong số các vấn đề khác. Ngài cũng diện kiến TBT Nguyễn Phú Trọng và CTN Trương Tấn Sang trong cùng ngày. Liên quan đến FTA giữa EU và VN, ngày 17/4/2014 Nghị viện Âu châu đã thông qua Nghị quyết 2013/2989(RSP) trong đó nhấn mạnh nhân quyền, dân chủ và an ninh là những giá trị cốt lõi trong quan hệ song phương. Nghị quyết cũng đã đưa ra các quyền tự do cơ bản cần phải được tôn trọng tại VN là tự do bày tỏ quan điểm, tự do báo chí và tự do tôn giáo. Tại thời điểm ngài sang VN, đã có rất nhiều người bất đồng chính kiến, các cựu tù nhân lương tâm, blogger bị tịch thu hộ chiếu, cấm xuất cảnh, thậm chí bị tước đoạt cả quyền tự do đi lại ngay trong nước mình. Mấy hôm nay, an ninh công an canh giữ ngay trước nhà của hầu hết những người bất đồng chính kiến. Chúng tôi bị cấm đi tham dự phiên tòa xét xử Bùi Thị Minh Hằng và hai người bạn ngày 26/8 tại tỉnh Đồng Tháp. Bà Hằng là một phụ nữ kiên cường đấu tranh cho nhân quyền dân chủ tại VN. Một vụ bắt giữ và xét xử bởi động cơ chính trị: bịt miệng người bất đồng chính kiến. Âu châu là thị trường xuất khẩu lớn nhất của VN. Thương mại giữa VN và EU đạt 21 tỷ Euro trong năm 2013. Hàng nghìn công ty, tập đoàn của 28 nước thành viên Âu châu đã hoạt động kinh doanh sản xuất tại VN, tạo ra một lượng lớn công ăn việc làm, giúp nâng cao mức sống người lao động.  Thế nhưng ngày 15/9/2014 một Nghị định cấm những người đã từng bị cầm tù vì “an ninh quốc gia” làm việc cho các tổ chức nước ngoài, như tổ chức phi chính phủ, liên chính phủ, phi lợi nhuận, thông tấn báo chí, cơ quan ngoại giao…sẽ có hiệu lực. Đây là một sự kỳ thị trong luật tuyển dụng lao động nhằm tiếp tục vây hãm sinh kế của những người bất đồng chính kiến từng bị giam cầm. Ngày 28/3/2014 ông Konstantin Von Mentzingen, chuyên viên phụ trách quan hệ EU với ĐNÁ của UB đối ngoại Châu Âu đã gặp hai thành viên Hội CTNLT là Phạm Bá Hải và Phạm Chí Dũng tại Sài Gòn. Qua cuộc gặp trao đổi này, chúng tôi đã nhấn mạnh đến quyền tự do lập hội và tụ họp ôn hòa và cũng đã yêu cầu Cộng đồng Âu châu bảo trợ cho các cuộc gặp gỡ XHDS hằng tháng này. Tuy nhiên trong hai tháng qua, chính quyền đã dùng nhiều hình thức để cấm đoán và cản trở các thành viên các tổ chức XHDS độc lập đi họp mặt. Kính thưa ngài Barroso, Trước tình trạng, một mặt nhà nước VN ve vãn các nước phương tây, luôn tỏ ra mình là một nhà nước tôn trọng các quyền căn bản bằng cách che đậy các vụ việc đàn áp nhân quyền; mặt khác họ không ngừng dùng các công cụ pháp luật và bộ máy công an, an ninh trấn áp những người đòi tự do dân chủ nhân quyền, chúng tôi mong muốn ngài lưu tâm hiện trạng này và đồng thời đặt nhân quyền vào trong tiến trình đàm phán FTA như một điều kiện thiết yếu. Hãy đừng để lặp lại bầu không khí đàn áp nhân quyền vào giai đoạn 2008 – 2012 sau khi Nhà nước Việt Nam được thỏa mãn việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Mối quan hệ thương mại Châu Âu-Việt Nam sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng thê thảm của hàng trăm tù nhân lương tâm hiện đang bị giam cầm trong các nhà tù khắp VN nếu EU không có biện pháp chế tài và đòi hỏi chính quyền VN phải cải thiện nhân quyền một cách cụ thể. Chúng tôi mong đợi tiếng nói của ngài cũng như của các vị đại diện EU. Ngày 24/8/2014. Thường trực BĐH Hội CTNLTVN:   Đồng chủ tịch: Bs.Nguyễn Đan Quế, Lm.Phan Văn Lợi Chủ tịch Hội đồng cố vấn: HT.Thích Không Tánh Điều phối viên: Ths.Phạm Bá Hải, Ls.Nguyễn Văn Đài Phát ngôn viên: Ts. Phạm Chí Dũng Nguồn: fvpoc.org
......

Trái đắng của sự lệ thuộc

Vụ nhà thầu Trung Quốc bỏ ngang dự án thủy điện đang thi công ở Kontum hồi cuối tháng 7 đã làm nóng lại cảnh báo về mối nguy lệ thuộc Trung Quốc trên nhiều lĩnh vực. Thủy điện Sông Bung 4 ở huyện Nam Giang, Quảng Nam đang được nhà thầu của Trung Quốc thi công.Courtesy photo   Phần nổi của tảng băng chìm   TS Phạm Sỹ Thành, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) được báo Lao Động điện tử trích lời nói rằng, sự phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu Trung Quốc mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. Mối nguy từ việc doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu phần lớn các dự án ‘chìa khóa trao tay’ tổng thầu EPC tại những công trình trọng điểm mới là điều đáng lo ngại. Trả lời Nam Nguyên, TS Phạm Sỹ Liêm, nguyên thứ trưởng Bộ Xây dựng, phó Chủ tịch Tổng hội xây dựng Việt Nam từ Hà Nội phân tích thể thức đấu thầu hiện hành. Theo lời ông, hiện vẫn là thể thức hai phong bì, một phong bì là kỹ thuật, sau khi thông qua phong bì dự thầu về kỹ thuật thì xem đến phong bì về tài chính xem mức giá nào đó thì chọn. Về nguyên tắc là có thể không chọn giá thấp nhất, nhưng khuynh hướng hiện nay nói chung vẫn là chọn giá thấp nhất. Để nhà thầu Trung Quốc hay ai khác trúng thầu là tùy thuộc cách tổ chức chọn thầu. TS Phạm Sỹ Liêm nhấn mạnh: “Nhưng ở đây tự nhiên không hiểu cách chọn thế nào đó mà các dự án ngành năng lượng các nhà thầu Trung Quốc đều trúng thầu. Tại sao lại như vậy, là vì các chủ dự án cứ muốn chọn những nhà thầu đưa ra giá rẻ nhất còn bên nhà thầu Trung Quốc thì họ bỏ thầu để trúng cái đã. Còn sau đó khi ký kết hợp đồng họ sẽ thương lượng chứng minh thế nọ thế kia để bổ sung giá cao hơn. Nhưng Luật Đấu thầu bây giờ thì lại cấm giá hợp đồng không được cao hơn giá đấu thầu. Thế nhưng những dự án trước đây là như vậy. Chẳng hạn dự án đường sắt trên cao thì họ cũng như thế và bây giờ họ cũng đòi thêm, không được thì họ cũng bỏ dở nửa chừng họ đi về. Tôi chưa rõ là các chủ dự án của chúng ta sẽ xử lý vấn đề như thế nào. Nhưng tôi nghĩ chắc là phải xử lý đúng theo luật pháp về hợp đồng kinh tế.” Thông tin ghi nhận trong số 24 dự án nhà máy xi măng thì Trung Quốc làm tổng thầu EPC 23 dự án. Nắm tổng thầu Trung Quốc dành hết thầu phụ cho người của họ; đem luôn lao động phổ thông từ Hoa lục sang. Hiện nay trong 20 dự án nhiệt điện, Trung Quốc trúng tổng thầu EPC 15 dự án tỷ lệ nội địa hoá 0%. Phần lớn các dự án của Tập đoàn Than và khoáng sản phía Trung Quốc đều trúng tổng thầu, kể cả hai dự án bauxite Tây nguyên đầy tranh cãi. Các chuyên gia đã cảnh báo an ninh năng lượng của Việt Nam nằm trong tay Trung Quốc. Giả sử nhà thầu Trung Quốc vòi vĩnh không được bỏ ngang thì gây thiệt hại rất lớn. Với thiết bị máy móc và công nghệ Trung Quốc thì các nhà thầu khác khó lòng vào làm thay được. Báo điện tử Đất Việt ngày 21/8/2014 trích lời bà Bùi Thị An, đại biểu quốc hội đơn vị Hà Nội cảnh báo tình trạng nhà thầu Trung Quốc ngừng thi công đòi thêm tiền ngày càng phổ biến. Bà An nêu ví dụ dự án nhiệt điện Nông Sơn Quảng Nam năm 2008, nhà thầu Trung Quốc bỏ thầu giá rẻ thi công ì ạch đến năm 2012 thì bỏ hẳn trong khi công trình mới xây dựng được một nửa khối lượng. Chưa hết, gần đây nhất chủ đầu tư dự án thủy điện Vĩnh sơn-Sông Hinh cũng đã phải chấm dứt hợp đồng với nhà thầu Trung Quốc nửa chừng vì họ ngừng thi công đòi tăng giá. Theo lời Đại biểu Bùi Thị An, cần phải truy trách nhiệm đến cùng người đứng đầu các công trình, cũng như những người đã duyệt thầu. Tất cả mọi thứ cần phải được công khai minh bạch.   Một công trình xây dựng tại KCN Vũng Áng do nhà thầu Trung Quốc thi công. Courtesy photo. Người TQ trúng thầu ở mọi nơi Về câu chuyện Việt Nam đã có quá nhiều kinh nghiệm về công nghệ Trung Quốc và nhà thầu Trung Quốc, nhưng tại sao người Trung Quốc lại trúng thầu ở mọi nơi mọi chỗ. TS Phạm Sỹ Liêm, Phó Chủ tịch Tổng hội xây dựng Việt Nam nhận định:   “Rõ ràng việc lựa chọn bên trúng thầu không đúng và thực tế đã chỉ ra. Còn tại sao tình trạng tiếp tục thì cũng chưa ai nói rõ lý do. Nhưng chúng ta đều biết người Trung Quốc trong kinh tế rất coi trọng các mối quan hệ họ gọi là ‘Guan Xi” và ở Việt Nam cái ‘Guan Xi’ này đã phát huy tác dụng và do đó họ trúng thầu nhiều dự án. Trước khi thầu thì họ đã mời các bên có liên quan sang nước họ tham quan để chứng tỏ năng lực của họ. Trong quá trình tham quan thì họ đã ‘thế nào đó’ và rõ ràng cái đó tác động kết quả lựa chọn thầu.” Đề cao Luật Đấu thầu 2013 và hy vọng nó sẽ sớm có tác dụng giúp cải thiện tình trạng khuất tất trong vấn đề đấu thầu. Tuy nhiên TS Phạm Sĩ Liêm có thêm đề xuất ông nói: “Những dự án này phần lớn đều là dự án của nhà nước mà những dự án người Trung Quốc tham gia phần lớn lại là những dự án vay tiền của Trung Quốc mà vay tiền của Trung Quốc, vay vốn ODA thì người ta yêu cầu phải sử dụng nhà thầu Trung Quốc, tư vấn Trung Quốc, các nước khác thì cũng tương tự thôi. Các chủ đầu tư dự án nói chúng tôi phải chọn nhà thầu Trung Quốc vì chúng tôi vay tiền vốn ODA của Trung Quốc, phải theo điều kiện đặt ra. Nhưng theo tôi, chúng ta lúc cần cũng phải biết nói không với vốn ODA. Chứ không có nghĩa cứ vốn ODA là phải chấp nhận.” Về mặt chính thức Trung Quốc không phải là nước cung cấp viện trợ phát triển (ODA) lớn cho Việt Nam. Trong số 92 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, Trung Quốc xếp thứ 14 với gần 900 dự án FDI tổng vốn đăng ký 4,68 tỷ USD. Tuy vậy theo trang mạng Diễn đàn Kinh tế Việt Nam VEF, dòng vốn Trung Quốc chảy vào Việt Nam rất lớn và chưa được thống kê đầy đủ. Thực tế Trung Quốc cung cấp vốn vay ưu đãi lãi suất thấp cho hầu hết các dự án ngành công nghiệp, năng lượng của nhà nước Việt Nam, thông qua đầu mối Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank). Rõ ràng bất kỳ sự lệ thuộc nào cũng kèm theo trái đắng, kể cả lệ thuộc vốn vay của Trung Quốc. Nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Phạm Chí Dũng: Thế lực nào đang muốn “diễn biến” báo Nhân Dân?

Hôm 19/08/2014 báo Nhân Dân - cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Việt Nam - đã đăng bài viết mang tựa đề “Thúc đẩy nhân quyền hay can thiệp vào công việc nội bộ?”. Bài báo chỉ trích cuộc hội thảo “Truyền thông phi nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay” diễn ra vào cuối tháng 7/2014 tại Đại sứ quán Australia (cùng với Liên minh châu Âu, và các sứ quán Canada, New Zealand, Na Uy, Thụy Sĩ, Hoa Kỳ). Đại diện ngoại giao Liên hiệp châu Âu, bà Catherine Ashton (áo trắng) trong chuyến thăm Việt Nam ngày 12/08/2014. REUTERS/Kham   Việc tờ báo đảng “bất ngờ” công kích phương Tây, theo cách nhìn của tờ Việt Nam Thời Báo (ijavn.org) thuộc Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam mới ra đời, thì phải chăng có một thế lực chính trị không muốn tái lập bang giao Việt - Mỹ. Phải chăng thế lực này muốn cản trở hình ảnh phát triển giữa Việt Nam với những quốc gia đang đóng vai trò quan trọng trong việc xem xét cho Việt Nam tham gia TPP ? Nếu đúng như thế, những “nhà cải cách” Việt Nam cần và phải làm gì để “lập lại trật tự”, chí ít là trong nội bộ đảng cầm quyền? RFI Việt ngữ đã trao đổi với nhà báo Phạm Chí Dũng, chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam.   RFI : Thân chào nhà bình luận Phạm Chí Dũng. Thưa anh, sau một loạt nỗ lực ngoại giao khá tấp nập giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, vừa rồi lại xuất hiện một bài báo trên báo Nhân Dân, chỉ trích cuộc hội thảo truyền thông phi nhà nước do đại sứ quán Úc tổ chức. Điều này đã gây ngạc nhiên cho không ít người… Nhà báo Phạm Chí Dũng: Bài báo này không chỉ chỉ trích cuộc hội thảo trên, mà còn chỉ trích luôn cả hội thảo “Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát: Chia sẻ kinh nghiệm quốc tế”. Nhưng có một chi tiết hơi lạ, là cuộc hội thảo của Liên minh châu Âu diễn ra từ cuối tháng 5/2014, mà cho đến giờ báo Nhân Dân mới lên tiếng điểm lại và “nhắc nhở” các cơ quan, tổ chức quốc tế cần tuân thủ luật pháp về tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế của Việt Nam. Có thể ghi nhận đây là lần đầu tiên một bài viết mang mục đích “phòng, chống diễn biến hòa bình” trên báo Nhân Dân cùng lúc công kích cả Liên minh châu Âu và Chính phủ Úc. Tuy nhiên, bài viết này lại “bỏ quên” một khía cạnh rất đáng xem xét là hai cuộc hội thảo tại trụ sở EU và Đại sứ quán Úc chỉ thuần túy nằm trong hoạt động của xã hội dân sự quốc tế và xã hội dân sự ở Việt Nam. Mà quy ước về hoạt động của xã hội dân sự lại được chính Nhà nước Việt Nam cam kết mở rộng trong 14 điều cam kết trước Chủ tịch Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vào tháng 11/2013. Việc mở rộng xã hội dân sự cũng được chính phía Việt Nam cam kết một lần nữa, khi tiếp đón Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry tại Hà Nội vào tháng 12/2013 và nữ Phó ngoại trưởng phụ trách chính trị Wendy Sherman cũng tại Hà Nội vào tháng 3/2014. Thậm chí bà Wendy Sherman còn cảm hứng : “Xã hội dân sự là một trong những điểm thú vị nhất giữa hai quốc gia”. Sự chia sẻ Việt - Mỹ về chủ đề này là hoàn toàn khác với mô tả “Xã hội dân sự - một thủ đoạn của diễn biến hòa bình” trên báo Nhân Dân vào cuối năm 2012. Nhưng khi phê phán hội thảo “Truyền thông Phi Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ hiện nay” diễn ra tại Đại sứ quán Úc, báo Nhân Dân lại quên bẵng những lời lẽ tốt đẹp mà chính phủ Úc - một trong những đối tác thương mại và đầu tư quan trọng của Việt Nam - dành cho Việt Nam trong thông cáo báo chí về hội thảo này. Bởi theo cách nhìn của cơ quan ngoại giao Úc, việc Việt Nam được bầu là thành viên Hội đồng Nhân quyền vào tháng 11 năm 2013 đã thể hiện thiện chí ngày càng tăng của Việt Nam trong tiến trình phối hợp với các đối tác trong và ngoài nước về các vấn đề nhân quyền. Phía Úc cũng đánh giá là thiện chí của Việt Nam trong Đánh giá định kỳ phổ quát của Hội đồng Nhân quyền (UPR) năm 2014 là “đầy tính xây dựng”, và “Chính phủ Úc hoan nghênh sự tán thành chấp nhận của Việt Nam đối với những khuyến nghị của UPR Úc trong các vấn đề ‘cho phép truyền thông phi nhà nước”, tự do thể hiện quan điểm, và tự do hội họp. Việt Nam cũng chấp nhận những khuyến nghị rằng Việt Nam nên tạo điều kiện cho một môi trường thuận lợi, để các nhà hoạt động xã hội dân sự có thể tự do hội họp và thể hiện quan điểm của mình. RFI : Theo anh thì tác động của những bài báo như thế này ra sao ?   Nếu đọc bài công kích trên báo Nhân Dân, chắc hẳn giới ngoại giao Úc, EU và Hoa Kỳ không thể không cảm thấy bị xúc phạm. Riêng phía Úc, thái độ thân thiện của họ đã chỉ được đền đáp bởi một cách đánh “vỗ mặt”, càng cho thấy phía Việt Nam chưa có gì được gọi là thành tâm đối với yêu cầu về dân chủ và nhân quyền tại đất nước này. Trong khi đó, Nhà nước Việt Nam, cả cánh bảo thủ lẫn phe lợi ích, đều đang quá cần đến sự “cảm thông” của các quốc gia này đối với việc thông qua TPP để cứu vãn nền kinh tế đang trên bờ vực thẳm của Việt Nam. Bối cảnh của bài “Thúc đẩy nhân quyền hay can thiệp vào công việc nội bộ?” trên báo Nhân Dân lại xảy ra không bao lâu sau khi diễn ra một cuộc đối thoại song phương Việt - Úc về nhân quyền vào cuối tháng 7/2014. Cũng vào cuối tháng 7, giới quan sát chính trị cũng chứng kiến một sự kiện có thể coi là đặc biệt về tái lập bang giao Việt – Mỹ: sự hiện diện bất ngờ của Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị tại Hoa Kỳ. Hầu như rõ ràng, tín hiệu “diện kiến” giới chính khách của ông Nghị đã mở đường cho hai chuyến công du liên tiếp của Thượng nghị sĩ John McCain và chuyến công du của Đại tướng Martin Dempsey, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Mỹ đến Việt Nam, với những lời hứa hẹn cùng xác nhận không thể nói là đáng bi quan cho tương lai từ cả hai quốc gia cựu thù. Thậm chí còn diễn ra cuộc gặp giữa John McCain với ông Nguyễn Phú Trọng, để sau đó khi người đứng đầu Đảng tuyên bố: “Mỹ là đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam”, thì Martin Dempsey trả lời phỏng vấn báo chí cũng không kém cạnh: “Việt Nam có thể trở thành người bạn tốt nhất của Hoa Kỳ”. RFI : Thưa anh, trong bối cảnh như vậy có thể hiểu quan điểm và thái độ của báo Nhân Dân là thế nào? Tôi cũng đang tự hỏi như vậy ! Tờ báo này, trong khi vẫn rắp tâm công kích và quy chụp chính trị đối với Úc và EU là “hợp thức hóa cho các đối tượng đang chống đối Nhà nước Việt Nam”, và vẫn theo thói thường tung hô điều được xem là “Việt Nam luôn quan tâm và bảo đảm các quyền con người”. Tuy nhiên lại không hề nhắc tới một sự kiện nóng hổi xảy ra cùng thời điểm với cuộc hội thảo “Truyền thông phi nhà nước…” do phía Úc tổ chức tại Hà Nội: chuyến làm việc của ông Heiner Bielefeldt - Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp Quốc về tự do tín ngưỡng tại Việt Nam. Kết quả sau 11 ngày tận mắt chứng kiến, ngay cả bản thân cũng bị giám sát chặt chẽ bởi cơ quan an ninh Việt Nam, đã khiến ông Heiner Bielefeldt phải tổ chức một cuộc họp báo, công bố về “những sai phạm nghiêm trọng” của nhà cầm quyền Việt Nam đối với điều được nhà nước này gọi là “tự do tôn giáo” khi ngăn chặn rất lộ liễu và thô bạo nhiều chứng nhân mà ông muốn gặp. Phê phán - quy chụp - răn đe - xử lý vẫn thường là quy trình mà giới dư luận viên thể hiện trên những tờ báo đảng như Nhân Dân. Những bài viết trên tờ báo này trong thời gian gần đây vẫn cho thấy có một lực lượng chính trị trong đảng Cộng sản Việt Nam, hoặc hết sức bảo thủ hoặc vì động cơ cực kỳ riêng tư, đang cố tìm cách “còn nước còn tát” nhằm bảo vệ quyền lực và quyền lợi mà họ cho rằng có thể bị tan vỡ, nếu buông lỏng cho xã hội dân sự hoạt động và để chính giới Việt Nam ngả vào vòng tay của phương Tây. Lối tuyên truyền và phản tuyên truyền đầy tủn mủn, cố chấp và khiên cưỡng như thế bắt buộc giới quan sát phải đặt ra câu hỏi là liệu có bàn tay của Bắc Kinh trong việc tác động hoặc chỉ đạo một thế lực “thân Trung” tìm cách ngăn cản hoặc phá hoại mối tiếp dẫn tái hòa hợp Việt - Mỹ ? Còn nếu không phải bàn tay của Bắc Kinh, thì phải chăng đang có một thế lực chính trị nằm ngay trong nội bộ đảng muốn “phá bĩnh”? Và phương tiện được sử dụng để gây nhiễu dư luận nằm ngay trong báo Nhân Dân. Thậm chí tờ báo này cũng đang nằm trong tình trạng “bất đồng chính kiến” bởi các quan điểm, đường lối và phe phái khác nhau? RFI : Sở dĩ bài báo này được chú ý, có lẽ vì trong thời gian gần đây trên báo chí nhà nước ở Việt Nam đã có xu hướng mở hơn, ít có những từ ngữ, cách nói quy chụp như trước ? Cũng cần ghi nhận là khác khá nhiều với thời gian năm 2012 trở về trước, thời gian gần đây cho thấy không phải tất cả những gì mà báo Nhân Dân hay Quân Đội Nhân Dân nêu ra đều mang bóng dáng của dư luận viên an ninh và giới chức ngành công an. Càng về sau này, dường như giới quan chức Bộ Công an càng nương theo cái nhìn độc lập tương đối với báo đảng và giới tuyên giáo các cấp từ trung ương đến tỉnh thành, và có vẻ họ ít tham gia vào các chiến dịch “bút chiến”, nếu có tham gia cũng không mấy nhiệt tình. Thay cho hàng loạt từ ngữ “chống đối, thù địch, vu cáo, vu khống, bịa đặt, xuyên tạc, đội lốt…” trước đây, phần lớn các bài “chống diễn biến hòa bình” gần đây chỉ “khuyến cáo” khá nhẹ nhàng đối với hoạt động “thù địch”, thậm chí còn dùng cả từ ngữ “nên chăng” và lược bớt công đoạn “xử lý pháp luật” ở cuối bài… Còn nếu nhìn từ trang báo ra ngoài đời, có thể nhận ra hiện tượng đối với một bộ phận trong giới nhân viên an ninh. Thay cho mục tiêu bắt giam và một số hành vi bị dư luận coi là “côn đồ” như trước đây, thời gian qua đã có một bước chuyển khá rõ về đối sách: từ “bắt bớ” sang “đánh đập”, rồi từ “đánh đập” sang “ngăn chặn”. Sắp tới có thể còn “mềm” hơn. Việc giao hảo và còn có thể đồng minh Việt - Mỹ là một xu thế tuy chậm nhưng khó cưỡng lại được. Xã hội dân sự ôn hòa cũng vì thế không thể bị phủ quyết thô bạo như trước đây. Có lẽ tình thế nền chính trị, đặc biệt là chính trị đối ngoại đang mở dần ra, đang khiến cho xã hội trở nên đa nguyên hơn, mỗi tổ chức hay cá nhân cũng có ý thức hơn về việc bảo toàn thân phận của mình. Nhất là khi các dư luận viên tuyên giáo và nhân viên an ninh không thể biết “sếp cao cấp” của họ “đối ngoại” ra sao và muốn “binh” theo “đường” nào. Đó cũng là bối cảnh mà thân ai người đó lo, hồn ai người đó giữ, đường ai người nấy đi. Giống như một cán bộ ngành an ninh thở dài : “Thời buổi này không biết thế nào mà lường…” RFI : Chúng tôi xin chân thành cảm ơn nhà báo Phạm Chí Dũng ở Saigon đã vui lòng dành thì giờ trả lời phỏng vấn của RFI Việt ngữ. Nguồn: viet.rfi.fr
......

SỨC MẠNH CỦA MỘT NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ

Nhớ lại. Ngày 27/01/1973, hiệp định Paris được ký kết, mở đầu cho Cộng sản miền Bắc, hai năm sau đó, không tốn nhiều súng đạn, đã thôn tính miền Nam Việt Nam. Uất ức, đau đớn cùng cực, người dân miền Nam kết tội người Mỹ là kẻ phản bội đồng minh Việt Nam Cộng hoà, bán đứng miền Nam tự do cho độc tài Cộng sản miền Bắc. Nhưng bình tĩnh và khách quan, chúng ta sẽ không thể đứng trên quyền lợi của mình để kết tội người khác như vậy.   Người Mỹ biết rất rõ, không thể kéo dài cuộc chiến tại Việt Nam, một cuộc chiến không có ánh sáng ở cuối đường hầm. Họ phải rời Việt Nam trong danh dự. Họ không thể để cho con em họ chết trên rừng rậm tại một đất nước xa xôi. Họ phải hàn gắn vết thương chiến tranh Việt Nam trong mỗi người Mỹ, mỗi gia đình Mỹ. Người Mỹ phải dành thì giờ để ổn định lại nền kinh tế của đất nước họ sau 20 năm lâm chiến tại Việt Nam. Họ ra đi, trong tư thế của kẻ thua trận sau khi có gần 60 ngàn đồng đội của họ đã vĩnh viễn nằm xuống. Vậy người Mỹ bỏ miền Nam là để cứu đất nước họ, và có thể để nghỉ ngơi trước khi chuẩn bị cho những dự định tốt đẹp khác. Hiểu một cách độ lượng và công bằng như thế, chúng ta sẽ thấy người Mỹ không phải là kẻ phản bội đồng minh miền Nam Việt Nam. Khi quân đội Mỹ ra đi khỏi Việt Nam, 7 căn cứ không quân của Mỹ ở Thái Lan đóng cửa (1961-1976). Dân Phillippines đứng lên đòi Mỹ trả lại căn cứ Không quân Clark và căn cứ Hải quân tại vịnh Subic. Đây là hai căn cứ hải quân và không quân lớn nhất của Mỹ ở ngoài nước Mỹ. Chúng được xây dựng từ năm 1903 và đóng cửa gần 100 năm sau, năm 1991. Do áp lực của dân chúng, Nhật Bản cũng đã lập kế hoạch để yêu cầu quân đội Mỹ rời khỏi đảo Okinawa. Thế rồi, mộng Trung Hoa hoá thế giới của Cộng sản Trung Quốc trỗi dậy như Tổng thống Eisenhower của Mỹ đã cảnh báo cách đây 70 năm trong lý thuyết “domino” của ông. Trung Quốc đưa ra đường lưỡi bò 9 đoạn chiếm gần trọn biển Đông. Họ lập ra Vùng Nhận dạng Phòng không. Đưa Giàn khoan HD981 vào vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Một phần lãnh thổ của Phillippines bị đe doạ. Tranh chấp quyết liệt về quần đảo Điếu Ngư hay Senkaku đã xảy ra giữa Nhật Bản và Trung Quốc. Biển Đông dậy sóng. Trước sự hung hãn ấy của một nước Cộng sản độc tài hùng mạnh Trung Quốc, những nước nhỏ khó bề ngăn cản được con hổ Trung Quốc. Nhật Bản cấp tốc hoãn lại, nếu không nói là bỏ hẵn kế hoạch đòi Mỹ trả lại căn cứ quân sự trên đảo Okinawa. Tháng 6 năm 2012 Phillippines đã mời Mỹ trở lại vịnh Subic và căn cứ Clark như xưa. Sau khi bị người anh em “4 tốt” Trung Quốc ức hiếp và sỉ nhục, đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã phải buộc lòng tìm đến cầu cứu kẻ cựu thù Mỹ. Vốn rất thực dụng và thực tế, như người Mỹ đã tiên đoán trên 40 năm về trước rằng họ sẽ trở lại Việt Nam và vùng đất ở châu Á, và sẽ trở lại trong tư thế để chiến thắng, như họ thua lần đầu khi đổ bộ lên bờ biển Normandy ở Pháp và họ đã trở lại Normandy và đã chiến thắng, giải phóng toàn châu Âu thoát khỏi hoạ phát xít Đức. Gần 10 ngàn người lính Mỹ đủ các loại cấp bậc đã nằm xuống chỉ cho một mục tiêu duy nhất: bảo vệ lý tưởng tự do. Vậy, lần này người Mỹ trở lại Việt Nam và biển Đông không phải vì Việt Nam hay Phillippines hay vì Nhật Bản mà, để họ phục vụ đất nước Mỹ, phục vụ mục tiêu hoà bình, dân chủ, thịnh vượng cho người Mỹ và các nước đồng minh trên vùng biển Đông. Người Mỹ và mọi người trên thế giới đã thấy thủ đô kinh tế tài chính thế giới ngày nay không còn ở London, New York hay Tokyo mà đang tiến dần về khu vực Đông Nam Á. Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) lúc đăng ký đầy đủ sẽ có 12 quốc gia thành viên trong đó có 4 quốc gia sáng lập là Bruney, Chile, New Zealand, Singapore và 8 nước đang đàm phán gồm Mỹ, Úc, Peru, Việt Nam, Malaysia, Mexico, Canada và Nhật Bản. TPP lúc ấy sẽ trở thành đòn bẩy phát triển kinh tế toàn cầu. Tiềm năng của TPP rất lớn: GDP trên đầu người: 34.750 tỷ đô la Mỹ chiếm 37,5% GDP của thế giới, có dân số là 798,5 triệu người chiếm 11,2% dân số thế giới, và kim ngạch thương mại bằng 25% kim ngạch của thế giới. Với một khu vực có một nền kinh tế tiềm năng như vậy chắc chắn, bằng mọi giá, con người trong các quốc gia TPP phải đồng lòng, nhất trí trong việc tránh chiến tranh, giữ gìn an ninh, ổn định, hoà bình, để tập trung vào phát triển. Để đạt được những mục tiêu ấy điều căn bản là phải có sự đồng thuận của mọi người, nghĩa là các xã hội phải dựa trên nền tảng dân chủ. Dân chủ là đầu mối của tự do, công bằng, chính trực. Chính những giá trị này sẽ làm cho con người tin tưởng nhau để tập trung xây dựng cuộc sống cho cao đẹp hơn, nhân hậu hơn, hạnh phúc hơn. Nước Mỹ đã tốn không biết bao nhiêu xương máu để có được một nền dân chủ và một nền kinh tế hàng đầu thế giới như ngày nay. Người Mỹ tự hào đã xây dựng được một nền khoa học, kỹ thuật phục vụ cuộc sống có chất lượng của con người. Họ muốn các nước trong vùng xuyên Thái Bình Dương cũng có những nền kinh tế mạnh và cuộc sống bình an, hạnh phúc. Họ muốn Việt Nam có một chính quyền dân chủ, minh bạch và một đất nước có nhiều tổ chức xã hội dân sự. Chính những tổ chức này sẽ tạo nên một đất nước công bằng, quý trọng sự khác biệt của nhau, giúp chính phủ nghe được tiếng nói của lương tâm, thấy được trong lòng người dân mình muốn gì. Giống như xã hội Mỹ, nhờ có dân chủ, có nhiều tổ chức xã hội dân sự mà đất nước họ tự do được phát triển hơn, giàu mạnh hơn. Đối với Việt Nam, dân chủ, tự do còn là sức mạnh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ. Độc tài, toàn trị, quan liêu, tham nhũng, bất công, xem quyền lợi cá nhân, đảng phái lên trên lợi ích của quốc gia là cái hoạ lớn cho toàn dân tộc Việt Nam. Người Mỹ thích giúp các nước đối tác mạnh. Một nước đối tác mạnh là một nước hợp lòng dân, được người dân hỗ trợ. Với nhiệm sở ở nước ngoài như Toà Đại sứ, Tổng lãnh sự, người Mỹ có hàng trăm cách để biết một chính phủ có hợp lòng dân hay không, những ai tham nhũng, những ai độc tài, những ai thân Trung Quốc, những ai bài Mỹ, những ai theo Nga, những ai thân Pháp. Đối với các nước tự do, đây là chuyện bình thường, họ không quan tâm đến các vấn đề nội bộ của người khác. Nhưng trong quan hệ quốc tế, muốn có lòng tin và sự ủng hộ của nhau, Việt Nam không nên nói điều không thực, tránh thói quen tuyên truyền. Phải làm cho được những điều mình đã hứa. Việt Nam sẽ là một thành viên của TPP. Nếu hợp lòng dân, giữa chính phủ và nhân dân là một. Đó là một sức mạnh vũ bão. Ngoài ra, Việt Nam còn có thêm sự hỗ trợ chân tình của các nước thành viên trong Hiệp định TPP và các nước bằng hữu dân chủ khắp mọi nơi trên thế giới. Sức mạnh của Việt Nam lúc đó là một sức mạnh tổng hợp. Không có một nước nào dám đe doạ Việt Nam. Nguyễn Phương Linh 21/08/2014   Nguồn: diendantheky.net
......

Điếu Cày, Lê Quốc Quân có tội rất nặng với ngành thuế

Trước diễn biến của tình hình mới, tôi ngồi luận lại, thấy rằng nhà báo tự do Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và luật sư Lê Quốc Quân có tội rất nặng với ngành thuế nước nhà.   Điếu Cày Nguyễn Văn Hải và luật sư Lê Quốc Quân là những người biểu lộ lòng yêu nước quá sớm. Các ông đi đầu trong việc biểu tình phản đối âm mưu xâm lược VN của bọn cầm quyền cộng sản Bắc Kinh. Như vậy là có tội. Điếu Cày còn lập ra câu lạc bộ Nhà Báo Tự Do. Như vậy là có tội. LS Lê Quốc Quân còn tích cực đấu tranh cho nhân quyền và làm luật sư bênh vực cho những người đấu tranh cho nhân quyền bị bắt bớ. Như vậy là có tội. Nhưng đưa các ông ra tòa để xét xử tội chống Tàu Cộng xâm lược hoặc tội đấu tranh cho nhân quyền thì không thể được. Do vậy muốn bắt tù các ông phải tìm ra một tội hình sự khác. Hai ông đều có làm ăn, kinh doanh để sinh sống, vậy phải tìm cho ra tội trốn thuế để áp vào. Ngành thuế được giao nhiệm vụ truy xét cơ sở làm ăn của hai ông. Một lực lượng cán bộ thuế được huy động vào cuộc. Bao nhiêu tâm trí, sức lực của ngành bị thu hút vào đây. Vì từ chỗ không biến thành có không phải là chuyện dễ dàng. Rồi cuối cùng công sức cũng được đền bù, tội trốn thuế của hai ông vẫn được tìm ra. Tuy nhiên chuyện đi tù vài năm của hai ông tưởng như đã xứng với tội của mình nếu như vừa mới đây không đổ bể ra một chuyện động trời. Ông chủ siêu thị Metro vào năm 2002 ôm đến VN chỉ có 78 triệu đô la, mở ra siêu thị Metro để bán sỉ như luật định. Tuy vậy Metro vẫn công khai bán lẻ cho người tiêu dùng trong suốt 12 năm hoạt động. Luôn luôn báo lỗ để khỏi nộp thuế, nhưng hầu như năm nào Metro cũng mở thêm từ 1 đến 2 cơ sở mới để đến hôm nay số siêu thị của họ lên đến 19 cái, chiếm các vị trí đắc địa của hầu hết các thành phố lớn trong cả nước. Kinh doanh thì thua lỗ nhưng khi họ bán trọn gói lại cơ sở làm ăn cho ông chủ mới Thái Lan thì họ thu được 879 triệu đô la. Chưa thấy cơ sở nào làm ăn thua lỗ mà bán đi lại lời đến như vậy. Bỏ vào gần 80 triệu đô la, thu lại được gần 900 triệu đô la mà ròng rã trong 12 năm không đóng cho VN một đồng thuế nào. Cả một đoàn 19 con voi Metro đã chui qua lỗ kim của ngành thuế VN một cách kỳ diệu như ảo thuật!!! Không chỉ có ông Metro mà còn nhiều ông ngoại khác nữa như tập đoàn Coca cũng chui lọt qua lỗ kim dễ dàng. Đó là chưa nói những ông voi nội khổng lồ khác thu lợi nhuận khủng từ tiền chênh lệch đất, tiền chênh lệch sang nhượng dự án cũng thong thả chui lọt qua lỗ kim thuế vụ. Tại vì ai? Tại vì những người như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải, LS Lê Quốc Quân mà ngành thuế phải dồn hết tâm trí vào nên lơ là mất cảnh giác nơi khác. Soi tìm vài đồng trốn thuế của một anh cựu chiến binh kiêm nhà báo tự do nghèo kiết xác như Điếu Cày Nguyễn Văn Hải hay tìm vài chục triệu đồng trốn thuế từ cơ sở kinh doanh dịch vụ chân chính của LS Lê Quốc Quân không phải là chuyện dễ, nếu không phải là ngành thuế anh hùng của VN mà là ngành thuế của các nước tiên tiến như Mỹ, Nhật, Châu Âu thì không thể nào tìm ra. Làm được việc nầy phải mất việc khác thôi. Mà việc bắt thuế Điếu Cày và Lê Quốc Quân mới là việc đại sự quốc gia. Do vậy tội của hai ông Điếu Cày và Lê Quốc Quân nặng lắm chứ không như chúng ta tưởng. HNC Nguồn: huynhngocchenh.blogspot.com
......

VIỆT NAM : QUỐC GIA CHUỘT NHẮT ?

Việt Nam, ôi quê hương yêu dấu rừng vàng biển bạc của chúng ta, nhưng mà có phải nó đang tụt xuống hàng “hố rác” của nhân loại?   Từ Bắc chí Nam, từ Quảng Ninh đến Cần Thơ các cô gái trẻ nườm nượm đi thi để lọt qua vòng tuyển lấy chồng Hàn Quốc. Với một lý do mở màn rất đơn giản, ít nhất người ta được xuất ngoại lần đầu, được đáp máy bay lên bầu trời. Trái lại, nếu không dám dứt bỏ một lần làm sao thoát cảnh lội bì bõm bên bờ ruộng để leo lên phi cơ phản lực vượt ra quốc tế? Những cô gái Việt này ao ước đàn ông Hàn Quốc chẳng khác gì “tây mũi tẹt”, giống cha ông châu Á đã từng khao khát phương Tây như thần thánh cái gì cũng có. Trời ơi, quả là một trời một vực, cùng da vàng mũi tẹt như nhau, chỉ sau vài thập kỷ, một đằng thì thành tây, đi đâu cũng leo lên xe hơi và máy bay; một đằng thì bán cả đời mình chỉ để nếm một lần leo phi cơ. Tại sao? Có phải tại trí khôn của người Việt mà rất nhiều người chúng ta lúc nào cũng thường trực tự hào? Có nhiều người Việt phản ứng rất mạnh mẽ khi thấy ai nói về cái xấu của người Việt, như thể nói thế là chạm đến quốc hồn – quốc túy, nói xấu tổ tiên, ông cha… và họ phản đối như thể đó là thước đo chứng minh lòng yêu nước của mình rằng: tôi yêu tổ quốc, tổ tiên, dân tộc, giống nòi, và tôi phản đối lại là để bảo vệ tổ quốc. Họ có bảo vệ tổ quốc không? Thực ra, họ chỉ bảo vệ cái xấu trong chính con người họ. Hoàng đế Napoleon có nói “Bao dung với cái xấu là sự đồng tình với nó”. Đúng vậy một kẻ ăn cắp thường có cái nhìn vô tội với một thằng ăn cắp khác. Kẻ nói dối cũng vậy. Kẻ độc ác, đố kỵ, ích kỷ cũng thế, nó không giành cho những ai giống nó một cái nhìn phán xử khác lạ… Kết quả bao dung cũng là bao che cho cái ác tràn lan vô bờ đến vậy dẫn đến dân tộc Việt ngày nay theo các bảng sắp hạng đều không ngoi ra khỏi vị trí đội sổ, thua xa cả những nước trong khu vực từ 50 đến 100 năm. Nói đâu xa, nước Lào là nước nhỏ bé nghèo nàn bậc nhất thế giới, nhưng từ xưa đến nay luôn trở thành giấc mơ của người Việt. Thời bao cấp, mấy anh sinh viên Lào chỉ có vài cái nhẫn vàng đeo ngón tay đã trở thành niềm ao ước của nhiều cô gái Việt. Còn giờ đây, xe hơi loại bán tải của Lào nhiều như xe đạp từ quê lên phố vẫn là mơ ước của giới trung lưu Việt Nam. Còn giới cán bộ trung lưu Việt hí hửng về thu nhập cỡ dăm chục triệu đồng mỗi tháng thì vẫn còn thua loại rửa bát, làm thuê ở Singapore, một nước nằm trong khu vực. Sự bao dung – bao che – cũng là đồng hóa đó đã gây ra vô số cái xấu cái ác ở Việt Nam: nào ăn cắp nắp cống, tháo đinh đường tầu, tháo đinh rầm cầu, cắt đường dây điện thoại, rải đinh “đa cạnh” ra đường, rồi xi măng cốt tre…đã gây ra nhiêu tai nạn khủng khiếp. Mới nhất là nạn pha trộn tạp chất vào xăng dầu đã gây ra hàng loạt vụ cháy xe gây thiệt hại tài sản và chết chóc tang thương. Đó là một thảm họa! Nhưng còn thảm họa hơn ngay khi đã tìm ra mầm mống của những vụ pha trộn, người ta vẫn triển khai sự bao dung, nghĩa là vẫn bao che cho những thứ nguy hiểm chết người rình rập ngay trong chiếc xe của người dân. Tại sao? Vì các công ty xăng dầu đều thuộc các ông lớn, chẳng lẽ ông lại muốn phơi áo sân sau của mình! Trong một buổi gặp mặt các phóng viên. Một vị quan chức nêu ra ý kiến chỉ đạo: để kích thích du lịch Việt Nam báo chí cần khai thác đưa tin về những lời nói tốt đẹp của khách thăm quan nước ngoài, như vậy mới lôi kéo được du lịch. - Vậy những lời nói về cái xấu của người Việt thì sao? – một nhà báo hỏi lại. Vị quan chức cười xòa “cái này thì…” – có nghĩa là không được đăng. Tóm lại, người Việt chỉ quen với những “sự thật” được biên tập, nói thẳng ra chỉ thích lời khen mà không muốn bị chê. Như vậy là người Việt chưa trưởng thành, chỉ là những đứa trẻ thích nghe lời khen mà không muốn bị chê. Mới đây có nhiều bài báo như của học giả Vương Trí Nhàn tập hợp những bài viết của các học giả lớn như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Khôi, Đào Duy Anh, Đặng Thái Mai … hoặc của nhà báo Hoàng Tùng… đã nêu ra từ xưa, nhiều chuyên gia phương Tây đã nhận xét người Việt rất nặng như: “nói dối”, “ăn cắp”, và “sát nhân”.   Đặc biệt có chuyên gia nói: “Việt Nam là quốc gia của những con chuột”.   Trong một phóng sự truyền hình, người ta phản ánh nạn người Việt qua các nước Tây Âu, có rất nhiều người tham gia trồng cây cần sa. Họ bị giam trong nhà kín, không được ra ngoài, suốt ngay lo chăm bón các cây cần sa dưới ánh đèn điện. Việc họ bị giam cầm trong nhà không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời liệu có phải là những con chuột? Gần hơn, một loạt các vụ giam cầm công nhân người Việt tại Nga, ăn ở và làm việc trong nhà hầm như súc vật, đến khi cháy không có đường thoát hiểm đành ôm nhau chết. Liệu có phải họ bị đối xử như những con chuột và chết như những con chuột? Và ai đã đối xử với họ như chuột? Bọn thực dân ư? Không, đó chính là những người Việt mới đó vẫn còn chân lấm tay bùn nhưng đã sớm bước vào con đường lưu manh hóa tiểu nông, rồi thành tư bản đỏ học đòi. Ai mà nói về cái xấu của người Việt thì đám này uất ức đầu tiên. Tại sao? Vì đó là những cái xấu mà chính họ mới là đại biểu cao cấp nhất.   Một quốc gia muốn trưởng thành và tiến bộ thì nó phải kiện toàn pháp luật bởi vì không có pháp luật không thể thành quốc gia mà đó chỉ là sắc tộc gia đình trị bán khai. Điều kiện đầu tiên để có pháp luật là không ai cho dù là vua chúa, chủ tịch hay thủ tướng được ở trên pháp luật. Vua phạm tội xử như thứ dân. Nhưng cái điều hiển nhiên đó cho đến nay đã đầu thiên niên kỷ thứ ba người Việt vẫn không được sống trong Nhà nước pháp quyền. Cái gọi là nhà nước của chúng ta là thứ hầm bà làng, đồng nát như lãnh đạo vẫn thường cất tiếng nói cửa miệng “đảng, nhà nước, và nhân dân”. Trong câu nói này dù bao sân nhưng vẫn thiếu một cơ quan trực tiếp của pháp luật đó là “chính phủ”, và như thế chẳng có ai chịu trách nhiệm cả. Trong khi đó ở các nước người ta luôn phải tuyên bố: chính phủ đã làm việc này việc kia. Việt Nam làm sao có pháp luật khi điều bốn của hiến pháp, Đảng tuyên bố “lãnh đạo tất cả”, cả quốc hội là cơ quan lập hiến, cả chính phủ là cơ quan hành pháp. Người ta nói “Quốc hội là cơ quan quyền lực tối cao”, nhưng mở màn kỳ họp quốc hội, người ta lại đem nghị quyết của trung ương đảng vào đọc như một định hướng bất khả biện, thì làm sao quốc hội còn là cơ quan tối cao được. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nhưng lại chịu sự lãnh đạo cao nhất hơn của đảng, thử hỏi ai thứ nhất? ai thứ nhì? Có một việc giản dị như vậy sao người ta vẫn ấp úng che đậy, không thể minh bạch? Vì thế ở Việt Nam, từ lập pháp đến hành pháp đều chỉ là lối tập trận giả, nhưng có một sự thực bên trong đó: là mong muốn và định vị tuyệt đối của quyền lực. Quyền lực tuyệt đối để làm gì? Để có được quyền lợi tuyệt đối! Quốc hội Việt cộng ở trình độ nào? Quốc hội đúng nghĩa là bàn của chủ tịch đoàn ngồi thấp hơn ghế của các nghị viên, được đặt ở giữa, để các nghị viên thoải mái tranh biện. Trái lại quốc hội Việt cộng thì nghị viên ngồi dưới như xem kịch, còn chủ tịch đoàn ngồi phía trên như ban giám khảo. Chủ tịch bước ra bệ nói như Mc, còn ở dưới giơ tay tán thưởng. Đúng là hình thức văn công chẳng giống ai. Đó là bằng chứng sờ sờ chứng tỏ cái gọi là quốc gia của chúng ta còn ấu nhi đến mức nào? Hội trường quốc hội đúng nghĩa của Việt nam vẫn đang xây để chờ cơ hội sánh bước với loài người. Than ôi vào thiên niên kỷ thứ ba rồi mà người Việt vẫn chưa nhấc chân bước đầu tiên vì HIẾN PHÁP ĐÍCH THỰC. Thử hỏi người Việt là người hay là chuột? Theo các chuyên gia, chuột là thứ sống theo bầy và thuộc loại thông minh bậc nhất, chúng không bao giờ để bị dính bẫy đến lần thứ hai. Một con bị sập bẫy, cho dù bẫy sắt, bẫy tre hay bẫy dính, thì chúng liền tụ lại họp hành rút kinh nghiệm rồi thông báo cho cả bầy trên toàn lãnh thổ cống ngầm cách thức nhận biết và tránh bẫy. Nhưng dù bầy chuột có khôn đến mấy, chúng cũng không phải là thứ kiêu hãnh của ánh sáng. Sự khôn ngoan của chúng chỉ là chui rúc để tồn tại, mà không phải là vươn thẳng để sống minh bạch và tiến bộ. Đó là quan lại cũng như dân chúng. Giờ đến văn hóa. Thơ là thứ phổ biến cũng như dễ nhất của Việt Nam hiện nay. Thôi thì tiểu nông, tiểu thương, các cụ hưu trí, các em mới lớn đua nhau làm thơ. Giờ hãy nhìn tập đoàn làm thơ, có đông rinh rích và rúc ríc làm thơ không? Mới đây Trung quốc lĩnh giải Nobel văn học lần hai. Tại sao họ có hai thành tựu đó? Bởi vì cách đây hơn nửa thế kỷ người Trung Quốc đã bỏ làm thơ, và coi thường thơ.   Ai chẳng yêu quê hương. Nhưng người đi xa về bao giờ cũng yêu quê hương hơn, yêu da diết và đau đáu. Tại sao? Bởi vì tình yêu của họ đã lên men rất nhiều bởi nỗi nhớ cồn cào. Người làm thơ sẽ yêu thơ hơn nếu người ta biết từ bỏ thơ để sống trong một cuộc đời toàn diện có công lý, tình yêu, tranh đấu, sám hối và cứu chuộc.   Văn là người! Thi ca là cuộc đời! Người làm thơ sẽ trở về với thơ như nước nguồn từ đỉnh cao ùa xuống, chứ không phải như tí nước mài mực rồi cọ lên giấy vòi vĩnh khúc vinh quang. Hãy viết văn làm thơ như những con đại bàng sà xuống từ lý tưởng cuộc đời, chứ không phải bằng những khúc rúc ríc lẩn trốn khôn ngoan của bầy chuột chỉ quen thủ thế trong cơ chế xin cho của bóng tối. Một chút thành công tem phiếu bao cấp chỉ là cách con chuột chui qua kẽ hở kiểm duyệt bé tí của ông chủ, đó không phải là cách con ngựa phi nước đại cùng những con khác trên thảo nguyên để tìm xem con nào mạnh nhất?! Dám ra gió cuộc đời! Dám ganh đua minh bạch! Mới có thể tìm được giải quán quân đại bàng, hay những con chiến mã! Còn đua trong ao hợp tác ư? Chính những nhà quán quân mậu dịch đã thừa nhận “chúng ta chỉ là tép”. Mong rằng mọi người Việt đều biết vượt qua tự ái để phấn đấu cho một xã hội tiến bộ, minh bạch và kiêu hãnh thực sự. XIN ĐỪNG ĐỂ BỊ HẠ NHỤC VÌ LÀ THẦN DÂN CỦA VƯƠNG QUỐC CHUỘT !! N H Đ Nguồn: ViệtNamThờiBáo
......

Nghi vấn mất tài sản quý trong việc khám nhà anh Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sam) ?

Ngày 21 tháng 8, chị Lê Thị Minh Hà vợ của anh Nguyễn Hữu Vinh ( Ba Sàm ) đã làm đơn khiếu nại lần 2 về các thủ tục bắt giữ chồng chị của cơ quan an ninh điều tra A92 BCA. http://bolapquechoa.blogspot.de/2014/08/on-khieu-nai-lan-2-cua-vo-nguyen... Trong đơn trình bày của mình, chị Lê Thị Minh Hà đã khiếu nại về việc bắt giữ khẩn cấp và việc khám xét nhà không giao biên bản khám xét, thu giữ tang vật cho gia đình. Trong đơn chị Hà có đoạn. ''  Đặc biệt là quy định tại Điều 145 về việc tạm giữ đồ vật, tài liệu khi khám xét, quy định như sau: “Khi khám xét, Điều tra viên được tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án. Đối với đồ vật thuộc loại cấm tàng trữ, lưu hành thì phải thu giữ và chuyển ngay cho cơ quan quản lý có thẩm quyền. Trong trường hợp cần thiết phải niêm phong thì tiến hành trước mặt chủ đồ vật hoặc đại diện gia đình, đại diện chính quyền và người chứng kiến. Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu khi tiến hành khám xét phải được lập biên bản. Biên bản tạm giữ được lập thành bốn bản: một bản giao cho người chủ đồ vật, tài liệu; một bản đưa vào hồ sơ vụ án; một bản gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao cho cơ quan quản lý đồ vật, tài liệu bị tạm giữ”. Gia đình tôi không được Cơ quan an ninh điều tra khi khám xét, thu giữ đồ vật cung cấp cho gia đình một bản. Việc thu giữ những gì? Có tiền bạc và những vật đồ dùng quý giá khác không? Việc mở niêm phong những đồ vật bị thu giữ có sự chứng kiến đầy đủ của những người tiến hành khám xét và ký niêm phong không? Những vấn đề nêu trên tôi đã khiếu nại, yêu cầu trả lời nhưng đang bị làm ngơ hoặc bỏ qua hoặc che giấu cho sự sai phạm.'' Qua tìm hiểu được biết thì anh Nguyễn Hữu Vinh là con của một vị bộ trưởng, anh từng có thời gian công tác ở nước ngoài, từng mở công ty thám tử tư làm ăn khá phát đạt. Chưa kể báo chí còn nói anh Vinh có quan hệ với các thế lực thù địch bên ngoài ( mà báo chí ta vẫn nói là thế lực bên ngoài chuyên cung cấp tiền cho các phần tử chống chế độ trong nước ) thì nhìn tiểu sử và lý lịch gia đình một người như anh Vinh, chuyện tài sản tích trữ có những thứ quý giá là điều không phải là không có. Thậm chí có thể còn là rất nhiều nếu nhìn quanh với bao nhiêu người khác có hoàn cảnh tương tự như anh. Đấy là chưa kể những giá trị văn hoá tinh thần của truyền thống gia đình, những kỷ niệm, kỷ vật công tác, tham gia cách mạng...nhưng thứ vô giá về tình thần. Chị Lê Thị Minh Hà không có mặt khi cơ quan an ninh khám xét nhà, chị không được giao nhận biên bản khám xét để biết họ thu giữ gì. Những tài sản do nhà chồng để lại hoặc do chồng làm ra chị không biết được là bao nhiêu, có những thứ gì. Việc cơ quan công an khám nhà cứ thấy tiền thu mang đi là có. Chúng ta đọc báo thấy vụ mua bán 100 usd khám xét két sắt thu tiền đô, vàng hay vụ bắt giang hồ Minh Sâm bên Bắc Ninh vừa qua là thấy thói quen của công an khi khám xét nhà mà thấy tiền hay đồ vật quý như vàng, bạc, xe hơi...cho nên việc chị Lê Thị Minh Hà hoài nghi quá trình khám xét có thể cơ quan công an thu giữ tiền bạc, đồ dùng quý giá là có cơ sở. Đây là lần thứ hai chị Lê Thị Minh Hà gửi đơn để đòi hỏi quyền lợi hợp pháp về số đồ vật bị thu giữ trong việc khám xét nhà. Lẽ ra cơ quan an ninh phải có trách nhiệm gửi biên bản khám xét, thu giữ đồ vật đến cho gia đình người bị bắt. Vì quyền lợi và nghĩa vụ liên quan một cách khách quan của họ. Thế nhưng trong vụ việc này, họ không làm vây. Đến khi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định pháp luật gửi đơn, đến hai lần họ vẫn không trả lời. Việc bắt khẩn cấp, khám xét khẩn cấp, không để lại biên bản nào đối với một người như anh Nguyễn Hữu Vinh, con của một bộ trưởng, bản thân từng công tác nước ngoài, từng lập doanh nghiệp làm ăn thành đạt...khiến người trong gia đình hoài nghi về việc có thể bị thu giữ số lượng tài sản quý báu nào đó là chuyện đương nhiên. Đáng nhẽ cơ quan khám xét phải có trách nhiệm làm chuyện này minh bạch  ngay từ đầu. Thật khó hiểu là đến giờ, qua hai lần đơn của vợ anh Nguyễn Hữu Vinh ( Ba Sàm ) họ vẫn chưa trả lời. Nguồn: Facebook Người Buôn Gió
......

Tuyên bố chung của các Tổ chức Xã hội Dân sự

Tuyên bố chung của các Tổ chức Xã hội Dân sự Độc lập tại Việt Nam trước phiên xử Bùi Minh Hằng, Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và Nguyễn Văn Minh Theo công văn số 69/2014/HSST-QĐ do thẩm phán Bùi Phước Lộc ký ngày 28-07-2014 với nội dung “đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự truy tố về tội “gây rối trật tự công cộng” theo Khoản 2, Điều 245 BLHS”, bà Bùi Minh Hằng, cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh và ông Nguyễn Văn Minh sẽ bị xét xử vào lúc 7g30 ngày 26-08-2014 tại tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Cả 3 người đã bị bắt giam từ ngày 11-02-2014 tại đồn công an huyện Lấp Vò (Đồng Tháp), sau đó bị chuyển về giam giữ tại trại giam công an tỉnh Đồng Tháp (xã An Bình, huyện Cao Lãnh). I- Chúng tôi, các Xã hội Dân sự ký tên dưới đây đồng nhận định: 1- Vụ việc xảy ra tại con đường nông thôn liên xã thuộc khu vực cầu Nông Trại, xã Mỹ An Hưng, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp ngày 11-02-2014 liên can đến 3 bị can nói trên và 18 bạn đồng hành đang trên đường viếng thăm một gia đình đồng đạo là vợ chồng ông Nguyễn Bắc Truyển, nạn nhân của công an mấy ngày trước đó. Đa phần trong đoàn đã cùng làm chứng họ bị một lực lượng công an hàng trăm người cải trang thành côn đồ, mai phục trong rừng cây bên đường, bất ngờ xuất hiện chặn xe máy của họ, hạch sách giấy tờ, khiêu khích thóa mạ. Trước việc đòi cho ra lẽ của đoàn người, công an đã phản ứng bằng cách dùng gậy gộc đánh đập dã man tất cả, bất kể nam phụ lão ấu, vừa quay phim chụp hình với máy móc chuẩn bị sẵn (x. Đơn tố cáo của tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm ngày 23-02-2014 và Thư gởi đồng bào của Đặng Thị Quỳnh Anh -con gái bà Hằng- ngày 05-03-2014). Sau khi nhiều người đã bị đổ máu, thương tích và bất tỉnh nhân sự, các nhân viên cảnh sát công an này (trong đó có đại úy Huỳnh Văn Thuận, đội phó an ninh huyện Lấp Vò và thượng tá Lê Hoàng Dũng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra Công an Lấp Vò, kẻ nặng tay nhất với bà Hằng và sau này sẽ là người ký lệnh khởi tố) mới khoác sắc phục công an rồi dẫn giải cả 21 người về giam giữ, đồng thời tước đoạt mọi tài sản họ mang theo (máy vi tính, máy chụp hình, điện thoại, băng-rôn…). Tất cả bị bỏ đói nửa ngày, bị ép tội “chống người thi hành công vụ”, bị giam trong nơi tối tăm bẩn thỉu và sau đó 18 người được thả ra. 2- Trong ba người còn lại bị giam giữ với lý do “gây rối trật tự công cộng” thì bà Hằng là một chiến sĩ dân chủ nổi tiếng và kiên cường, có mặt từ các cuộc xuống đường biểu tình ôn hòa chống quân xâm lược Trung cộng đến những phiên tòa bất công xử người yêu nước. Từ các phong trào khiếu kiện đòi công lý của dân oan mất đất đến những chuyến đi phát Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền. Bà từng bị giam giữ 5 tháng tại trại Thanh Hà năm 2012. Cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh thì từ năm 2010 đã tham gia phong trào biểu tình ở Sài Gòn để chống hành động xâm lăng gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, sau đó dấn thân vào nhiều hoạt động nhân quyền dân chủ. Còn ông Nguyễn Văn Minh là một tín đồ nhiệt thành thuộc Phật giáo Hòa Hảo độc lập, con rể và anh rể của hai cha con tù nhân lương tâm là ông Bùi Văn Trung và anh Bùi Văn Thâm. Khi bị bắt, cả 3 đã bắt bắt đầu tuyệt thực để phản đối. Riêng cô Nguyễn Thị Thúy Quỳnh bị dụ dỗ hãy buộc tội bà Hằng như kẻ cầm đầu việc tổ chức gây rối để được thả ngay (nhưng cô không làm). Còn bà Hằng thì đã tuyệt thực đến 04 lần dài ngày và mãi tới gần đây (19-08-2014) mới được gặp con gái. 3- Ngày 27-02-2014 chương trình “Vì An ninh Tổ quốc” của Đài truyền hình Đồng Tháp đã thực hiện phóng sự về việc bắt giữ ông Nguyễn Bắc Truyển rồi 21 người liên quan trong vụ án nói trên. Mọi sự đã được ghi hình chu đáo ngay từ lúc vụ việc xảy ra, nhằm mục đích miêu tả lại toàn bộ diễn biến của vụ việc, cho dư luận thấy những người bị bắt giữ trong vụ án này đã vi phạm pháp luật, và Công an Đồng Tháp đã thực hiện đúng theo quy định luật pháp!?! Phân tích băng hình phóng sự, người ta thấy tất cả các cáo buộc của công an đưa ra đối với 3 người đang bị bắt giữ là “gây cản trở giao thông nghiêm trọng”, “chống người thi hành công vụ”, và “gây rối trật tự công cộng” đều vô căn cứ. Dù phóng sự đã được dàn dựng và chuẩn bị từ trước, công an đã không thể đưa ra bất kỳ bằng chứng nào cho các cáo buộc đã nêu. Trái lại, nó là bằng chứng tố cáo cách hành xử côn đồ, lối vu khống công dân, thói đổi trắng thành đen của công an Đồng Tháp. 4- Ngày 10-03-2014, để tìm chứng cứ gian, nhằm hợp thức hóa hành vi “vô cớ hành hung công dân” và “bắt giam người trái pháp luật”, công an huyện Lấp Vò đã triệu tập 5 người thuộc nhóm đồng hành là ông Tô Văn Mãnh, anh Phan Đức Phước, anh Nguyễn Vũ Tâm, chị Bùi Thị Diễm Thúy và chị Đỗ Thị Thùy Trang. Cả 5 người ngay sau đó đều tố cáo trước công luận (qua đài RFA ngày 11-03-2014:http://vietnamese.rfa.org/vietnamese/in_depth/lap-vo-poli-comp-witns-031...) rằng nhân viên điều tra đã có hành động mớm cung và ép cung, tự tiện ghi trên biên bản nhiều điều mà các nhân chứng hoàn toàn không nói tới. Thêm nữa những điều họ chứng kiến, khai ra thì nhân viên điều tra không ghi vào biên bản. Trong các buổi làm việc ấy, để xây dựng “người đầu vụ”, công an luôn xoáy vào vai trò “tổ chức gây rối” của bà Hằng, ngõ hầu dễ đưa bà vào tròng pháp luật. Rõ ràng công an muốn bằng chứng hóa lời vu cáo của thượng tá Huỳnh Văn Thạnh, phó trưởng Công an Lấp Vò: “Đoàn người đó đánh công an trước, tấn công công an trước, công an không thể đánh lại, thì dân ở hai bên đường mới nhảy vào đánh phụ công an”!?! 5- Chưa hết, Công an huyện Lấp Vò còn gửi thông báo cho luật sư Trần Thu Nam (văn phòng luật sư Tín Việt – Hà Nội) nói rằng bà Bùi Minh Hằng từ chối thuê luật sư. Nhưng trước bằng chứng không thể chối cãi do luật sư Nam cung cấp là bản hợp đồng trợ giúp pháp lý chính tay bà Hằng đã ký với ông cùng văn phòng luật sư của ông (chính các con của bà Hằng cũng đồng lòng với ý muốn nhờ luật sư Nam tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mẹ), nên ngày 12-03-2014, công an huyện Lấp Vò đã buộc phải gửi giấy chứng nhận người bào chữa số 03 cho luật sư Trần Thu Nam và đồng ý để luật sư tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Hằng. 6- Cũng phải kể thêm: Tối ngày 22-03-2014, sau thánh lễ cầu nguyện cho bà Bùi Hằng và 2 người bạn Thúy Quỳnh và Văn Minh tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà, Hà Nội, cô.. II- Từ những nhận định nêu trên, chúng tôi, các tổ chức Xã hội Dân sự ký tên dưới đây đồng tuyên bố: 1- Ba bị can Bùi Minh Hằng, Nguyễn Văn Minh và Nguyễn Thị Thúy Quỳnh phải được trả tự do lập tức và vô điều kiện vì họ vô tội hoàn toàn. Chính công an mới là những kẻ mắc tội “gây rối trật tự công cộng” vì đã âm mưu từ trước, lén phục kích, đánh người dã man, khiến cho nhân dân phải tụ tập lại đông đảo. 2- Những động thái đầy mưu mô xảo trá của nhà cầm quyền tiếp đó (ép cung chứng nhân, bức bách nạn nhân, đầu độc công luận…) nhằm đưa những người hoạt động nhân quyền can đảm vào vòng tù tội chứng tỏ đây không phải là một vụ án hình sự bình thường mà đã được chính trị hóa, xuất phát từ động cơ chính trị. 3- Việc đánh đập giam giữ hoàn toàn phi lý rồi tiến hành tố tụng hoàn toàn phi pháp này không chỉ là hành vi chà đạp nhân quyền trầm trọng mà còn chà đạp cả chính bộ mặt pháp quyền giả tạo của chế độ. Đây mới là thực tế tình trạng nhân quyền tại Việt Nam chứ không phải như những luận điệu dối trá của mọi quan chức của bộ máy cầm quyền CSVN khi trả lời các chất vấn và phê phán của công luận hoàn vũ. 4- Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước cũng như toàn thể phong trào dân chủ quốc nội lẫn hải ngoại hãy chung tay và kiên trì tranh đấu (với sự trợ giúp của các quốc gia dân chủ và các cơ quan nhân quyền quốc tế) cho một nền pháp chế theo đúng những chuẩn mực của nhân loại văn minh, một nền pháp chế không còn là công cụ trong tay đảng cầm quyền độc tài. Làm tại Việt Nam ngày 21-08-2014 Các Tổ chức Xã hội Dân sự đồng ký tên: 1) Bach Dang Giang Foundation: Ths. Phạm Bá Hải2) Cao Đài: Ông Hứa Phi, Bà Bạch Phụng3) Cao Trào Nhân Bản: Bs. Nguyễn ĐanQuế4) Con Đường VN: Ông Hoàng Văn Dũng5) Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự: Ts. Nguyễn Quang A6) Hiệp Hội Dân Oan: Ông Nguyễn Xuân Ngữ7) Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị & Tôn Giáo: Ông Nguyễn Bắc Truyển8) Hội Anh Em Dân Chủ: Ls. Nguyễn Văn Đài9) Hội Bảo Vệ Quyền Tự Do Tôn Giáo: Lm. Nguyễn Ngọc Thanh10) Hội Bầu Bí Tương Thân: Ông Nguyễn Lê Hùng11) Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi12) Hội Đồng Liên Tôn: Lm. Đinh Hữu Thoại13) Hội Nhà Báo Độc Lập: Ts. Phạm Chí Dũng14) Hội Phụ Nữ Nhân Quyền: Cô Huỳnh Thục Vy, Bà Trần Thị Hài15) Lao Động Việt: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh16) Mạng Lưới Blogger: Cô Nguyễn Hoàng Vi17) Nhóm Linh Mục Nguyễn Kim Điền: Lm. Nguyễn Hữu Giải18) Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm19) Phong Trào Liên Đới Dân Oan: Bà Trần Ngọc Anh20) Tăng Đoàn PGVNTN: HT. Thích Không Tánh21) Tin Lành: MS Nguyễn Hoàng Hoa, MS Nguyễn Mạnh Hùng
......

Nhân quyền phải đi trước vũ khí cho Việt Nam

Hoàng Tứ Duy   Vào đầu tháng này, Thượng Nghị Sĩ John McCain tỏ ý rằng đã đến lúc Hoa Kỳ nên xem xét lại việc bán vũ khí sát thương cho Việt Nam sau 30 năm cấm vận. Cuộc đối đầu ngoài biển gần đây giữa Việt Nam và Trung Quốc về việc Trung Quốc thăm dò dầu khí ngoài khơi bờ biển miền Trung Việt Nam đã lộ rõ nhiều yếu kém về mặt chiến lược của Hà Nội.   Việc cung cấp cho Việt Nam những hệ thống hàng hải và bảo vệ vùng ven biển như là bước đầu -- và sau đó là hệ thống radar, máy bay chiến đấu và phụ kiện cho những thiết bị quân sự Mỹ còn xót lại -- sẽ tăng cường khả năng của Việt Nam và thực chất hóa mối "quan hệ toàn diện" đã được công bố bởi Hà Nội và Washington vào năm ngoái. Nhưng trên cả những hệ thống vũ khí hiện đại, cái mà Việt Nam thực sự cần cho sự an ninh lâu dài là những giá trị chính trị hiện đại. Chỉ có thể huy động sự đoàn kết dân tộc và giàu mạnh cần thiết để bảo vệ chủ quyền đất nước trong một xã hội tự do và cởi mở.   Vấn nạn của giới lãnh đạo Hà Nội là sự lựa chọn giữa quyền lợi quốc gia và bảo vệ chế độ, thường dẫn tới những hành động thiếu mạch lạc và mâu thuẫn. Từ những năm thuộc thập niên 1950, điều đó có nghĩa là mặc nhận những lấn chiếm đất đai của Trung Quốc bất chấp những tổn hại vê chủ quyền đất nước. Trong những năm gần đây, Hà Nội đã lấy lòng Trung Quốc bằng cách đàn áp những tiếng nói phê phán trong nước về sự bành trướng của Trung Quốc. Những mâu thuẫn cộng sản Trong thời gian chiến tranh, cộng sản Bắc Việt đã trông cậy rất nhiều vào viện trợ quân sự từ Trung Quốc. Nhưng sự giúp đỡ của Bắc Kinh cũng thật là đắt giá. Năm 1958, trong một công hàm ngoại giao, thủ tướng lúc đó là Phạm Văn Đồng đã ngầm công nhận những đòi hỏi về chủ quyền của Bắc Kinh đối với gần như toàn bộ Biển Đông. Rồi năm 1974, Hà Nội đã yên lặng hoàn toàn khi Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, lúc đó đang do Miền Nam Việt Nam quản lý. Sau chiến tranh, Hà Nội ngả về phía Liên Sô và xâm lăng nước láng giềng Cambodia, gây nên đổ vỡ quan hệ với Trung Quốc mà cực điểm là cuộc chiến biên giới đẫm máu năm 1979. Nhưng tới năm 1990, khi mà Liên Sô ngưng viện trợ và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt như quân cờ, Hà Nội lại tái thiết lập quan hệ với Bắc Kinh. Việc nối lại tình hữu nghị đã được thương thảo trong một cuộc họp bí mật tại Thành Đô, một tỉnh phía nam Trung Quốc, vào tháng chín năm 1990. Những thỏa thuận giữa lãnh đạo cao cấp của hai đảng cộng sản cho tới nay vẫn chưa được công bố. Căn cứ trên những tiết lộ có giới hạn của một số viên chức đã hồi hưu, những bloggers Việt Nam suy đoán rằng Hà Nội đã có những nhượng bộ then chốt về biên giới đất liền và biển như là cái giá phải trả cho việc bình thường hóa quan hệ. Từ sau Hội nghị Thành Đô, Hà Nội đã theo sát mô hình "Chủ nghĩa Lenin tư bản" của Bắc Kinh mà đặc điểm là một nền kinh tế mở nửa chừng dưới một thể chế chính trị khép kín. Trong khi những người dân Việt bình thường lo lắng về Trung Quốc dựa trên lịch sử hai ngàn năm chống ngoại xâm phương Bắc, thì những thành phần cốt cán của đảng lại thủ lợi vì những đầu tư kinh tế của Trung Quốc cũng như sự nương tựa về mặt ý thức hệ. Điều này giải thích tại sao Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh mới đây đã mô tả việc Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ) như là một sự bất đồng nhỏ giữa "anh em". Phát biểu tại cuộc đối thoại quốc phòng Shangri-La ngày 31 tháng năm, Đại Tướng Thanh ngần ngại không phê bình Bắc Kinh một cách công khai, mặc dù hải quân Trung Quốc đang sách nhiễu những tầu tuần duyên và tầu đánh cá Việt Nam trong vùng lân cận của giàn khoan đồ sộ của Tổng công ty Dầu khí Hải Dương Trung Quốc. Như là một hành động của sự tôn trọng đối với Bắc Kinh, bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ngăn cản chuyến đi Mỹ của Bộ Trưởng Ngoại Giao Phạm Bình Minh trong thời gian diễn ra sự đối đầu trên biển giữa hai quốc gia. Chỉ sau khi Trung Quốc di dời giàn khoan, Hà Nội mới cử một lãnh đạo cấp cao của đảng đi Mỹ, mặc dầu điều đáng ngạc nhiên là người này không phải là bộ trưởng ngoại giao được xem là thân thiện với Hoa Kỳ. Cũng không rõ ràng là tại sao Việt Nam vẫn còn chưa tiến hành một hành động pháp lý tại Liên Hiệp Quốc, giống như Phi Luật Tân đã làm trong việc tranh chấp về biển đảo với Trung Quốc. Mặc dù theo hầu hết các nhà quan sát quốc tế, Việt Nam chiếm ưu thế đối với Trung Quốc, nội bộ Hà Nội lại có nhiều mâu thuẫn trong việc có nên quốc tế hóa sự tranh chấp hay không. Kết quả là Trung Quốc vẫn còn có thể định nghĩa cuộc tranh chấp là song phương và có lợi thế nước lớn trong tương tác một đối một. Cho tới khi lãnh đạo đương thời Hà Nội có ý chí thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc, việc tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí của Hoa Kỳ sẽ không giải quyết sự yếu kém của Việt Nam, sự yếu kém về chính trị chứ không phải là quân sự. Lộ đồ nhân quyền Thượng Nghị Sĩ McCain đã đúng khi gắn liền viện trợ quân sự với nhân quyền: "Chúng ta có thể làm nhiều tới đâu về vấn đề này, cũng như với những mục tiêu thương mại và an ninh đầy tham vọng, tùy thuộc rất nhiều vào những hành động thêm nữa của Việt Nam về nhân quyền."   Đúng vậy, bây giờ chính là thời điểm mà Hoa Kỳ xác định những điều kiện cụ thể và hợp lý để tháo bỏ lệnh cấm vận vũ khí. Qua việc nhấn mạnh những điều kiện mà tối hậu sẽ củng cố sự an ninh của Việt Nam, các nhà hoạch định chính sách của Hoa Kỳ có thể nâng cấp quan hệ đôi bên lên một mức cao hơn. Điều kiện trước nhất là phải thả vô điều kiện tất cả các tù nhân chính trị. Thật là nghịch lý khi Hà Nội vừa thúc đẩy Hoa Kỳ phải có lập trường mạnh mẽ hơn về vấn đề Biển Đông, đồng thời lại tiếp tục bắt giữ những công dân Việt Nam lên tiếng một cách ôn hòa chống lại sự xâm lăng của Trung Quốc. Điều kiện thứ hai là phải hủy bỏ những điều khoản mơ hồ về an ninh quốc gia, được sử dụng một cách có hệ thống để hình sự hóa tự do ngôn luận và những hành động chính trị ôn hòa. Cho tới khi nào nhà cầm quyền Việt Nam còn coi việc viết blog hay cổ vũ cho dân chủ là một đe dọa đối với an ninh quốc gia, họ không thể nào tập trung một cách đúng mức vào mối đe dọa sống chết từ một Trung Quốc ngày một hung hăng. Điều kiện thứ ba là nhiệm vụ của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐND) chỉ tập trung vào một mục tiêu duy nhất là phòng thủ ngoại xâm. Hiện này nhiệm vụ của QĐND gồm ba mục tiêu: bảo vệ chế độ, phòng thủ ngoại xâm, phát triển kinh tế. Vũ khí từ Hoa Kỳ không bao giờ nên giao cho một quân đội sẵn sàng đàn áp những bất đồng ý kiến nhân danh an ninh nội tại. Thách thức ngoại giao   Một cuộc thăm dò ý kiến do BBC Tiếng Việt thực hiện vào tháng bảy đã hỏi thính giả của đài là muốn Việt Nam làm đồng minh của quốc nào. Hoa Kỳ là nước mà 87% những người trả lời đã chọn, trong khi chỉ có 1% chọn Trung Quốc. Kết quả của cuộc thăm dò đã xác nhận sự nhận xét của hầu hết những người theo dõi về tình hình Việt Nam: Người dân Việt Nam muốn có quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ và khoảng cách ngoại giao với Trung Quốc xa hơn. Đáng buồn thay, kết quả thăm dò cũng nói lên một thực tế khắc nghiệt khác: đa số công dân Việt Nam hiện thời không có tiếng nói trong những vấn đề quốc gia dưới chế độ độc tài hiện tại. Vần đề cung cấp vũ khí sát thương cho Việt Nam có lẽ sẽ được chính quyền Obama và Quốc Hội xem xét trong tương lai gần. Lo lắng về sự trỗi dậy của Trung Quốc, một số nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ có thể có quan điểm là việc cấm vận vũ khí là trở ngại chính cho quan hệ gần gũi hơn giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Nhưng vũ khí của Hoa Kỳ sẽ không làm cho Việt Nam mạnh hơn cũng như không khiến cho quan hệ chiến lược giữa hai nước sâu hơn. Cuộc tranh luận sắp tới cũng nên được hướng dẫn bởi sự đánh giá đúng mức cái gì làm tăng cường sức mạnh cho nước Việt Nam và người dân Việt Nam. Đó là sự cải thiện nhân quyền và gia tăng tự do dân sự. *** Rights before weapons for Vietnam By Duy Hoang Earlier this month, Senator John McCain indicated that it was time for the United States to consider selling lethal weapons to Vietnam after a 30-year embargo. The recent maritime standoff between Beijing and Hanoi over Chinese oil exploration off the central coast of Vietnam exposed Hanoi’s many strategic weaknesses. Providing Vietnam with coast guard and maritime systems as a first step - and eventually radar, fighter aircraft and spare parts for leftover American military equipment - would bolster Hanoi’s strategic capabilities vis-a-vis China and give substance to the "comprehensive partnership" announced last year between Hanoi and Washington. But more than modern weapon systems, what Vietnam really needs for its long-term security is modern political values. Only through a free and open society can the country mobilize the national unity and prosperity needed to safeguard its sovereignty. The Hanoi leadership's dilemma between pursuing the national interest and ensuring the communist regime's preservation has often led to incoherent and contradictory actions. Since the 1950s, that has meant acquiescing to Beijing's territorial grabs at the expense of Vietnamese sovereignty. In recent years, Hanoi has accommodated Beijing by suppressing domestic criticism of Chinese expansionism. Communist contradictions During the war, communist North Vietnam relied heavily on Chinese military support. But Beijing’s assistance was costly. In a 1958 diplomatic note, then prime minister Pham Van Dong implicitly recognized Beijing's claim over virtually the entire South China Sea. In 1974, Hanoi was deafly silent when China invaded and occupied the Paracel Islands, which were then held by South Vietnam. Following the war, Hanoi's tilt toward the Soviet Union and invasion of neighboring Cambodia resulted in a break with China that culminated in a bloody border war in 1979. But by 1990, with the Soviet Union no longer providing aid and communist states in Eastern Europe collapsing like dominoes, Hanoi re-established diplomatic relations with Beijing. The rapprochement was brokered at a secret summit held in the southern Chinese city of Chengdu in September 1990. The agreements concluded by the senior leadership of both communist parties have still not been publicized. Based on limited revelations by retired officials, Vietnamese bloggers speculate that Hanoi made key concessions regarding land and maritime borders as the price for normalization. Since Chengdu, Hanoi has closely followed Beijing’s model of "Market Leninism", characterized by a quasi-open economy and closed political system. While the average Vietnamese citizen is undoubtedly wary of China based on two millennia of conflict, communist regime elites have profited from Chinese economic investment and ideological support. This may explain why Defense Minister Phung Quang Thanh recently described China's violation of Vietnam's exclusive economic zone (EEZ) as just a small disagreement among "brothers". Speaking at the Shangri-La defense dialogue on May 31, General Thanh was reluctant to openly criticize Beijing, even as its naval forces were harassing Vietnamese coast guard and fishing vessels in the vicinity of an oil rig operated by state-owned China National Petroleum Corporation. In apparent deference to Beijing, the ruling Communist Party’s politburo reportedly barred Foreign Minister Pham Binh Minh from traveling to the US during the maritime standoff. Only after China removed the oil rig did Hanoi send a senior party official to the US, though surprisingly not the perceived as pro-West foreign minister. Nor is it clear why Vietnam has still not initiated a legal case at the United Nations, as the Philippines has done for its maritime dispute with China. Even though most outside observers regard Vietnam as holding the legal high ground against China, Hanoi is deeply conflicted on whether to internationalize the dispute. As a result, Beijing is still able to define the issue bilaterally, a one-on-one interaction that allows China to leverage its large country advantages. Until the Hanoi’s Communist Party leadership demonstrates a willingness to break away from Beijing's influence, lifting the American arms embargo will not fix Vietnam's core weakness, which is political rather than military. Rights roadmap Senator McCain was correct to link military assistance to human rights: "How much we can do in this regard, as with our other most ambitious trade and security objectives, depends greatly on additional action by Vietnam on human rights." Indeed, now is the time for the US to establish concrete and sensible conditions for lifting the arms embargo. By spelling out conditions that ultimately bolster Vietnam's security, US policymakers can elevate the bilateral relationship to the next level in good faith. The foremost condition should be the unconditional release of all political prisoners. It is ironic that while Hanoi is pushing for Washington to take a stronger public stand on the South China Sea, it continues to detain Vietnamese citizens who have peacefully spoken out against Chinese aggression. Second would be the repeal of vague national security provisions which systematically criminalize free expression and peaceful political activity. As long as Vietnamese authorities confuse blogging or pro-democracy advocacy with threats to national security, they will not be able to focus properly on the existential threat arising from an increasingly aggressive China. Third would be to focus the mission of the People’s Army of Vietnam (PAVN) solely on external defense. Currently, the PAVN is mandated with three roles: protecting the regime, external defense, and economic development. American weapons should never be delivered to a military that's geared toward suppressing dissent in the name of internal security. Salient sentiments An online poll conducted by the BBC’s Vietnamese language service in July asked readers which country they preferred Vietnam to ally with. The US was chosen by 87% of respondents, while China was selected by a mere 1%. The poll results confirm the observations of nearly all Vietnam watchers: the Vietnamese people want closer ties with the US and greater diplomatic distance from China. The survey confirmed another hard truth: that the vast majority of Vietnamese citizens currently do not have a voice in their national affairs under the current authoritarian regime. The issue of providing lethal weapons to Vietnam will likely be considered by the Obama administration and Congress in the near future. Concerned by a rising China, some American policy makers might view the arms embargo as the chief impediment to closer US-Vietnam ties. But American weapons alone won't result in a stronger Vietnam, nor a deeper strategic relationship. The upcoming debate should also be guided by an appreciation for what would most empower Vietnam and its people - improved human rights and greater civil liberties. Duy Hoang is a US-based leader of Viet Tan, an unsanctioned pro-democracy political party in Vietnam. Nguồn: http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/SEA-01-200814.html
......

Về bài báo bị phạt trên Trí Thức Trẻ

Cuối tuần qua, câu chuyện về trang Trí Thức Trẻ bị đình bản vì bài “Gái miền tây và 3 chữ N” vẫn tiếp tục được tranh luận trên nhiều trang mạng tiếng Việt. miền Tây Nam Bộ gồm hơn 10 tỉnh với hàng chục triệu dân Theo gợi ý của một số bạn bè trên Facebook, tôi viết bài này để chia sẻ cách nhìn từ Anh Quốc, về chuyện tự do báo chí và cũng về cách ‘xử lý’ của nhà chức trách khi có chuyện tương tự. Đầu tiên là về chính ngôn từ trong bài viết khiến Trí Thức Trẻ bị đình bản và phạt tiền. Theo tôi, đấy chưa đủ tiêu chuẩn là một bài báo, cùng lắm là dạng ý kiến riêng, may lắm thì được đăng ở một trang blog cá nhân hoặc chia sẻ với bạn bè. Có lẽ cũng vì ở Việt Nam còn thiếu một định nghĩa, một tiêu chuẩn thế nào là ‘bài báo’, nên Trí Thức Trẻ đã đăng nó và gặp ‘vận hạn’ như các bạn đã biết. Nếu là bài báo dạng tin tức (news story), người viết phải nêu ra một thông tin gì đó mới mẻ, về một sự kiện, nhân vật nhất định. Nếu là bài phân tích (analysis), bình luận (commentary) thì cũng phải có căn cứ khoa học hoặc qua phỏng vấn, trích dẫn chuyên gia, nhà quan sát. Cứ cho là về mặt thể loại, bài "Gái miền Tây" tạm có đủ tiêu chuẩn là ý kiến (opinion piece) thì nó cũng hoàn toàn thiên lệch vì dựa trên ‘câu chuyện’ về một hai cô gái không tên nào đó. Về mặt đối tượng thì gộp cả triệu cô gái ở trên 10 tỉnh miền Tây Nam Bộ của Việt Nam vào một hai ví dụ để khen chê linh tinh không phải là ‘làm báo’ mà là kỳ thị vùng miền.   Văn phong và cách viết Nhưng điều đáng lo ngại là ở Việt Nam cho đến mấy ngày hôm qua, số người phê phán bài viết về cách khinh thường trí tuệ các cô gái miền Tây thì nhiều (chữ N thứ ba), mà ít người thấy cả hai chữ N kia cũng đầy vấn đề. Vì xét theo quan điểm văn minh, hiện đại, chuyện một thanh niên nam dùng các từ như ‘ngon’ để gọi phụ nữ là sai trái. Đấy là ngôn ngữ của vỉa hè, mang tính phân biệt nam nữ và ‘sexist’, tức là coi phụ nữ là đối tượng của bình phẩm mang màu sắc tình dục rõ rệt. Ở một công ty phương Tây chẳng hạn, nếu gọi đồng nghiệp nữ theo kiểu đó chắc nam giới sẽ bị kiện vì tội ‘sexual harassment’ bằng lời lẽ. Hơn nữa, gọi trẻ em 'ngoan' thì tạm được nhưng gọi phụ nữ là ‘ngoan’ cũng có hàm ý người nói kẻ cả, bề trên, đặc đầu óc phong kiến, không coi nữ bình đẳng với nam. Vì thế, nhiều bạn, kể cả các bạn nữ, đã hoàn toàn sai lầm khi cho rằng bài viết ‘khen’ các cô gái miền Tây Nam Bộ là ‘ngoan và ngon’. Theo tôi, cả ba chữ N đều có tính miệt thị và còn vô ý thức ở hai chữ đầu và thiếu văn hóa ở chữ thứ ba. Cả câu chuyện khiến người ta lo ngại về thái độ chung về nữ giới của rất nhiều thành viên trong xã hội. Tư duy 'macho' đó này là quá lỗi thời và các bạn cần biết rất nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang có nữ tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng quốc phòng (như bà Ursula von der Leyen của Đức), và không có nghề nghiệp, vị trí gì là thuộc độc quyền của phái nam. Tự do và kiểm duyệt Nhưng việc đình bản và phạt báo vừa qua có liên quan gì đến tự do báo chí hay không? Theo tôi, về mặt kỹ thuật, việc phạt báo hay cấm đăng bài, xóa bài, căn cứ vào các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay là bình thường. Nhưng nhìn rộng ra thì cả cơ chế quản lý báo chí đó lại có vấn đề. Cấm bài, cắt bài, phạt báo trên lý thuyết thuộc về phạm vi kiểm duyệt. Các bạn đừng nên nghĩ kiểm duyệt là xấu. Nước nào cũng kiểm duyệt ít nhiều văn hóa, truyền thông. Vấn đề chỉ là kiểm cái gì và duyệt cái gì, cơ chế ra sao mà thôi. Ở rạp chiếu phim bên Anh, sau quảng cáo, trước khi vào phim người ta luôn chiếu giấy chứng nhận - certificate của Hội đồng Điện ảnh Anh Quốc (BBFC) với dấu mang chữ PG trong khung hình tam giác màu vàng. Chữ ký của quan chức xét duyệt phim đó cũng hiện luôn trên màn hình. Anh Quốc chủ trương tự do thông tin nhưng cũng ngăn ngừa vi phạm Người ta kiểm duyệt phim ảnh căn cứ vào mức độ tình dục, bạo lực trong phim và xem phim phù hợp với lứa tuổi nào. Kể cả phim của Mỹ đã được xét duyệt bên đó, muốn chiếu tại Anh cũng phải qua cửa của Bấm BBFC. Với báo chí, nhất là báo mạng, Anh Quốc chủ trương tự do thông tin và thúc đẩy sáng tạo công nghệ mạng (online innovation) nhưng chính phủ vẫn ngăn các dạng phát hành vi phạm bốn dạng nội dung. Đó là nội dung vi phạm bản quyền (copyright infringement); tình dục người lớn (adult content – nhằm bảo vệ trẻ em); khủng bố (terrorism – ngăn các nhóm khủng bố dùng mạng Internet để tuyên truyền); và kích động hận thù (hate crime). Khi các trang web hay bài viết, nội dung này xuất hiện, chính quyền có thể yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ (ISP) khoá trang lại hoặc khóa bài viết, nội dung âm thanh, hình ảnh, video đó. Nhưng trong các lĩnh vực khác, nhà nước không tự can thiệp mà để cho xã hội cùng hệ thống tư pháp độc lập giải quyết. Ví dụ là một cá nhân, bạn hoàn toàn có thể khiếu nại lên báo chí hoặc yêu cầu toà án ra án lệnh ngăn báo chí đưa tin, đăng ảnh mà bạn cảm thấy đang hoặc sẽ vi phạm đời tư, quyền riêng tư hoặc thấy bị xúc phạm. Rất nhiều siêu sao của giới ca nhạc, giải trí, thể thao đã chọn cách này để ngăn báo chí. Ngoài ra, không gian tự do để châm chọc, trêu đùa, thậm chí cười nhạo luôn rộng mở. Các sách in tiếu lâm bán đầy ngoài hiệu sách, về đủ mọi loại người, loại nghề. Bạn còn có thể mua cả bộ sách Bấm 'Xenophobes' Guides' trêu chọc, nêu tính xấu một cách đầy định kiến nhưng dí dỏm về các quốc gia và dân tộc châu Âu, châu Mỹ, cả Trung Quốc, Nhật Bản (chưa thấy Việt Nam). Trở lại bài viết tai tiếng trên Trí Thức Trẻ. Vì ở Việt Nam không có báo chí tư nhân, tự nhiên đây lại là chuyện ‘quốc gia đại sự’. Vì mọi tờ báo, ấn bản thông tin, đài phát thanh, truyền trình ở Việt Nam ở dưới có một cơ quan chủ quản nào đó thuộc chính quyền, nên quả bóng trách nhiệm cho mọi nội dung luôn rơi trở lại sân chính quyền. Trong khi nó chỉ nên là chuyện của những người cảm thấy bị xúc phạm gửi thư khiếu nại hoặc kiện tờ báo hay cá nhân tác giả mà cho đến nay vẫn ẩn danh. Hai bên có thể gặp nhau tại toà án nếu như toà ở Việt Nam được giao vai trò xét xử báo chí. Đằng này tất cả vẫn lại quay về điểm khởi đầu là bộ ngành có báo làm sai thì bộ ngành tự xử lý...chính mình hoặc cùng lắm là bộ này xử lý bộ kia nhưng vẫn cùng nằm trong chính phủ. Cũng vì thế, tranh luận về ‘tự do báo chí’ trong vụ việc này xem ra chưa phù hợp chừng nào cơ chế tam quyền phân lập và chế độ kiểm duyệt minh bạch với thông tin, báo chí được định hình ở Việt Nam. Nguồn: bbc.co.uk/vietnamese/blogs
......

Thoát văn hóa Trung Quốc dễ hay khó?

Trong những lúc gần đây nhân sĩ trí thức Việt Nam đang cố vươn tới điều mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã từng làm cách nay nhiều thập niên đó là nỗ lực thoát ra khỏi ảnh hưởng văn hóa lâu đời của Trung Quốc. Liệu đây là nỗ lực có tỷ lệ thành công ra sao và vai trò nhà nước trong vận động này là gì? Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đến tham dự một cuộc họp của thanh niên Việt Nam và Trung Quốc tổ chức tại Hà Nội hôm 22/12/2011.   Khi nói về văn hóa không những chỉ có yếu tố tích cực mà còn những tiêu cực, do hoàn cảnh lịch sử khiến cả một dân tộc trong nhiều thế kỷ phải theo đuổi một cách mù quáng đôi khi miễn cưỡng một triết thuyết do tập đoàn cầm quyền hay chế độ phong kiến muốn áp đặt cho dễ dàng trong việc cai trị. Lệ thuộc văn hóa Trung Quốc đến từ đâu? Văn hóa Trung Quốc với Khổng giáo làm chủ đạo thâm nhập vào Việt Nam đã hơn 1.000 năm, tại sao giờ này mới nảy sinh ý định thoát ra khỏi nó và hoàn cảnh Việt Nam hiện nay liệu có khác gì với Nhật Bản và Hàn Quốc hay không?   Ngoài nguyên nhân văn hóa, hệ thống chính trị của Trung Quốc đã làm cho Việt Nam không thể độc lập tự chủ, ít nhất trong các quyết sách chính trị mà lý tưởng cộng sản là kim chỉ nam cho mọi đường lối. Nguyên nhân ấy ăn sâu vào từng con người trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam khiến mọi nỗ lực thoát Trung gần như tuyệt vọng trong một giai đoạn kéo dài gần một thế kỷ. Nhà văn Hoàng Hưng, một trong những người tổ chức buổi tọa đàm có tên “Thoát Trung về văn hóa” vừa diễn ra tại Hà Nội cho biết quan điểm của ông: "Nguyên nhân của mọi nguyên nhân chính người lãnh đạo đã đưa ra lý tưởng sống, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mác Lê nin gì đó để truyền bá trong xã hội này và đến nay vẫn cứ kiên trì tuyền bá nó. Họ đưa vào điều lệ đảng, đưa vào hiến pháp các thứ. Trong xã hội thì ai cũng biết rằng bản thân người lãnh đạo Việt Nam cũng như Trung Quốc đều đang tìm cách để thoát dần dần ra khỏi nó. Thí dụ như về kinh tế thì rõ ràng họ đã thoát ra và chấp nhận kinh tế thị trường chứ không còn chấp nhận cái đuôi Xã hội chủ nghĩa, cái cách mà nhà nước nắm quyền chi phối. Nếu mà nói đúng thì nó phải là một nền chuyên chính vô sản của công nhân, của nông dân. Thế nhưng ai cũng biết công nhân và nông dân hiện nay là tầng lớp khổ nhất trong xã hội. Đất đai không được ai bảo vệ, nghèo khổ bị đàn áp. Cái được gọi là chủ nghĩa Mác Lênin thực chất chỉ là cái vỏ đễ giữ lại nội dung chuyên chính độc tài toàn trị của một giới đặc quyền nắm quyền cai trị. Cái giả dối lớn nhất là giả dối về lý tưởng rao truyền trên xã hội. Những điều giả dối như vậy thì làm sao xã hội không giả dối theo trên tất cả mọi lãnh vực?" Khổng giáo và ý thức nữ quyền   Một chi nhánh của Viện Khổng tử Trung Quốc quảng bá văn hóa tại thành phố Blagoveshchensk, Nga hôm 22/5/2011. Nhà báo Lê Phú Khải nhìn nguyên nhân ở một góc độ khác: sự lệ thuộc Khổng Mạnh một cách mù quáng đã khiến xã hội Việt Nam rơi vào quỹ đạo mà vua quan phong kiến thiết lập ra cho dễ bề thao túng quyền con người, đặc biệt là ở người phụ nữ:   "Khổng giáo nó ngấm vào mạch máu, nó ngấm vào từng con người và người ta xem đó là chân lý. Chẳng hạn người ta nói người phụ nữ chồng chết thì phải theo con. Tại sao phải theo con mà không lấy chồng khác? Nhưng người phụ nữ Việt Nam lại xem đó là chân lý, là lẽ phải. Trinh tiết, tiết tháo, thủy chung với chồng. Những chân lý mà người ta tiếp thu giống như người khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Cái nguy hiểm của văn hóa Khổng Mạnh tức là anh khát nước mà lại uống thuốc độc để giải khát. Điều này nó ngấm vào tiềm thức của xã hội Việt Nam và rất khó cho phép con cãi lại cha. Cha có thể sai chứ? Cấp trên có thể sai chứ? Thứ văn hóa bầy đàn mà chúng ta không thể thoát ra vẫn đi theo con đường toàn trị. Cho nên cái gốc của nó là như thế." Giáo sư Ngô Đức Thọ, người nghiên cứu văn hóa Trung Quốc trong hàng chục năm trời cho biết kinh nghiệm của ông và nguyên nhân chính khiến Việt Nam lệ thuộc vào văn hóa Trung Quốc là do nhà cầm quyền cố ý tránh né sự thật lịch sử Việt Nam bị nô lệ hàng ngàn năm từ cái gọi là giao lưu văn hóa hai nước:   "Ba cuộc chiến tranh dẫn đến thời kỳ Bắc thuộc thì mọi người Việt Nam học lịch sử đều thuộc cả, ta gọi là ba lần Bắc thuộc. Chính xác phải là 13 thế kỷ hơn 1.300 năm. Như vậy nó là một trang sử rất u tối của chúng ta. Nói đến 1.000 năm Bắc thuộc thì mọi người nói rất nhiều mà sử sách thì viết không biết được bao nhiêu phần trăm? Lướt qua một cách thoải mái. Thực ra trong một nghìn năm đó lịch sử Việt Nam đau thương vô cùng mà lớp trẻ bây giờ không rõ. Trong sách Quốc văn Giáo khoa thư của chính phủ Trần Trọng Kim thời trước khi chúng tôi còn đi học thì người ta vẽ một vài tấm tranh trong thời kỳ đó rất tang thương. Những ngôi mộ thời Đường như thế nào, cảnh hoang tàn của quân Nam Chiếu ở trên Vân Nam nó tàn sát như thế nào. Thế hệ bây giờ thì không có nữa, rõ ràng là rất thiếu. Cứ nghiên cứu trên quan niệm là giao lưu văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc nên mới có chuyện người Việt học chữ Hán… Rất nhiều lĩnh vực của xã hội đen tối dưới thời Bắc thuộc, tội ác của những thái thú đối với người dân Việt Nam thế nào trong suốt hơn 1.000 năm Bắc thuộc đấy tàn sát bao nhiêu vụ? bóc lột thu thuế má vượt sản như thế nào, bắt quân dịch các đợt như thế nào …nhưng lịch sử chính thức của nước ta bây giờ hỏi số liệu đó thì hoàn toàn không có, không một trang nào viết cả, đó là một thiếu sót rất lớn." Nô bộc chính trị Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định tính chất nô bộc chính trị của lãnh tụ đã biến Việt Nam thành một nước lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc. Sự coi thường văn hóa nước nhà đã gây ra hậu quả ngày nay: "Có một thời gian dài mình đã gửi cái hồn phách cho Tàu còn cụ Hồ thì nói là gửi hồn sang Mạc Tư Khoa thì đều không đúng. Vấn đề là phải gửi gấm cái hồn dân tộc vào văn hóa của mình vào lòng người, vào văn hóa. Đấy là những cái mà chúng tôi muốn nói đến. Hai nữa văn hóa nó phải bồi đắp cho một sức sống mới của một dân tộc cho nên vấn đề quốc văn quốc sử phải xem xét lại. Vấn đề quốc sử chẳng hạn: hiện nay có một điều là giới sử học, chính trị thì đã đành rồi, nhưng giới sử học ngay vấn đề lịch sử ¼ thế kỷ của Việt Nam Cộng Hòa chả ai nghiên cứu cả mặc dù nó là một thực thể lịch sử, nó có cái hay, cái dở, cái đúng cái sai nhưng trong ¼ thế kỷ ấy không có nghiên cứu, tức là một khoảng trống của một nửa nước. Và bây giờ rõ ràng về mặt chính trị người ta muốn thừa kế nó thì phải thừa nhận tính chính thống trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của mình nhưng các mặt khác thì mình có thừa kế không và làm sao bỏ nó đi được?" Thói quen theo đuôi hữu nghị   Phó Chủ tịch Việt Nam Nguyễn Thị Doan (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Thượng Hải vào ngày 21 tháng 5 năm 2014 (hình ảnh minh họa).   Từ Úc châu, Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho biết những quan sát của ông về thói bắt chước một cách mù quáng của hệ thống cầm quyền Việt Nam đã khiến đất nước này biến thành một phiên bản của Bắc Kinh từ ngôn ngữ hành chánh cho tới sinh hoạt khoa học và thậm chí trong cả lãnh vực quốc phòng, ông nói: "Những motif về tham nhũng, phong trào các quan lớn có bồ nhí… tất cả đều xuất phát từ bên Tàu, Việt Nam chỉ rập khuôn theo Tàu mà thôi. Nếu xem lại các tàu kiểm ngư của Việt Nam mình thì sẽ thấy nó có màu trắng có vẽ mấy cái gạch xéo xéo xanh đỏ trên sườn tàu. Nếu nhìn những cái gạch đó của tàu cảnh sát biển Việt Nam và cảnh sát biển Trung Quốc thì giống y chang nhau! Hóa ra trước đó có mấy ông cảnh sát biển của Tàu nó qua giao lưu với Việt Nam và 4 tuần sau thì xảy ra xung đột. Trong khoa học, khi qua thăm Trung Quốc trong mấy năm gần đây mình thấy Việt Nam quan tâm tới vấn đề như phòng thí nghiệm trọng điểm hay các chương trình có những con số như 322 này nọ… khi mình qua Tàu mình thấy cũng y như vậy. Nó cũng có chương trình trọng điểm, những chương trình khoa học 917… như vậy thì mình học nó quá nhiều, mình bắt chước nó quá nhiều! Mình bắt chước cả thói xấu như chợ luận án, thuê người viết luận văn, quan chức phải có bằng Ph.D, mua bán bằng cấp, mua bán chức danh giáo sư nữa … tất cả điều đó tôi qua Tàu và thấy hết, nhưng nó xảy ra trước mình!"   Lệ thuộc chính trị kéo theo bất động của cả nước trước sự xâm lấn văn hóa của phương Bắc ngày càng trầm trọng. Nỗ lực thoát ra khỏi những hệ lụy ấy đang là đầu đề của các buổi thảo luận căng thẳng đầy khó khăn. Câu hỏi đặt ra trước mắt: Thoát Trung, phải thoát điều gì? Nhà văn Hoàng Hưng cho biết những suy nghĩ của ông trước câu hỏi hóc búa này: "Khi ta bàn thoát Trung về Văn hóa là phải thoát cái gì. Tôi nghĩ rằng có một nét văn hóa tồi tệ vì giới cầm quyền Maoist của Trung Quốc đã xây dựng trên xã hội của họ và truyền sang xã hội Việt Nam do quan hệ được gọi là môi răng. Một nền văn hóa mà tôi đặt là “văn hóa giả dối”. Bây giờ nó đã thành một cái nạn rất là tệ hại, nghiêm trọng đối với toàn bộ đời sống tinh thần của tất cả các tầng lớp trong xã hội từ quan cho đến dân. Về lâu dài tôi cho nó là một tội ác. Nó phá hoại nền tảng tinh thần của Việt Nam rất là nguy hiểm. Tôi cho đó là một trong những tội ác lớn nhất của chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao và nó gây hại cho dân tộc Việt Nam." Văn hóa quỳ lạy Nền “văn hóa giả dối” ấy theo nhà báo Lê Phú Khải cần phải nâng lên một tầng nấc khác, đó là “văn hóa quỳ lạy” do Khổng Mạnh cấy vào xã hội Trung Hoa từ hàng ngàn năm về trước. Sự quỳ lạy mà cộng đồng ngấm ngầm chấp nhận và thực hiện như một ước mơ đã tạo ra hàng trăm thế hệ hư đốn mà không nhận ra sự nô dịch của mình. Văn hóa quỳ lạy ấy đã tràn sang Việt Nam và nở rộ như nấm dưới mưa trong thời đại cộng sản: "Văn hóa nào thì nó chọn cái chính trị đó. Văn hóa Khổng Mạnh là văn hóa quỳ lạy tức là anh chí thú đi học để làm quan, để quỳ lạy trước nhà vua, để được hậu thưởng bổng lộc và chỉ có vua là đúng còn tất cả bàng dân đều là số không. Chỉ có anh ta đúng thôi. Ý vua là ý trời! Trong khi đúng vào cái thời kỳ đó thì ở phương Tây Aristos nói rằng có tranh luận, có đi tìm chân lý thì mới có chân lý. Thoát Trung là thoát khỏi văn hóa Khổng Mạnh của Trung Quốc, ảnh hưởng giới trí thức Việt Nam. Căn bản nhất là phải thoát khỏi cái văn hóa chỉ có trên đúng còn dưới thì sai. Chỉ có vâng lời không có đối thoại. Tôi cho cái đó là quan trọng nhất." Chủ nghĩa cộng sản Giáo Sư Ngô Đức Thọ trong khi công tác tại Viện Hán Nôm ngoài kinh nghiệm về lịch sử giữa hai nước, ông phân tích sự lệ thuộc một cách mù quáng của lãnh đạo cao nhất Việt Nam đã bất chấp giá nào để đạt được mục đích ngay cả phải hy sinh con người trong những phong trào đấu tố diệt chủng. Chủ tịch HCM đã nhắm mắt theo lời Stalin để cải cách ruộng đất và từ đó đất nước thấm đẫm oan khiên. Lịch sử này nếu không thoát ra hôm nay liệu Việt Nam còn có cơ hội nào khác nữa?   "Về mặt tư tưởng ta phải thoát Trung. Thoát Trung là gì? Đó là thoát tư tưởng đấu tranh giai cấp, tư tưởng Mao Trạch Đông, những tư tưởng này rất ảnh hưởng đến Việt Nam. Chúng ta đã biết những tư tưởng này là cách mạng chuyên chính của Mao được các cán bộ tầm cỡ của ta mang về từ Diên An. Kể cả Đề cương Văn hóa của đồng chí Trường Chinh viết năm 1943 cũng đậm màu sắc Trung Quốc trong đó văn học đại chúng không khác gì các đề cương văn hóa của Trung Quốc ở Diên An cả. Cuộc nói chuyện của Mao Trạch Đông tại Diên An  gần như được mô phỏng trong đề cương Văn hóa Việt Nam, tôi ví dụ như vậy. Cái tư tưởng này là gì thì mọi người đều biết rồi. Tư tưởng của anh Tàu rất tai hại. Theo tôi nghiên cứu tài liệu thì trước đây chỉ có mỗi Tàu nhưng sau này đọc lại thì thấy cũng ảnh hưởng quốc tế cộng sản từ Nga. Vấn đề “Cải cách ruộng đất” không hẳn của Tàu, chính Stalin chỉ thị cho Chủ tịch HCM về Việt Nam cải cách ruộng đất còn nếu không làm cải cách thì không công nhận đảng Cộng sản Việt Nam, cho nên đảng cộng sản ra đời phải thực hiện cuộc cải cách ruộng đất này. Những người lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tưởng rằng thời gian rồi nó sẽ qua, lấy thời gian làm vũ khí nhưng vũ khí thời gian không nghĩa gì cả bởi vì tai nạn này, kiếp nạn này là rất lớn."   Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn nhấn mạnh sự lệ thuộc về văn hóa từ mỗi cá nhân do tác động từ các việc làm của hệ thống chính trị. Cá nhân phải tự thân ý thức sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc của mình có hại cho quốc gia dân tộc như thế nào mới may ra cải đổi khuôn mặt văn hóa Tàu trong lòng từng người như hiện nay:   "Muốn hay không muốn thì văn hóa của Việt Nam chịu ảnh hưởng của Tàu rất lâu. Một ngàn năm bị đô hộ, sống chung với họ thì rất là khó để mình gột rửa nét văn hóa của họ đặc biệt dưới sự cai trị khắc nghiệt như thế này thì nó lại càng khó hơn. Cả Việt Nam mình hiện nay nó như một phiên bản của Trung Quốc, rập khuôn Tàu trên tất cả mọi lãnh vực từ chính trị cho đến tổ chức xã hội, kinh tế, khoa học và khá là ngạc nhiên vì tôi mới phát hiện nhiều cái rập khuôn về khoa học nữa. Thậm chí có những cái tên nhiều khi mình không để ý. Những cái tên mình đang dùng hiện nay cũng là bắt chước, xuất phát từ Tàu. Nếu muốn thoát Trung Quốc thì không phải chỉ thoát về hệ thống chính trị hay các thiết chế và tổ chức xã hội mà còn phải thoát từ trong tư tưởng của mỗi người, thậm chí thoát những cái bắt chước từ Trung Quốc. Tôi nghĩ nó không phải bắt đầu từ chính quyền mà bắt đầu từ mỗi cá nhân. Mỗi cá nhân cần phải gột rửa những ý tưởng, những cách hành xử mà lâu nay mình tưởng là của truyền thống văn hóa Việt Nam nhưng là của Tàu." Nhà văn Thùy Linh, người luôn có mặt trong các cuộc biều tình chống Trung Quốc cho biết quan sát của bà về vấn đề này mà theo nhà văn chính Khổng giáo là nguyên nhân sâu xa nhất nhưng nhà cầm quyền hiện nay muốn nó tồn tại để dễ dàng thao túng:   "Đời sống văn hóa Việt Nam sau năm 1945 đến giờ gần như đã bị chính trị hóa cho nên không còn đời sống văn hóa thật sự nguyên bản. Ngay cả tín ngưỡng dân gian cũng đã bị chính trị hóa. Đầu tiên người ta dẹp bỏ và cho đấy là mê tín dị đoan nhưng sau khi mở cửa thì tất cả những tín ngưỡng dân gian đều bị biến màu. Không có cái gì trong đời sống văn hóa mà không bị ảnh hưởng trong đời sống chính trị. Chính trị Việt Nam và Trung Quốc thời gian gần đây, cận hiện đại, hai nước có sự giao thoa ảnh hưởng rất sâu sắc, nhưng lui về trước nữa thì đạo Khổng ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội Việt Nam. Chính Khổng giáo làm méo mó nhân cách, méo mó tất cả đời sống tự nhiên của con người và Việt Nam bị ảnh hưởng trong cái vòng ảnh hưởng đó. Sau khi chủ nghĩa cộng sản nắm quyền thì đạo Khổng rất có lợi cho sự tồn tại của họ. Mới đầu thì họ chống ở một chừng mực nào đó nhưng thật ra họ bị ảnh hưởng của Khổng giáo mà chính họ không biết bởi vì nó ăn vào trong máu. Hiện tại Khổng giáo đang làm cho chính quyền hưởng lợi chính vì vậy việc thoát Trung tại Việt Nam hết sức cam go."   Câu hỏi đặt ra, nếu sự lệ thuộc văn hóa Trung Quốc sẽ làm đất nước trì trệ, lạc hậu và không có cơ hội phát triển như các nước lân cận liệu chính quyển có đủ can đảm từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa nay đã mịt mùng cộng với sự mê đắm vào Khổng giáo làm mê muội trí thức hầu củng cố quyền lực của mình hay không? Nhật hay Hàn, bài học nào cho Việt Nam? Nếu cho rằng thoát Trung là một ý tưởng hoàn toàn không thể thực hiện được người lạc quan có ngay một motif để chứng minh ngược lại, đó là sự thành công của hai nước lân cận với Trung Hoa là Nhật Bản và Hàn Quốc. Họ không những đã thoát được vòng kểm tỏa của văn hóa Khổng Mạnh mà còn vượt ra khỏi hủ lậu của cả Châu Á nữa là đằng khác. Nhật Bản có lẽ là nước sâu sát với Trung Quốc hơn ai hết nhưng sau thế chiến thứ II nước này ý thức được muốn đứng lên bằng đôi chân của mình phải chịu đau đớn rời bỏ hai thanh nạng mà Trung Quốc ép vào tay trong suốt hàng ngàn năm qua chủ thuyết Khổng Mạnh mà nói theo nhà báo Lê Phú Khải là văn hóa quỳ lạy. Tinh thần Samurai không cho phép người Nhật quỳ lạy dù bất cứ trước thần tượng nào để đổi lấy miếng đỉnh chung như triết lý Khổng Mạnh của người Trung Quốc. Thiên Hoàng của Nhật được thần dân kính trọng và tôn sùng như thần thánh vì là hiện thân của con cháu Thái Dương Thần Nữ trong phạm trù tín ngưỡng và sự tôn sùng ấy vẫn được gìn giữ cho tới ngày nay. Ngược lại, Nhật Hoàng luôn tỏ ra là một minh quân hết lòng chăm lo cho dân chúng đã khiến niềm tin của người dân thêm được củng cố. Khổng Mạnh không chiếm giữ được văn hóa Nhật Bản mặc dù chủ nghĩa này được du nhập rất sớm vào xứ sở Phù tang. Việc du nhập văn hóa, văn minh phương Tây và chủ trương các trường quốc học Kokugaku là nỗ lực thành công thoát ra khỏi quỹ đạo văn hóa Trung Quốc vào cuối thế kỷ 17 đã mang Nhật đến gần hơn niềm mơ ước tự lực tự cường. Nam Bắc Triều và Hà Nội- Sài Gòn Hàn Quốc gần với tình trạng Việt Nam hơn nhưng họ vượt qua được cũng từ ý chí muốn đất nước thoát ra nghèo đói và nhục nhã. Thoát Trung nảy sinh trong lòng người dân Hàn Quốc phát sinh từ sự phân ranh Nam Bắc mà phía bên kia là Trung Quốc, một thế lực lớn lao công khai ủng hộ, giúp đỡ cho Bình Nhưỡng chống lại Seoul. Hoàn cảnh lịch sử này ngược lại với Việt Nam khiến người dân và chính phủ Hàn Quốc ý thức rõ rằng, thoát nền văn hóa Trung Quốc là tiền đề cho việc bảo vệ chủ quyền đất nước. Lý do thứ hai làm cho thoát Trung thành một yếu tố cần thiết hiển nhiên là sự vận động dân chủ của Hàn Quốc đã tới mức cao nhất có thể. Một đất nước có dân chủ thật sự sẽ không thể chịu nổi bản chất độc tài đảng trị mà thể chế cộng sản theo đuổi. Không ai bỏ căn nhà tiện nghi của mình để chấp nhận vào hang động trú thân nhằm tìm cho ra chủ nghĩa xã hội là gì như Việt Nam đang lần mò trên con đường vạn dặm. Nhà văn Thùy Linh tự hỏi không biết Việt Nam rồi đây sẽ làm gì và bằng cách nào để có thể theo chân hai nước đồng văn đồng chủng với Trung Quốc này:   "Nhật hay Hàn quốc họ cũng bị ảnh hưởng của Khổng giáo nhưng tại sao họ thoát được? Họ phải xây dựng một nền văn hóa thoát được Khổng giáo, họ xây dựng được một bản sắc rất độc đáo vậy thì tại sao chúng ta không làm được điều đó? Gần đây chúng ta mới đặt ra việc thoát Trung, chặng đường ấy tôi nghĩ rất dài nhưng chúng ta phải làm. Việt Nam bị ảnh hưởng Trung Quốc gần như một số phận khiến chúng ta phải ở cạnh một đất nước như thế nhưng không có nghĩa là chúng ta không thể thoát nỗi sự ảnh hưởng của gã khổng lồ đó. Muốn phát triển phải có con đường đi riêng giống như Hàn Quốc hay Nhật." Hãy giải phóng chính mình   Nhà báo Lê Phú Khải chủ trương cổ vũ cho một tư duy độc lập trước khi có được một thái độ độc lập đối với sự cai trị nếu muốn thoát Trung như Nhật và Hàn Quốc đã làm:   "Như Nhật Bản, Hàn Quốc chẳng hạn họ còn muốn thoát Á nữa. Nó đã dân chủ, văn minh rồi tại sao vẫn muốn thoát Á? Bởi vì nó muốn thoát hẳn cái văn hóa Khổng Tử, cái văn hóa không có tranh luận, văn hóa bầy đàn mà họ muốn phải giải phóng cá nhân. Giải phóng cá nhân rất quan trọng. Mỗi một con người đều là một tiềm năng nếu giải phóng được thì giống như phản ứng hạt nhân còn không có nó thì không có sức mạnh của cả dân tộc. Con số 1 đứng trước 6 con số 0 thì thành hàng triệu nhưng nếu mất con số 1 rồi thì 6 số không kia cũng vô nghĩa. Nhưng nếu con số 0 ấy là số 1 thì nó không cần ai chăn dắt cả." Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khẳng định một chính sách đứng đắn của nhà nước tạm gọi là “quốc chính” phải được đặt ra nếu muốn thoát Trung. Tấm gương của Hàn Quốc rất rõ trong trường hợp này, ông cho biết: “Quốc chính” là một nền chính trị để nó cầm nhịp cho bước phát triển mới tiến bộ nhân văn…thế nhưng hiện nay nền quốc chính của ta có nhiều điều rất lạc hậu. Một đội ngũ công chức đáng lẽ là lực lượng cầm nhịp cho sự phát triển xã hội thì tham nhũng là chính, hành dân là chính, làm sao mà đưa dân tộc phát triển được, đấy là các vấn đề phải đặt ra. Khi nói văn hóa mà quên đi vấn đề làm sao đưa giá trị văn hóa để cho nền chính trị của đất nước nó tử tế hơn lên, làm thăng hoa giá trị con người. Nhân văn, nhân ái, tình thương, dân chủ, tôn trọng con người….những vấn đề ấy văn hóa phải đóng góp và sửa đổi sớm những lệch lạc của cái được gọi là nền quốc chính, tức là nền chính trị của đất nước." Những ý kiến, tư duy cũng như trăn trở cho một tương lai đất nước vẫn đang được nhiều người, nhiều giới hưởng ứng, đồng tình. Tuy nhiên nếu mọi cố gắng thoát văn hóa Trung Quốc này không được nhà nướ quan tâm kể như 3 phần 4 câu chuyện sẽ không có hồi kết thúc.   Nguồn: rfa.org
......

Trần Đĩnh và tác phẩm Đèn Cù

Trong chương trình VHNT hôm nay Mặc Lâm xin giới thiệu tác phẩm Đèn Cù của nhà văn nhà báo Trần Đĩnh. Sách dày 600 trang sẽ được nhà xuất bản Người Việt phát hành vào hạ tuần tháng 8 này. nhà văn nhà báo Trần Đĩnh Tác giả Đèn Cù là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập. Ông sinh năm 1930 và tham gia Việt Minh vào năm 1946 tức lúc mới 16 tuổi, Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông là người chấp bút tiểu sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận. Những phân tích tinh tế   Do làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng ông có cơ hội gặp gỡ hầu hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười… và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn mặt thật phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản. Sau khi vụ án “Xét lại chống đảng” diễn ra ông cũng là một nạn nhân, tuy mức độ lao tù nhẹ hơn người khác nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn giữa Mao Trạch Đông và Liên Xô cùng với nghị quyết 9 ra đời dẫn dắt cả hệ thống Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng rơi sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Quốc.   Là người theo học tại Bắc Kinh 5 năm trời, ông có những phân tích tinh tế trong “Đèn Cù” từ hành động tới cách đối xử của Mao đối với Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp hay ngay cả Hồ Chí Minh trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. Những ghi chép của ông tuy không phải là những bí mật to lớn nhưng cũng giúp cho lịch sử cận đại Việt Nam có cái nhìn chuẩn xác hơn về sự lệ thuộc của Việt Nam vào hai đầu tàu Cộng sản thế giới là Liên Xô và Trung Quốc. Những ghi chép ấy nằm trong một văn phong tưởng chừng như hờ hững nhưng thật ra chất lửa tiềm ẩn từ trang đầu tiên tới những giòng cuối cùng. Trần Đĩnh tỏ ra không dễ dãi như cách kể chuyện của nhiều người, nhất là những người danh giá. Ông là nhà báo có cách viết của một nhà văn đậm chất trữ tình qua nhịp đập của trái tim thi sĩ. Diễn tả sự việc cô đọng, nén thông tin đến mức có thể, nhà báo Trần Đĩnh tỏ ra rành rẽ kỹ thuật thông tin của thế kỷ 21 mặc dù ông là người đã cầm bút gần 70 năm từ ngày đầu tiên trình diện báo Sự Thật. Khi đọc những giòng văn sau đây khó ai có thể nghĩ rằng tác giả Đèn Cù là một nhà báo, ông viết: “Cuộn dây thừng trong tay anh tuột ra văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc. Và chỉ một dìm xuống rồi một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm. Khi anh dội ngược trở lên lần cuối, hai mắt anh mở đã dại đờ. Cái chết chớp nhoáng nhưng những nghi thức đi kèm nó lại từ tốn rất mực. Cặp mắt dại kia như mơ màng khép lại, tóc trên trán anh thong thả tách ra từng sợi lượn lờ rồi ngoan ngoãn theo nước mơn trớn phân chia để lần lượt rẽ trái rẽ phải hai bên, quá đều, quá phân miêng, khơi ra một đường ngôi quá thẳng, quá sạch, quá trắng ở chính ngay giữa đỉnh đầu anh. Tôi khẽ nấc và cắn chặt môi. Tôi thấy lại anh ba bốn tuổi đang ngửa mặt lên cho bàn tay mẹ định hình đường ngôi đầu tiên trong đời để anh giữ lấy mãi, đường ngôi mà nay con lũ trung thành đang tỉ mẩn xếp lại cho đúng nguyên mẫu ban đầu”. Trong Đèn Cù không hiếm những câu văn tinh tế như vậy, do đó khi đọc nó người ta thấy cảm xúc thi ca được vuốt ve và những hiện tượng chính trị thanh trừng, trù dập, bợm bãi với nhau trở nên dễ chấp nhận hơn đối với người khó tính. Nhân chứng lịch sử Trần Đĩnh viết trước hết cho ông, sau đó mới tới người đọc ông và cuối cùng là những thước phim tài liệu có khả năng đứng vững như nhân chứng lịch sử, lịch sử của dối trá và che dấu triệt để sự thật. Để che dấu nó, đảng Cộng sản Việt Nam rập khuôn Liên Xô và Trung Quốc, cơ quan báo chí quan trọng nhất phải có tên Sự Thật. Hình chụp tại tòa soạn báo Sự Thật năm 1948, từ trái sang: Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ. Hình do tác giả cung cấp.   Xuyên suốt 600 trang của Đèn Cù là hai mảng quan trọng diễn ra sau khi cộng sản cướp chính quyền. Lần thứ nhất đấu tố địa chủ, cũng là dân chúng bị ép lên miễn cưỡng trở thành địa chủ qua “Cải cách ruộng đất”. Lần thứ hai đấu tố, giam cầm những đảng viên cộng sản có khuynh hướng thân Liên Xô và chống đối cuộc chiến tranh tương tàn qua tên gọi “Vụ án xét lại chống đảng”. Trần Đĩnh không vẽ ra toàn cảnh bức tranh theo thứ tự thời gian sự kiện như thông thường. Ông kéo từng mảng nhỏ mà ông chứng kiến, tham gia ra miêu tả lại với những chi tiết sâu lắng dẫn dắt câu chuyện như mục tử nghêu ngao trên cánh đồng hoàng hôn đầy ắp những nhân chứng lịch sử. Họ tuần tự kể lại hay qua Trần Đĩnh, minh họa lại từng chi tiết với giọng văn tỉnh táo, trầm tư và rất thông minh của một cây viết kinh nghiệm lão luyện về tự thuật. Qua lời một người bạn thân theo chân Lê Duẩn sang Trung Quốc xin Bắc Kinh giải tỏa số hỏa tiển do Liên Xô viện trợ bị Trung Quốc chặn lại vì muốn dằn mặt Việt Nam, Trần Đĩnh nhìn thấy ở Lê Duẩn một sự ê chề, bị làm nhục vì dám sang Moskva trước khi tới Bắc Kinh. Chính ông, vào năm 1958 khi học tại Trung Quốc đã chứng kiến tận mắt sự khinh bỉ của sinh viên Trung Quốc đối với chế độ Việt Nam qua câu chuyện rất ngắn nhưng gói ghém rất nhiều sự thật về tình đồng chí quốc tế vô sản, ông kể: “Một hôm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân đến Bắc Kinh đại học nói chuyện với cả nghìn sinh viên. Bọn tôi nghe. Các mẩu câu hỏi, thắc mắc của sinh viên tới tấp truyền tay nhau đưa lên trên bàn Chu Ân Lai. Đến một mẩu, ông đọc to: Trung Quốc nghèo, dân Trung Quốc đói, sao cứ phải giúp Việt Nam? Tôi thật tình xấu hổ. Sinh viên Trung quốc đòi chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước đông đủ các nước, nhất là trước sinh viên Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra hành lang tụng kinh giập đầu thình thình xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu Ân Lai không ỉm đi? Tôi hơi ức. Chu Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng thắn. Viện trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế nhưng có lợi cho Trung Quốc: nên đẩy chiến tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc hay để cho chúng nó áp sát bên cạnh?”. Trần Đĩnh chứng kiến việc Mao Trạch Đông giả vờ “Chỉnh đảng” để tiêu diệt thành phần chống đối với y. Báo chí được lệnh kêu gọi phải đốt rụi những gì mà đảng sai lầm, phải “thiêu cháy đảng” để đảng tái sinh… Thế là vô số người đứng lên làm theo sự kêu gọi này mà có hay đâu đó là mồi nhử những người có tư tưởng đòi thay đổi đảng. Mao Trạch Đông dưới mắt Trần Đĩnh là một gã đồ tể máu lạnh. Cử chỉ nhỏ nhẹ, ăn nói từ tốn nhưng là để đối phương có thời gian bày tỏ ngưỡng mộ hơn là bản chất của y, một gã cộng sản có dã tâm muốn thế giới biến động để Trung Quốc đứng giữa hưởng lợi. Những con rối không tự biết mình là rối   Hàng đầu từ trái qua: vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh, ngoài cùng bên phải là Trường Chinh, hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân Trường. Hình do tác giả cung cấp.   Đèn Cù, ngay cái tên của tác phẩm đã nói lên sự vắt kiệt tư duy của tác giả vào quyển sách này. Khi nói đến Đèn Cù người ta nghĩ ngay tới cái tên gốc của nó: Đèn kéo quân. Cái gốc đó phát xuất từ Tàu và người Việt sau nhiều thế kỷ đã làm theo nó một cách tự nguyện. Đèn Cù trở thành văn hóa Việt Nam, thay đổi chất liệu nhưng nội dung thì y như nguyên bản. Nếu nhìn trên mặt bằng văn hóa thì Đèn Cù được diễn giải là hội nhập, là hòa tan và hàng chục khái niệm khác. Tuy nhiên đối với Trần Đĩnh, Đèn Cù được khai mở trong một ý niệm khác: Đảng cộng sản Việt Nam theo đuôi nhau chạy vòng tròn dưới bầu khí bị đốt lên bởi ánh nến ý thức hệ của đàn anh Trung Quốc. Họ như những con rối không tự biết mình là rối. Không những thế họ muốn mọi người phải như họ, tức là bịt tai, bịt mắt bịt cả tư duy để tin vào Trung Quốc một cách mù quáng. Sự mù quáng vì ý thức hệ sai khiến ấy trở thành bi kịch cho đất nước chỉ vì một nhóm nhỏ người lũng đoạn, thao túng mà phải chịu cảnh nồi da xáo thịt trong nhiều chục năm trời.   Trần Đĩnh không chấp nhận bị sai khiến và có chân trong cái đám đông tôn sùng Mao Trạch Đông của các lãnh đạo Việt Nam. Ông tách ra đứng riêng chấp nhận tư thế của một người ngoại cuộc, ngoại cuộc với sự tôn sùng lãnh tụ nhưng không ngoại cuộc với số phận Việt Nam: “Sau năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng và dám chịu đựng... Cái đó nhờ phong trào phái hữu - mà tôi say sưa, sung suớng chứng kiến - phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có tính bùa phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh”. Những gì mà Trần Đĩnh tự nói với mình nhiều chục năm về trước vẫn theo đuổi suốt cuộc đời ông. Xóa dấu vết thần tượng Trung Quốc không quá khó đối với ông nhưng hai thần tượng khác bao vây trí tuệ nhà báo Trần Đĩnh thật không dễ xóa chút nào. Người thứ nhất là Hồ Chí Minh và người thứ hai là Trường Chinh.   Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh rơi xuống trong lòng Trần Đĩnh vì tuy ông không ký vào nghị quyết 9 ủng hộ Trung Quốc nhưng trong tư cách lãnh tụ ông đã bị phe Lê Duẩn khống chế để không dám lên tiếng khiến Trần Đĩnh tỉnh ra trước sự thật này. Nghị quyết 9 chỉ là giọt nước tràn ly khi trước đó qua Phạm Văn Khoa, một người bạn của tác giả tháp tùng với Hồ Chủ tịch sang Trung Quốc về kể lại nguyên văn rằng: “Ông Cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai!”. Trường Chinh cũng thế, tuy là bậc thầy trong nghề báo đối với Trần Đĩnh nhưng tư cách tránh né vấn đề Cải cách ruộng đất cũng như hành xử trong đời sống đã làm sự kính trọng của ông dành cho Trường Chinh hoàn toàn phá sản. Và rồi những diễn biến trong hậu trường chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô và Trung Quốc đối với Việt Nam đã gây đổ vỡ hoàn toàn trong con người nhà báo Trần Đĩnh. Ông phát hiện ra rằng Mao Trạch Đông là người vận động Stalin thôi không có thái độ phủ nhận đối với Hồ Chí Minh trong cái gọi là cộng sản quốc tế. Chính Stalin đã phân công cho Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam, mà trong ngôn ngữ cộng sản “phụ trách” đồng nghĩa với chỉ đạo, định hướng, kể cả ra lệnh. Tác giả Đèn Cù viết: “Hệ lụy đã nằm lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản Việt Nam: vị trí đàn em, bên dưới, yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một tư thế ứng xử với Trung Quốc. Xuân Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng định với Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung Quốc”. Sự lệ thuộc vào Trung Quốc như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm Đèn Cù. Do chạy theo một cách vô thức như những hình nhân mà nhiều đời Tổng bí thư sau Trường Chinh, Trung Quốc vẫn chiếm một vị trí cao chất ngất trong quan hệ giữa hai đảng kể cả sau cuộc chiến 1979 nhuốm đầy máu do Trung Quốc gây ra.   Trần Đĩnh chụp cùng Tô Hoài. Hình do tác giả cung cấp.   Do cùng thời với các danh tài như Nguyễn Tư Nghiêm, Tô Hoài, Quang Dũng, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang, Xuân Diệu, Phan Kế  An, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Tế Hanh, Xuân Tửu, Đặng Thái Mai… Trần Đĩnh có cơ hội nhìn thấy cách ứng xử của từng cá nhân trong mỗi con người của họ. Chuyện sợ hãi của những người sống trong chế độ cộng sản đã trở thành quen thuộc nhưng ám ảnh sau vụ Cải cách ruộng đất như Tô Hoài thì có lẽ đã lên tới thể loại hài hước khó ngăn tiếng thở dài. Trần Đĩnh kể lại: “Khoảng hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba màu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát khí và tiếng la ó. Thoáng rất nhanh tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di động được một đạo diễn tài ba điều khiển. Nhà đạo diễn đó là ý thức về giá trị tự thân. Và rất nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng nên tập thể điêu khắc này để đối lại tượng đài Nạn nhân các trại tập trung Quốc xã. Dân hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng... Ba chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng. Anh trở lại, tôi hỏi khẽ: - Đánh người ta làm gì? Xung quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? - Tô Hoài che miệng tủm tỉm cười”. Cái mỉm cười của Tô Hoài sau đó thể hiện lại một cách sắc sảo qua các cuộc đấu tố trong tiểu thuyết “Ba người khác”. Đọc Đèn Cù cần một sự kiên nhẫn. Kiên nhẫn như người nông phu cần mẫn nhặt từng hạt giống hư bỏ ra trước khi gieo giống. Những “hạt giống” trong Đèn Cù cũng vậy, có thể làm người đọc ngơ ngác vì nó tiết lộ những sự thật nao lòng, đến nỗi khó tin, nhưng tiếc thay nó lại là sự thật.   Thất tình Hồ Chí Minh? Mặc Lâm: Tiếp tục về tác phẩm Đèn Cù xin nhà báo, nhà văn Trần Đĩnh vui lòng cho biết tại sao tới giờ này ông mới quyết định ra mắt tác phẩm này? Động lực nào đã giúp ông ngồi xuống tiếp tục viết những giòng cuối cùng của 600 trăm trang đầy ắp tư liệu lịch sử như thế? Trần Đĩnh: Lê Đạt là người khuyến khích, cổ động. Tôi đã định viết rồi và cũng đã viết rồi nhưng tôi không cho Lê Đạt biết là tôi đã viết. Tôi nói là viết phải cô đơn vì anh viết trong khi người ta mời anh cả ngày ra đồn, ra trạm thì anh không làm được gì cả. Phải hết sức khiêm tốn chứ tôi nói anh đừng có phổng mũi lên. Anh muốn đi đường xa thì phải chuẩn bị cho kỹ chứ đừng ầm ĩ lên thì anh sẽ thiệt. Cứ lặng lẽ, lặng lẽ như thế này. Tôi viết từ năm 1990 cho đến bây giờ, cứ lặng lẽ. Lê Đạt thấy tôi sống và viết như thế và nói “mày không viết thì tao là người thất bại” một cách để khuyến khích nhau thôi. Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp. Mặc Lâm: Trong Đèn Cù có đoạn ông đã tỏ ra thất vọng và than rằng ông đã thất tình với Trường Chinh và cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều gì đã làm ông tuyệt vọng về họ đến nỗi phải dùng hai từ thất tình để mà miêu tả như vậy? Trần Đĩnh: Thứ nhất là ông Trường Chinh ấy nói với tôi là ông ấy hoàn toàn tán thành vấn đề sống hòa bình dân chủ. Ông ấy nói với tôi rằng đồng chí Krouchev chủ trương hòa bình thì làm sao mà chửi đồng chí ấy? Cho đến lúc ông ấy gọi tôi viết hồi ký tôi biết là ông ấy nhắm tôi vì tôi với ông ấy nhiều cái hợp nhau. Thứ nhất là ông ấy thích văn tôi. Thứ hai là ông biết lập trường của tôi là giống ông ấy chứ không theo Lê Duẩn, cứng rắn theo Trung Quốc. Lúc bấy giờ đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước hai ngả đường: theo Liên Xô hay theo Trung Quốc? Lúc đó Trung Quốc kéo mạnh lắm, kéo người bên cạnh với sức quyết tâm rất mạnh. Hơn nữa là ông Stalin nói là để Mao Trạch Đông phụ trách Việt Nam cho nên là đã có đường mòn thế rồi. Anh nên nhớ Nghị quyết 9 cụ Hồ không bỏ phiếu. Không bỏ phiếu tức là không tán thành, coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng Lênin thời đại này. Ông Lê Duẩn cũng đã xác định trong quyển sách coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng của Lênin trong thời đại cách mạng này. Thế mà cụ Hồ không bỏ phiếu là không tán thành rồi. Ông Trường Chinh thì tán thành và nói rằng Trung Quốc đã đấm 9 cú đấm thôi sơn, đánh tan chủ nghĩa Krouchev. Tôi thấy ông ấy đi ngược lại mình nên tôi có cảm giác là thất tình! Bây giờ thì mình có tuổi nên cũng hiểu là con người ta cũng có lúc lắt léo thế này thế nọ. Cuối cùng ông ấy mới kiến nghị nên mới có cái đổi mới sau này đấy chứ. Đổi mới được một tí thì ông Lê Đức Thọ lại bắt ông ấy phải về. Cụ Hồ cũng thế. Tôi thần thánh cụ Hồ vì tôi nghĩ cụ sẽ nói ra sự thật. Ai ngờ đâu cụ cũng im nốt. Té ra mình là thằng bướng bỉnh cứ nói. Thất tình là như thế! Mặc Lâm: Sau khi Lê Duẩn bị Trung Quốc làm cho ê mặt trong chuyến đi xin Bắc Kinh cho phép hỏa tiển viện trợ từ Nga được thông cảng sang Việt Nam, phải chăng Lê Duẩn rất căm Bắc Kinh và tỏ thái độ chống Trung Quốc một cách mạnh mẽ sau này thưa ông? Trần Đĩnh: Ông ấy chưa chống đâu, nhất định chưa chống đâu. Sau này khi Cách mạng Văn hóa thì ông ấy mới giật mình. Ông bảo không cẩn thận thì lôi thôi nhưng ông ấy cũng chưa chống. Sau này Trung Quốc lớn giọng quá ông ấy bắt đầu giật mình. Anh nên nhớ lúc bấy giờ tôi có viết là Việt Nam như gót giày Achilles, luôn luôn đứng dưới bóng đa bóng đề của Trung Quốc chứ không thể đứng một mình được. Chúng ta cứ nói là chúng ta anh hùng nhưng chúng ta thua thằng hèn là thế. Không thể đứng một mình được. Ngay đến bây giờ cần các ông ấy đứng một mình tức là anh dám đi một mình hay không, nhưng lại không dám nên vẫn nhìn ngó anh Trung Quốc. Cái bóng đó lớn đến nỗi chúng ta không thể ra khỏi nó được. Mặc Lâm: Lãnh đạo Việt Nam hôm nay có vẻ chưa rút ra được kinh nghiệm thân thiện với Trung Quốc cách nào đi nữa thì vẫn bị họ khinh thường, dẫn dắt theo quyền lợi của họ. Ông đã từng biết nhiều về việc Trung Quốc coi thường Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn thậm chí với chủ tịch Hồ Chí Minh, ông lý giải thế nào về hiện tượng lãnh đạo hôm nay? Trần Đĩnh: Lúc đầu cái chủ nghĩa Cộng sản Quốc tế nó làm cho người ta đinh ninh rằng phải có phe và có người đỡ lưng cho mình cho nên có gì thì cái xe vẫn phải chạy và có người lái vẫn phải đi tiếp. Vì vậy khi Đặng Tiểu Bình lên ta bắt đầu hy vọng. Đấy là những điều ảo tưởng hết. Đinh ninh rằng Việt Nam đã đứng trên cái xe thì phải có đầu tàu, hoặc Liên Xô hoặc Trung Quốc rồi thì chúng ta sẽ tiến lên. Trước mắt họ có làm xấu thì chắc họ sẽ phá ra được, cũng như Đặng Tiểu Bình đánh Mao Trạch Đông để lên đấy. Tất cả đều bị chủ nghĩa Quốc tế vô sản làm cho bị lóa đi. Cứ đinh ninh là như vậy nên không thể đứng một mình được. Quả thật Việt Nam có bao giờ đứng một mình được đâu. Ngày xưa chưa có gì thì đảng Cộng sản Pháp phụ trách. Tất cả những ông lãnh đạo không biết tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, chỉ biết tiếng Pháp thôi. Nga giúp tiền cho mình thì lại qua Pháp. Sau này năm 1949 thì đi sang xin Trung Quốc. Mình không thể hiểu cái ràng buộc về ý thức hệ nó kinh khủng lắm. Con người ta không dám vượt khỏi cái  ranh giới của ý thức hệ  đã qui định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên Xô lãnh đạo anh không được vi phạm không được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa trong đảng Cộng sản quốc tế, chi bộ của quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà phản bội chi bộ ấy thì còn ra cái gì nữa, đúng không? Cho nên cái tâm thức luôn luôn phục tùng, luôn luôn sợ hãi kỷ luật ấy làm cho người ta bị tù túng ghê lắm. Anh bị khống chế trước những quy luật tự anh đặt ra. Anh nên nhớ là bất kỳ một ông lãnh tụ cộng sản nào cũng đều không được phép tự lập ra đảng. Phải có Stalin bảo lập mới được lập. Anh mà tự lập anh chết ngay. Phải có sự xem xét của Stalin để nghiên cứu xem tay này được hay không. Ghê lắm. Đó là một uy lực kinh khủng.   Mặc Lâm: Qua vụ án xét lại chống đảng, ông nhận xét thế nào về vai trò của hai ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ? Trần Đĩnh: Trước hết chính ông Duẩn xác định tư tưởng Lênin vào thời đại này. Ông Duẩn rất tán thành câu Mao Trạch Đông nói rằng “Thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ”. Có nghĩa là bạn bè mà đánh khắp thế giới, đại loạn thì chính Trung Quốc mới thoát được ra mà hưởng trong đại loạn ấy. Cái câu ấy đầy trong sách vở của Trung Quốc. Ngày xưa tôi ở Trung Quốc tôi biết. Ông Duẩn rất tâm đắc câu ấy. Bây giờ lái theo quĩ đạo ấy, chiến tranh các thứ... thì họ là người tổ chức còn ông ấy cứ theo đúng đường lối ấy. Tổ chức như vậy thì làm thế nào chống lại. Ông Thọ thì tính cách là người gian hùng làm dữ dằn lên. Bố vợ tôi do chính ông ấy giết chứ chả thấy xét lại gì cả. Có xét lại thì ông ấy cũng đã chết từ năm 46-47 rồi, Đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc ông ấy thịt hết. Ông Lê Giản tổng giám đốc công an xin khiếu nại mà không được.   Anh hùng hay anh hèn? Mặc Lâm: Trong gần cuối cuốn sách có một đoạn rất buồn: Ông khóc vì dân ta hèn và vì nghĩ như thế liên can tới cha mẹ nên ông bị mặc cảm là hỗn láo với tiền nhân, ông có thể chia sẻ thêm về việc này? Trần Đĩnh: Tôi nói dân ta hèn là vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ đi, sợ anh công an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ nhiều thứ quá. Đấy là một tâm lý rất Việt. Bom đạn không sợ nhưng rất sợ quyền lực. Chính điều đó đẻ ra việc chúng ta khó có dân chủ là vì dân trí thấp. Chúng ta đinh ninh rằng chúng ta anh hùng trước mặt “kẻ thù” nhưng đụng đến chính quyền, đến nhà nước là ta im re hết. Tôi gọi hèn là vì vậy. Tại sao tôi khóc vì tôi cảm giác nhân dân như bố mẹ mình mà mình nói xúc phạm như vậy là mình có lỗi với bố mẹ mình. Bây giờ dần trưởng thành rồi mình cảm thấy không phải như vậy nữa. Mặc Lâm: Và nhìn lại hoàn cảnh sống hiện nay tại Việt Nam thì ông có cảm thấy sự hèn ấy có bớt đi phần nào hay không? Trần Đĩnh: Bây giờ bắt đầu khá lên đấy. Dân mình bắt đầu khá lên là vì sự thật đã được cởi tất. Theo tôi tất cả đều là sự thật hết. Người ta nhìn thấy ra sự thật, cái gì là nguyên nhân. Trước đây người ta thấy nguyên nhân là đế quốc nhưng dần dần thì không phải. Dần dần thì người ta thấy nguyên nhân chính là mất dân chủ, nhân dân không được coi trọng. Nhân dân chỉ có tiếng là gốc, là chủ thôi chứ không hề có quyền lực gì hết. Người ta thấy ra sự thật thôi. Người ta thấy đảng đã tước quyền của người ta. Trong quyển sách, tôi có nói với anh cục trưởng cục A25 chuyên về an ninh văn hóa, tuyên truyền là đảng có yếu kém về trí tuệ. Tôi nói với các anh ấy là đảng rất yếu kém trí tuệ mà câu này không phải tôi sáng tạo ra mà chính đảng nhận như vậy. Đảng duy ý chí mà chính vì anh kém trí tuệ nên anh duy ý chí. Anh tưởng anh có thể cầm que diêm anh có thể đun nổi ly nước, đó là anh duy ý chí hoặc là anh kém trí tuệ. Đảng nhận, và tôi nói theo, đảng nhận nhưng đảng không bao giờ làm, đấy là bi kịch lớn nhất của đảng. Đảng nhận dân là gốc, là chủ nhưng không bao giờ coi dân là gốc, là chủ. Đảng nói là nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật nhưng đảng không bao giờ làm. Ai nói thẳng với đảng là bị đàn áp.   Tôi tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ tiếp tục cái đà này thì không ai chịu nỗi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo. Anh thử tưởng tượng một show về thời trang của thế giới New York, Paris mà anh đưa ra người mẫu toàn bằng tre bằng nứa thì ai người ta chịu được. Ở cuộc đời, anh phải luôn luôn làm cho người ta tin. Tôi nghĩ đảng phải rút cái bài học này đấy. Nói thẳng sự thật mà ai người ta nói ra thì đàn áp luôn rồi nói rằng mày nói láo!   Mặc Lâm: Xin cám ơn ông. M.L.- T.Đ. nguồn: rfa.org Bài liên quan Đèn Cù giải thiêng cách mạng cộng sản Việt nam http://www.ttdq.de/node/1678  
......

THƯ CHUNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỘC LẬP VIỆT NAM

Dân quyền: tại buổi gặp 4 đại diện của các tổ chức xã hội dân sự ở Hà Nội, ông Nguyễn Quang A đã trân trọng trao bức thư dưới đây của 10 tổ chức xã hội dân sự độc lập cho 2 thượng nghị sĩ John McCain (Cộng hòa) và Sheldon Whitehouse (Dân chủ). Dưới đây Dân quyền xin giới thiệu bản dịch và nguyên bản tiếng Anh.   Thượng nghị sĩ McCain và thượng nghị sĩ bang Rhode Island rời buổi họp báo tại Trung tâm Hoa Kỳ ở Hà Nội, 8/8/2014. Photo Reuters     THƯ CHUNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ ĐỘC LẬP VIỆT NAM Gửi: Thượng nghị sĩ John McCain Thượng nghị sĩ Sheldon Whitehouse Ngày 08 tháng Tám năm 2014 Kính thưa Thượng nghị sĩ  John McCain và Thượng nghị sĩ Sheldon Whitehouse: Về: Hậu quả tiêu cực gián tiếp của việc dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam Trước tiên, chúng tôi xin gửi lời chào mừng chân thành tới hai ông trong chuyến thăm lần này tới Việt Nam. Kể từ khi Việt Nam và Hoa Kỳ chính thức bình thường hóa quan hệ ngoại giao, tên của hai ông luôn ở tuyến đầu của tất cả những nỗ lực thúc đẩy và củng cố sự hợp tác giữa hai đất nước. Dĩ nhiên với mối quan hệ đối tác gần gũi với Hoa Kỳ, Việt Nam đã và đang được hưởng lợi trên cả phương diện kinh tế và xã hội. Bởi vậy, chúng tôi muốn bày tỏ sự biết ơn của chúng tôi đối với sự cống hiến của hai ông nhằm thúc đẩy mối quan hệ  Hoa Kỳ-Việt Nam.   Chúng tôi được biết rằng trong những tháng vừa qua Quốc hội Hoa Kỳ đã tăng cường xem xét việc nới lỏng và bãi bỏ lệnh cấm bán và chuyển giao vũ khí sát thương cho chính phủ Việt Nam. Trong khi động thái mới này hứa hẹn sẽ mang lại mối quan hệ quân sự tốt đẹp giữa hai quốc gia, đóng góp vào việc tăng cường sức mạng quốc phòng của Việt Nam trong điều kiện khiêu khích gia tăng ở vùng biển Hoa Nam (tên quốc tế: South China Sea, tên Việt Nam: Biển Đông), chúng tôi cho rằng cần thiết phải nêu ra các quan ngại của chúng tôi về những rủi ro liên quan đến việc bãi bỏ lệnh cấm bán vũ khí này. Mặc dù chính phủ Việt Nam đã đẩy mạnh những nỗ lực trên trường quốc tế nhằm thể hiện sự tán dương của họ đối với các quyền con người bằng cách tham gia Công ước Liên hợp quốc về Chống tra tấn và giành được một ghế trong Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, thành tích nhân quyền của Việt Nam vẫn nghèo nàn, nếu không muốn nói là còn tệ hơn. Trong 12 tháng qua, chính phủ Việt Nam đã tiếp tục thi hành những đạo luật an ninh quốc gia mơ hồ, chẳng hạn như Điều 79, 88 và 258 Bộ luật Hình sự, để bắt bớ và cầm tù nhiều hơn những blogger, nhà báo, nhà vận động pháp lý, các nhà hoạt động nhân quyền và quyền của người dân tộc thiểu số. Cùng với việc bịt miệng các tiếng nói bất đồng, con số người chết vì những hành động hung bạo của cảnh sát cũng gia tăng,  thường xuyên có cac vụ đàn áp các tổ chức tôn giáo phi nhà nước và tiếp tục có những sự sách nhiễu và đe dọa đối với các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền. Một điều rõ ràng là Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn giữa những lời hứa long trọng về nhân quyền trên trường quốc tế và việc thực thi chúng ở cấp quốc gia. Mặc dù gần đây đã có một số tù nhân chính trị được trả tự do, điều mà chúng tôi cũng mong đợi và trân trọng sự bày tỏ thiện chí của chính phủ trong việc cải thiện nhân quyền, tuy nhiên, chúng tôi vẫn phải lưu ý rằng sự cải thiện đang diễn ra, nếu có,  có thể bị đảo ngược khi chính phủ vẫn tỏ ra mơ hồ, không rõ ràng trong kế hoạch giải quyết những vấn đề nhân quyền đang tồn tại. Vì vậy, một bước thụt lùi về nhân quyền là hoàn toàn có thể xảy ra một khi chính phủ đạt được các mục tiêu chính trị của họ. Trong một kịch bản như vậy, chúng tôi tin rằng họ sẽ đi ngược lại thiện chí của Quốc hội Hoa Kỳ nhằm có được vũ khí sát thương để chống lại công dân Việt Nam. Với những quan ngại chúng tôi đã nêu ra, chúng tôi muốn thúc giục Quốc hội Hoa Kỳ, trước khi bán bất cứ vũ khí nào cho Việt Nam, yêu cầu Việt Nam đặt ra một lộ trình rõ ràng với những hành động cụ thể và đo lường được trong việc giải quyết các vấn đề cấp bách về nhân quyền. Những hành động đó phải bao gồm, trước tiên và trên hết, là bãi bỏ các quy định mơ hồ về an ninh quốc gia, tôn trọng các nhà hoạt động bảo vệ nhân quyền và trả tự do ngay lập tức, vô điều kiện cho tất cả các tù nhân lương tâm ở Việt Nam hiện nay, trong đó bao gồm cả 25 người trong danh sách kèm theo thư này. Xin cảm ơn sự quan tâm của hai ông đối với vấn đề này. Trân trọng, Các tổ chức cùng ký tên: 1.      Diễn đàn Xã hội Dân sự 2.      Hội đoàn kết công nông Việt Nam 3.      Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo Việt Nam 4.      Hội Anh em Dân chủ 5.      Hội Bầu Bí Tương Thân 6.      No-U FC Hà Nội 7.      No-U FC Sài Gòn 8.      Một nhóm các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo miền Tây 9.      Phong trào Con đường Việt Nam 10.  Tổ chức Sáng kiến Thể hiện Lương tâm Người Việt Hải ngoại (VOICE) --------------- Nguyên bản thư và danh sách 25 người đính kèm thư -------------- JOINT LETTER BY VIETNAM’S INDEPENDENT CIVIL SOCIETY ORGANIZATIONS To:          Senator John McCain Senator Sheldon Whitehouse August 8, 2014 Dear Senators John McCain and Sheldon Whitehouse: Re:         Negative Repercussions of a Lift of the Lethal Weapons Ban in Vietnam First of all, we would like to extend a heartfelt welcome to you upon your visit to Vietnam. Since Vietnam and the US formally normalized diplomatic relations, your names have always been at the forefront of every effort to promote and strengthen cooperation between the two countries. It is with certainty that due to the close partnership with the US, Vietnam has been benefitting both economically and socially.  Therefore, we would like to express our gratitude for your dedication towards the advancement of the US – Vietnam relations. It comes to our knowledge that in recent months there has been increased consideration among the US Congress towards easing and lifting the ban on the sale and transfer of lethal weapons to the Vietnam Government. While this new development would promise much-appreciated military cooperation between the two nations, which would contribute to the strengthening of Vietnam’s defense force amid growing aggressiveness in the South China Sea, we deem it necessary to put forward our concerns in terms of the risks related to the removal of the arms sales ban. Although Vietnam has stepped up efforts on the international stage to demonstrate its celebration for human rights by joining the UN Convention against Torture and winning a seat on the UN Human Rights Council, its human rights record at home remains poor, if not deteriorating. In the last 12 months, the Vietnamese government has continued to employ vague national security laws, such as Article 79, 88 and 258 of its Penal Code, to arrest and imprison more bloggers, journalists, legal advocates, human rights and ethnic minority rights activists. Along with silencing dissident voices, there are increasing numbers of deaths resulting from police brutality, frequent crackdowns on non-state religious associations, and continued harassment and intimidation of human rights defenders. It is clear that Vietnam still maintains a big gap between its ceremonious pledges of human rights commitment in the international arena and its implementation at the national level. Although there have been recent releases of some political prisoners, which we welcome and appreciate this demonstration of the government’s intention to improve on human rights, however, we must note that the ongoing improvement, if any, could be inconsistent as the government remains largely ambiguous and elusive in its plan to address perpetuating human rights issues. Thus, a backward step in human rights could be possible once the government achieves its political goals. In such a scenario, we believe it would be against the US Congress’s goodwill to have the lethal weapons turned against the Vietnamese citizens. With regard to our aforementioned concerns, we would urge the US Congress, ahead of any possible arms sales, to request Vietnam to put forth a clear agenda of concrete and measurable actions in addressing urgent human rights issues. Those actions must include, first and foremost, repeal of vague national security laws, respect for human rights defenders and the immediate and unconditional release of all the Vietnamese prisoners of consciences, including these 25 people as listed in the attached document. Thank you for your time and attention to this matter. Yours sincerely, We the undersigned:1.      Civil Society Forum 2.      The United Workers-Farmers Organization of Vietnam 3.      The Association of Political & Religious Prisoners of Vietnam 4.      The Brotherhood for Democracy 5.      Bau Bi Tuong Than Association 6.      No-U FC of Hanoi 7.      No-U FC of Saigon 8.      A group of followers of Hoa Hao Buddhist Church West branch 9.      The Vietnam Path Movement 10.  Vietnamese Overseas Initiative for Conscience Empowerment (VOICE) LIST OF 25 PRISONERS OF CONSCIENCE 1. Bui Thi Minh Hang ·         DOB: 1964 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Lap Vo Detention Center, Dong Thap Prison         ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§ 245 VCC) ·         Details: Bui Thi Minh Hang is an outspoken advocate on behalf of peasants whose lands were confiscated to make room for development projects. She was among a group of 21 people on mopeds that were attacked by Dong Thap police on 12 Feb 2014, about 140 km of Ho Chi Minh City. The group was on their way to visit Nguyen Bac Truyen, a lawyer and former political prisoner in Dong Thap. ·         Compelling Reason for Release: Health deteriorating due to hunger strike in May 2014 which lasted 2 weeks2. Dinh Nguyen Kha             ·         DOB: 1988 ·         Years Sentenced: 4 years imprisonment; 3 years house-arrest ·         Location: Xuyen Moc Prison, Ba Ria Vung Tau Province       ·         Criminal Charge(s): Spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam (§88 VCC) ·         Details: Dinh Nguyen Kha was arrested in 2012 for handing out leaflets that “distort the Party and the State’s policies related to religion and land, and exhibit a twisted viewpoint regarding the Spratly and Paracel islands and the border land between Vietnam and China.” The state media accused him of “calling and agitating people to protest against the Communist Party of Vietnam and the Socialist Republic of Vietnam.”3. Do Nam Trung                                                      ·         DOB: 1981 ·         Years Sentenced:  Pending ·         Location: Dong Nai Prison, Dong Nai Province ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§ 245 VCC) ·         Details: Do Nam Trung is a member of the Brotherhood for Democracy. He has been accused of provoking a violent riot in a Dong Nai Province's industrial park in May 2014 along with Le Thi Phuong Anh and Pham Minh Vu.4. Doan Huy Chuong                                    ·         DOB: 1985 ·         Years Sentenced: 7 years imprisonment ·         Location: Xuan Loc Prison, Binh Duong Province (K2) ·         Criminal Charge(s): Disrupting security (§89 VCC). ·         Details: Doan Huy Chuong is a labor activist who organized a strike in a shoe factory in Tra Vinh Province and distributed anti- government leaflets. Arrested on 11 February 2010, tried on 26 June 2010 in Tra Vinh Province; sentence upheld at appellate trial in Tra Vinh Province on 18 March 2011. As President of the United Workers and Farmers Association (UWFA), Doan Huy Chuong was previously arrested in Nov. 2006 and later sentenced to 18 months imprisonment. ·         Compelling Reason for Release: Suffers from internal injuries as a result of being tortured in prison5. Duong Thi Tron                                                     ·         DOB: 1947 ·         Years Sentenced: 9 years imprisonment ·         Location: Xuan Loc Prison, Binh Duong Province (K5) ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§245 VCC) and resisting officers performing their duties (§ 257 VCC) ·         Details: Hoa Hao Buddhist Church-Original Branch (HHBC-O) is independent to the state-controlled Hoa Hao Buddhist Commission and does not accept any interference by the Vietnamese authorities. Tron is an active member of HHBC-O (Dong Thap) and í the wife of its chairman, Nguyen Van Tho. ·         Compelling Reason for Release: She is suffering from low blood pressure and old age. She does not have access to medication.6. Le Quoc Quan                                                                   ·         DOB: 1971 ·         Years Sentenced: 2.5 years imprisonment ·         Location: An Diem Prison, Quang Nam Province ·         Criminal Charge(s): Tax evasion (§161 VCC) ·         Details: Le Quoc Quan is a human rights lawyer, democracy activist and prominent Catholic blogger. He was arrested by the Vietnamese government on charges of tax evasion on 27 December 2012, convicted on 2 October 2013, and sentenced to 30 months in prison and fined 100,000 USD. The arrest was condemned by international human rights organizations and the US government. ·         Compelling Reason for Release: Deteriorating health as a result of three hunger strikes7. Le Thi Phuong Anh                                                           ·         DOB: 1984 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Dong Nai Prison, Dong Nai Province ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§ 245 VCC) ·         Details: Le Thi Phuong Anh is a human rights and democracy activist. She has been accused of provoking a violent riot in a Dong Nai Province's industrial park in May 2014 along with Do Nam Trung and Pham Minh Vu      8. Mai Thi Dung                    ·         DOB: 1969 ·         Years Sentenced: 11 years imprisonment ·         Location: Thanh Xuan Prison, Hanoi ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§245 VCC)     ·         Details: Mai Thi Dung is a religious worker of the Hoa Hao Buddhist Church - Original Branch. She was arrested and charged under Article 245 for resisting and defending a religious gathering that was being interrupted by the authorities. ·         Compelling Reason for Release: Suffers from internal injuries as a result of being tortured in prison and is currently undergoing medical complications due to kidney stones9. Ngo Hao ·         DOB: 1943 ·         Years Sentenced: 15 years imprisonment; 5 years house-arrest ·         Location: Xuan Phuoc Prison, Phu Yen Province ·         Criminal Charge(s): Conducting activities to overthrow the people's government (§79 VCC) ·         Details: Ngo Hao is a democracy activist. He was arrested for writing and spreading articles criticizing the government's policies. ·         Compelling Reason for Release: Suffering from old age; forced to work in prison and currently does not have strength to stand on his own.10. Nguyen Hoang Quoc Hung                                                        ·         DOB: 1982 ·         Years Sentenced: 9 years imprisonment ·         Location: Xuyen Moc Prison, Ba Ria Vung Tau Province ·         Criminal Charge(s): Disrupting security (§89 VCC). ·         Details: Nguyen Hoang Quoc Hung is a member of “Victims of Injustice”—a group that advocates on behalf of victims of land confiscation.         11. Nguyen Huu Vinh (Ba Sam)       ·         DOB: 1956 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Hanoi ·         Criminal Charge(s): Abusing democratic freedoms (§258 VCC) ·         Details: Nguyen Huu Vinh – a liberal blogger – is well known for his regular posts which have opposing opinions. He is also known for delivering news about China’s hostile and provocative moves against Vietnam’s territorial sovereignty, a topic the government of Vietnam deemed sensitive to the relations between the two countries and therefore, often ignored.  12. Nguyen Thi Minh Thuy  ·         DOB: 1980 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Hanoi ·         Criminal Charge(s): Abusing democratic freedoms (§258 VCC) ·         Details: Nguyen Thi Minh Thuy is an employee of Nguyen Huu Vinh's business. She was accused of helping Vinh “publish online articles with bad contents and misleading information to lower the prestige and create public distrust of government offices, social organizations and citizens”   13. Nguyen Thi Thuy Quynh                                    ·         DOB: 1986 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Lap Vo Detention Center, Dong Thap Prison ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§ 245 VCC) ·         Details: Nguyen Thi Thuy Quynh is a religious worker in the  Hoa Hao Buddhist Church - Original Branch. She was arrested along with Bui Thi Minh Hang on their way to visit Nguyen Bac Truyen.14. Nguyen Van Hai (Dieu Cay)                                            .          ·         DOB: 1952 ·         Years Sentenced: 12 years imprisonment; 5 years house-arrest ·         Location: Prison No.6, Nghe An Province ·         Criminal Charge(s): Spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam (§88 VCC) ·         Details: Nguyen Van Hai, also known as Nguyen Hoang Hai, better known by his pen name Dieu Cay, is a Vietnamese blogger who has been prosecuted by the government of Vietnam for tax evasion and "disseminating anti-state information and materials". His imprisonment was protested by several international human rights organizations, and Amnesty International considers him a prisoner of conscience. ·         Compelling Reason for Release: Imprisoned in solitary confinement.15. Nguyen Van Lia                                                              ·         DOB: 1940 ·         Years Sentenced: 4.5 years imprisonment ·         Location: Xuan Loc Prison, Binh Duong Province (K2) ·         Criminal Charge(s): Abusing democratic freedoms (§258 VCC) ·         Details: Nguyen Van Lia is a longtime adherent of Hoa Hao Buddhism, a religious group often suppressed by the government, and the co-author of several Hoa Hao Buddhist religious instruction texts and books. He was charged with violating Article 258 of the penal code for “abusing democratic freedoms to infringe upon the interests of the state,” a vague crime that could result in a sentence of up to seven years. ·         Compelling Reason for Release: Suffers from old age; high blood pressure and does not have access to medication. His family is not permitted to send medication.16. Nguyen Van Ly                                                   ·         DOB: 1946 ·         Years Sentenced: 8 years imprisonment; 5 years house-arrest ·         Location: Nam Ha Prison, Ha Nam Province ·         Criminal Charge(s): Spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam (§88 VCC) ·         Details: Father Thadeus Nguyen Van Ly  is a Vietnamese Roman Catholic priest and dissident involved in many pro-democracy movements for which he was imprisoned for a total of almost 15 years. For his ongoing imprisonment and continuous non-violent protest, Amnesty International adopted Father Lý in December 1983 as a prisoner of conscience. Most recently, his support for the Bloc 8406 manifesto has led to his sentence on 30 March 2007, for an additional eight years in prison.17. Nguyen Van Minh                                                          ·         DOB: 1980 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Lap Vo Detention Center, Dong Thap Prison ·         Criminal Charge(s): Resisting persons in the performance of their official duties. (§275 VCC). ·         Details: Nguyen Van Minh is a religious worker of the Hoa Hao Buddhist Church - Original Branch. He was arrested along with Bui Thi Minh Hang on their way to visit Nguyen Bac Truyen. 18. Pham Minh Vu                                        ·         DOB: 1980 ·         Years Sentenced: Pending ·         Location: Dong Nai Prison ·         Criminal Charge(s): Causing public disorder (§ 245 VCC) ·         Details: Pham Minh Vu is a member of the Brotherhood for Democracy. He has been accused of provoking a violent riot in a Dong Nai Province's industrial park in May 2014 along with Le Thi Phuong Anh and Do Nam Trung.19. Pham Viet Dao                                        ·         DOB: 1951      ·         Years Sentenced: 15 months imprisonment ·         Location: Hanoi ·         Criminal Charge(s): Abusing democratic freedoms (§258 VCC) ·         Details: Pham Viet Dao is a former Vietnamese Communist Party member and government official. He was convicted under Article 258 of Vietnam’s penal code for allegedly “abusing democratic freedoms to infringe on the interests of the State.”20. Phan Van Thu                                                     ·         DOB: 1948 ·         Years Sentenced: Life imprisonment ·         Location: Unknown ·         Criminal Charge(s): Conducting activities to overthrow the people's government (§79 VCC) ·         Details: Phan Van Thu was arrested on 05 February 2012 in Phu Yen Province. He was allegedly the leader of Public Law Council of Bia Son, which the Vietnamese police newspaper has accused of “conducting activities to overthrow the people's government.”21. Ta Phong Tan                                                      ·         DOB: 1968 ·         Years Sentenced: 10 years imprisonment; 5 years house-arrest ·         Location: Yen Dinh Prison, Thanh Hoa Province ·         Criminal Charge(s): Spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam (§88 VCC) ·         Details: Ta Phong Tan is a Vietnamese dissident blogger, a former policewoman and member of the Communist Party of Vietnam. She was arrested in September 2011 under anti-state propaganda charges for her blog posts alleging government corruption. ·         Compelling Reason for Release: Under psychological pressure because of civil disobedience within prison.22. Tran Huynh Duy Thuc                                                                ·         DOB: 1965 ·         Years Sentenced: 16 years imprisonment; 5 years house-arrest ·         Location: Xuyen Moc Prinson, Dong Nai Province ·         Criminal Charge(s): Conducting activities to overthrow the people's government (§79 VCC) ·         Details: According to the indictment, along with Nguyen Tien Trung, Le Cong Dinh and Le Thang Long, Tran Huynh Duy Thuc had sought to build a multiparty system and written 53 articles, amongst them "The Vietnam’s Roadmap", and posted them on the internet. Thuc was director general of the OCI telecommunication company. Initially at his arrest on 24 May 2009, he had been accused of “theft of telecom fees”. Later the charge was turned to “spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam” (§88 VCC) and finally to subversive activities (§79 VCC). He was tried on 20 January 2010 in Ho Chi Minh City. His sentence was upheld at the appellate trial on 11 May 2010. ·         Compelling Reason for Release: Was forced into solitary confinement as a disciplinary punishment.23. Tran Vu Anh Binh                                               ·         DOB: 1974      ·         Years Sentenced: 6 years imprisonment; 2 years house-arrest ·         Location: An Phuoc Prison, Binh Duong Province ·         Criminal Charge(s): Tran Vu Anh Binh is a Catholic songwriter and member of the Patriotic Youth Group (PYG) who participated in anti-China demonstrations in Ho Chi Minh City. Along with 4 members of PYG, he was arrested on 19 September 2011 in HCM City.24. Truong Duy Nhat                                    ·         DOB: 1964 ·         Years Sentenced: 2 years imprisonment       ·         Location: Hoa Son Prison, Da Nang ·         Criminal Charge(s): Abusing democratic freedoms (§258 VCC) ·         Details: Truong Duy Nhat was sentenced to 2 years imprisonment for allegedly "abusing the rights of freedom" in writing his blog "Another Point of View". The charges were based on 12 specific entries on his blog in which he criticized the performances of top government and Party officials, including the General Secretary and the Prime Minister.25. Vo Minh Tri (Viet Khang)                                                           ·         DOB: 1978 ·         Years Sentenced: 4 years imprisonment; 2 years house-arrest ·         Location: Xuan Loc Prison, Binh Duong Province (K2) ·         Criminal Charge(s): Spreading propaganda against the Socialist Republic of Vietnam (§88 VCC) ·         Details: Vo Minh Tri has composed 2 patriotic songs: “Who are you?” and “Where is my Vietnam?”. He personally performed them and posted them on the internet to support anti-China demonstrations in Vietnam. He was arrested on 23 December 2011 in HCM City. Total years of imprisonment: 121.25 Total years of house-arrest: 32 Total cases of life imprisonment: 1 Total cases still pending: 8 Nguồn: danquyenvn.blogspot.dk
......

LÊ VĂN TÁM - " I NỚP U"

Anh yêu thương! Tính đến ngày em hết là "con lừa" thì em đã yêu anh ngót nghét được 20 năm có lẽ..., em bắt đầu yêu anh kể từ ngày em nhập học lớp 1, em bị nhét vào ngôi trường mang tên Lê Văn Tám, và thế là cái tên anh lúc nào cũng nằm chình ình ngay trên ngực áo em, phập phồng theo nhịp thở của trái tim em, sáng nào tung tăng đến trường em cũng hát vang toáng cả con đường như con điên bài hát về anh mà em đã bị bắt học thuộc, và điều đặc biệt là em đã được vinh dự chọn đi thi kể chuyện về "Lê Văn Tám - người anh hùng tí hon giả tưởng của chế độ"...em đã rinh 1 cái giải cộng với phần thưởng lớn lao bao gồm 1 tấm giấy khen, 1 bịch kẹo và 1 cuốn sổ. Ôi chao ơi cái đám bạn em "lồng lộn" lên vì ghen tức với em, cả lũ chúng nó cũng đều rất yêu anh nhưng chưa có đứa nào được vinh dự học thuộc lòng và kể vanh vách chiến công của anh trước "Trại súc vật" toàn tai to mặt lớn...trong cái đại hội gì đó em quên mẹ nó rồi. Em đành an ủi chúng nó bằng cách chia kẹo và cả lũ giơ tay "thề quyết tâm" sẽ noi gương anh là bọn lừa chúng em sẽ sẵng sàng là "ngọn đuốc sống" thiêu cháy tất cả những gì Đảng và NN cho là "phản động"...   Anh yêu! Em những tưởng tình yêu em dành cho anh sẽ theo em mãi mãi đến suốt đời suốt kiếp nhưng không ngờ tình chúng ta ngang trái quá. Em đã đau đớn vật vã, khóc lóc suýt đâm đầu vào xe bus tự tử mấy lần khi cái thằng "in tẹt nét" nó dám bảo là anh không có thật, anh là do một bọn chính trị khốn nạn vẽ vời xây dựng lên. Nó và một số người có tên tuổi như GS Phan Huy Lê khẳng định cái hình tượng chúng em yêu dấu là hình ảnh giả tưởng "láo toét, bịa đặt" do ông Trần Huy Liệu bị ép viết theo yêu cầu của chế độ. Em đau đớn đến bầm tím ruột gan, sao lại có sự thật phũ phàng đến thế? Sao tình yêu quê hương, đất nước, yêu anh hùng của em và các thế hệ chung "chuồng lừa" lại có thể bị "chà đạp" đến như vậy? Tụi em đã được "nhồi sọ" là phải yêu anh đến chết bỏ thì làm sao mà chúng em không đau đớn, vật vã cho được khi phát hiện ra Honey của em chỉ là sản phẩm của một sự tuyên truyền, dối trá, lừa lọc... Anh yêu thương! Dù sao em cũng đã lỡ yêu anh, vì yêu anh nên em phải nói cho cái bọn khốn nạn tạo dựng nên anh biết rằng: dù anh là ai? Anh là thật hay là giả thì tụi nó cũng là lũ vô lương tâm và bỉ ổi khi dùng thủ đoạn chính trị, dùng hình tượng "trẻ em" để tuyên truyền kích động trẻ em "tự sát". Bọn chúng chẳng khác gì các bọn khủng bố trên Thế Giới bắt trẻ em ôm bom tự sát, lợi dụng trẻ em cho những mưu đồ chính trị... Nói trắng ra tụi nó còn tàn độc và thâm hiểm hơn nhiều vì chúng dùng quyền của chúng ngụy tạo lịch sử, bơm đầy gian dối vào sách giáo khoa, chúng nhồi sọ, đóng gói biết bao điều tàn tệ, man trá, phi lí vào đầu hàng triệu hàng triệu đứa trẻ, từ thế hệ này sang thế hệ khác... để rồi lớp trẻ VN sau 1975 không khác gì những con cừu ngây ngô bảo sao nghe vậy, cho gì ăn nấy, chỉ biết ấm ức cúi đầu thinh lặng, vô cảm vô tình với quyền lợi dân tộc, quyền lợi đất nước...Chúng đã sử dụng thuốc độc tiêm vacxin cho tụi em từ lúc mới học mẫu giáo cho đến lớp Đại học, chúng em đã miễn nhiễm với các từ "tự do, dân chủ, hạnh phúc", chúng em chỉ biết có mỗi "độc lập" và hả hê với vinh quang "chiến thắng quân thù" của đất nước VN. Chúng tạo dựng dây chuyền sản xuất và thải ra hàng loạt các thế hệ có mắt, có tai, có tim, có óc... cũng như mù, câm, điếc vì mắt chỉ thấy có mỗi Đảng CSVN quang vinh, tai chỉ nghe những được những thông tin gian dối 1 chiều bị bóp méo, óc chỉ luẩn quẩn nghĩ đến cơm ngày 3 bữa, tim luôn phập phồng nơm nớp lo sợ, hèn kém chưa bao giờ dám lên tiếng đòi hỏi quyền lợi chung và đấu tranh vì chính nghĩa...Ôi, chúng đã thành công và hả hê trước "sự im lặng của bầy cừu"...!   Lê Văn Tám, anh là minh chứng hùng hồn nhất cho sự man trá của chế độ này. Nếu anh có "linh thiêng ", hãy châm ngọn lửa dũng cảm vào các thế hệ trẻ, hãy giúp họ nhận ra đâu là sự thật, hãy giúp họ cởi bỏ lốt cừu, lên tiếng và hành động để xứng đáng là thế hệ tiên phong trong công cuộc "giải phóng" đất nước. Your Love!
......

Hoàng Sa - dữ kiện lịch sử từ wikileaks

Hoàng Sa - những diễn biến lịch sử theo các tài liệu của wikileaks lại các điện tín mà Wikileaks đã lưu trữ và công bố trên trang của họ [1], mình có thể liệt kê các biến cố quan trọng theo tình tự thời gian: 1) Ngày 11 tháng Một năm 1974, Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH) bất thình lình tuyên bố Hoàng Sa là của họ. Ngày 16 tháng Một năm 1974, tàu Lý Thường Kiệt (HQ-16) ra Hoàng Sa để kiểm sát thì phát hiện có hai "tàu cá" của Trung Quốc ở đó. Chiều ngày 16 tháng Một năm 1974, Ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc thay mặt chính phủ VNCH chính thức lên tiếng lên án thái độ phi pháp của nhà cầm quyền Cộng sản Trung Quốc về việc tuyên bố sai sự thật và việc xâm nhập lãnh thổ Việt Nam bất hợp pháp. Ngoại trưởng Bắc liệt kê những bằng chứng chủ quyền quần đảo Hoàng Sa của VNCH: - Vua Gia Long năm 1802 đã hình thành quân đội kiểm soát quần đảo Hoàng Sa theo tài liệu của Đại Nam Nhất Thống Chí. - Vua Minh Mạng năm 1834, trình điều Huế đã có bản đồ Hoàng Sa trong Hoàng Việt Địa Du. - Thời Pháp thuộc đã có sắc luật 156/SC vào ngày 16 tháng Sáu năm 1932 ấn định Hoàng Sa thuộc quản lý hành chánh của tỉnh Thừa Thiên. - Vua Bảo Đại một lần nữa ra quyết định Hoàng Sa thuộc quản lý hành chánh của Thừa Thiên vào 30 tháng Ba năm 1938. - Toàn quyền Đông Dương một lần nữa xác định quyền quản lý Hoàng Sa thuộc chính phủ bảo hộ vào ngày 5 tháng Năm 1939. - Dưới thời đệ nhất VNCH, sắc lệnh 174-NK vào năm 1961 quyết định quần đảo Hoàng Sa thuộc Định Hải, Hoà Vang, Quảng Nam thay vì Thừa Thiên. - Dưới thời đệ nhị VNCH, sắc lệnh 079-BNV quyết định Định Hải sáp nhập với Hoà Long thuộc Hoà Vang. - Phái đoàn Việt Nam tham dự hội nghị San Francisco năm 1951, đã tuyên bố quần đảo Hoàng Sa thuộc Việt Nam và không có bất cứ quốc gia nào trong 51 nước tham dự đã phản đối. [2] "Đại Nam nhất thống toàn đồ” vẽ năm 1838 triều Minh Mạng, có thể hiện hai địa danh Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa bằng chữ Hán. 2) Ngày 18 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng Vương Văn Bắc với vai trò thành viên dự khuyết của nước VNCH gởi thư đến chủ tịch LHQ Gonzalo J. Facio về thông tin đã được phát thanh vào chiều 16 tháng Một năm 1974 [3]. 3) Ngày 19 tháng Một năm 1974, hải quân VNCH và hải quân CHNDTH đụng độ tại Hoàng Sa. Báo Hoà Bình, một tờ báo độc lập của nam Việt Nam lên tiếng chỉ trích cộng sản Bắc Việt hoàn toàn im lặng trong khi họ rêu rao việc đấu tranh cho độc lập và trọn vẹn lãnh thổ [4]. 4) Ngày 20 tháng Một năm 1974, đại diện VNCH gởi thư cho chủ tịch LHQ thỉnh cầu triệu tập cuộc họp khẩn cấp để giàn xử việc CHNDTH cưỡng chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực và phía VNCH hiểu được tình trạng có thể thiếu sự ủng hộ của các thành viên của hội đồng bảo an LHQ [5] và bức thư này đã được ký nhận [6]. 5) Ngày 21 tháng Một năm 1974, chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận việc phía VNCH đã kêu gọi hội đồng bảo an LHQ triệu tập cuộc họp khẩn cấp [7]. 6) Ngày 21 tháng Một năm 1974, hội đồng bảo an LHQ cho biết đã gặp phía VNCH và đại diện VNCH nhận thấy sẽ có những khó khăn để tìm 9 phiếu ủng hộ từ hội đồng bảo an LHQ nhưng phía VNCH cho biết họ sẽ làm việc với phía Anh, Pháp, Indonesia và Úc cũng trong ngày [8]. 7) Ngày 21 tháng Một năm 1974, hội đồng bảo an LHQ cũng đã chuyển thư thỉnh cầu của phía VNCH đến tổng thư ký LHQ Kurt Waldheim [9]. 8) Ngày 21 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio đã gặp gỡ phía VNCH và VNCH cho biết họ xác nhận cần tiến hành cuộc họp khẩn cấp với hội đồng bảo an LHQ và cần 3 ngày để sắp xếp nhân sự có mặt ở New York. Facio cũng cho biết chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, ông bắt đầu làm việc với từng đại diện của hội đồng bảo an LHQ, bắt đầu với Trung Quốc và sẽ cho phía VNCH biết tình hình vào sáng 22 tháng Một năm 1974 [10]. 9) Chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio đã gặp gỡ phía CHNDTH và cho biết phía CHNDTH rất giận dữ và họ xác định chuyện Hoàng Sa là chuyện nội bộ của Trung Quốc và việc ông chủ tịch làm việc với các thành viên hội đồng bảo an LHQ để đưa đến cuộc họp khẩn này có thể dẫn đến việc xâm phạm chủ quyền quốc gia Trung Quốc. [11] 10) Cũng trong chiều ngày 21 tháng Một năm 1974, theo Kissinger, đại sứ Phương (của VNCH) đã gọi cho Hummel [12] và Stearns [13]. Phương cho biết dù nhận thấy những điểm bất lợi của vụ họp khẩn này của hội đồng bảo an LHQ nhưng VNCH không có chọn lựa nào khác trong tình thế này. Hummel và Stearns cho biết họ e ngại rằng phía Trung Quốc sẽ đưa ra một phiên bản khác và lật ngược thành chuyện VNCH đã khiêu khích và xâm chiếm và sự vụ sẽ trở nên rắc rối và bất lợi cho phía VNCH. Họ cũng cho biết, trong tình trạng này, sự từ chối khiếu nại của VNCH sẽ có hại cho VNCH [14]. 11) Cũng trong ngày 21 tháng Một năm 1974, Kissinger đánh giá tình thế bất lợi của VNCH do thành viên của hội đồng bảo an LHQ có những thay đổi: Iraq thay Ấn Độ, Mauritania thay Sudan, Byelorussia thay Nam Tư và hai thành viên mới là Costa Rica và Cameroon vốn chưa có quan hệ tốt với VNCH. VNCH cần 9 phiếu thuận (trong 15 phiếu) trong tình trạng gấp rút này e rất khó thành [15]. 12) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Phillipines cho biết quan điểm của họ về vụ Hoàng Sa là "thái độ xâm lấn của Trung Quốc là kết quả của việc Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam". Sự vụ này cho thấy Philippines nên tiếp tục duy trì căn cứ của Hoa Kỳ tại Phillipines. Phillipines cũng nhận định sự vụ này nhắm vào phía VNCH khiến Hà Nội ắt đã vỗ tay tán thưởng. Tuy nhiên, Hà Nội có lẽ cũng đã nhận ra rằng sự mất mát Hoàng Sa là sự mất mác không thể lấy lại được [16]. 13) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Mã Lai yêu cầu cho biết thêm chi tiết về sự vụ và nghi ngờ rằng đây là một trong những bước đầu tiên Trung Quốc kiểm soát tất cả các đảo trong khu vực mà họ đã công bố chủ quyền [17]. 14) Ngày 22 tháng Một năm 1974, Liên Xô cho biết nhận định của họ về sự vụ cần được giải quyết giữa các phía liên can (VNCH, CHNDTH và Phillpines). Theo Liên Xô, bắc Việt (VNDCCH) chưa bao giờ xác nhận chủ quyền của họ ở quần đảo Hoàng Sa. Theo Trifonov, sự vụ này diễn ra do VNCH muốn hợp tác với Mỹ để khai thác dầu hoả [18]. 15) Ngày 22 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ, Facio liên lạc với phía VNCH và đánh giá tình hình. Ông cho rằng VNCH đang nằm trong thế bất lợi để có thể có đủ phiếu thuận. Theo thẩm định của ông, Phiếu thuận: Úc, Áo, Anh, Mỹ và Costa Rica Phiếu chống: Beylorussia, Trung Quốc, Indonesia, Iraq và Liên Xô Phiếu trắng: Careroon, Pháp, Kenya, Maritania và Peru [19]. 16) Ngày 23 tháng Một năm 1974, phía Indonesia xác nhận quan điểm của họ là Hoàng Sa thuộc Trung Quốc theo hội nghị San Francisco 1951. Tuy nhiên, đại diện Indonesia từ dối xác định vị thế của họ trước cuộc họp của hội đồng bảo an LHQ [20]. 17) Ngày 23 tháng Một năm 1974, đại sứ Martin cho biết vì thiếu mối quan hệ ngoại giữa VNCH và Peru cho nên Peru sẽ chọn phiếu trắng trong cuộc họp của hội đồng bảo an LHQ [21]. 18) Ngày 23 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc kêu gọi SEATO áp dụng điều khoản 4 của hiệp định Manila và kêu gọi các quốc gia trong hiệp hội SEATO có những động thái cần thiết [22]. 19) Ngày 23 tháng Một năm 1974, theo Kissinger thì chính phủ Hoa Kỳ đã nhận được tuyên bố phía Indonesia cho rằng Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc và được quốc tế công nhận [23]. 20) Ngày 23 tháng Một năm 1974, chủ tịch hội đồng bảo an LHQ đã xác nhận phổ biến bức thư của đại sứ VNCH Nguyễn Hữu Chi, đại diện VNCH như thành viên dự khuyết của hội đồng bảo an LHQ trình bày sự vụ Hoàng Sa [24]. 21) Ngày 23 tháng Một năm 1974, Kissinger chuyển gởi thông tin đến phía VNCH về việc Costa Rica xác định ủng hộ VNCH. Tuy nhiên tình thế vẫn rất bất lợi cho phía VNCH vì chỉ có 5 phiếu thuận, 5 phiếu trắng và 5 phiếu chống [25]. 22) Ngày 24 tháng Một năm 1974, Kissinger cho biết phản ứng của SEATO với sự vụ VNCH kêu gọi ngày 23 tháng Một năm 1974 là "tiêu cực" (negative) và Hoa Kỳ rất ngờ vực khả năng của SEATO [26]. 23) Ngày 25 tháng Một năm 1974, ngoại trưởng VNCH Vương Văn Bắc gởi thông điệp qua đại sứ thường trực Nguyễn Hữu Chi về việc phía VNCH rút thỉnh cầu kêu gọi cuộc họp khẩn cấp dựa theo quyết định của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng mong mỏi hội đồng bảo an LHQ ghi nhận trường hợp này và xử lý sao cho thích hợp [27]. 24) Ngày 25 tháng Một năm 1974, chính phủ Pháp xác nhận việc Pháp dự định bỏ phiếu trắng là không đúng sự thật. Tuy nhiên, đại diện chính phủ Pháp cho rằng sự vụ rất phức tạp và ngay lúc này họ không thể chọn ủng hộ bên nào. Pháp muốn biết quan điểm cụ thể của Hoa Kỳ như thế nào [28]. --------------------------------------- Nhận định cá nhân: - Sự việc xảy ra nhằm lúc có những điểm bất lợi cho VNCH vì hội đồng bảo an LHQ vừa thay đổi thành viên thường trực. Trong đó, Iraq thay Ấn Độ, Mauritania thay Sudan, Byelorussia thay Nam Tư và hai thành viên mới là Costa Rica và Cameroon vốn chưa có quan hệ mật thiết với VNCH. Byelorussia thuộc USSR thì việc ủng hộ VNCH là việc không thể. - Chính phủ VNCH đã cố gắng hết sức để vận động cả hội đồng bảo an LHQ lẫn tổ chức SEATO nhưng SEATO không mang lại kết quả nào tích cực. - Liên Xô dù đang va chạm với Trung Quốc nhưng không muốn ủng hộ VNCH và cũng không muốn ra mặt đối chọi với Trung Quốc trong việc ra phiếu thuận cho VNCH. - Indonesia và China bắt đầu quan hệ ngoại giao từ năm 1950 nhưng bị ngưng vào năm 1967 vì biến cố Gestok năm 1965 tại Indonesia. Tuy nhiên, Indonesia luôn luôn xác định Hoàng Sa là của Trung Quốc và cho đến phút chót, vị trí bỏ phiếu chống VNCH của Indonesia vẫn không thay đổi mặc dù theo dư luận chung của quốc tế, quần đảo Hoàng Sa thời điểm này vẫn thuộc dạng "dispute" (tranh chấp). Indonesia đã tạo thêm bất lợi cho VNCH. - Pháp có thái độ mập mờ về việc ủng hộ VNCH với chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa mặc dù trong thời Pháp thuộc, Pháp đã nhiều lần xác định cơ quan hành chánh cho Hoàng Sa. Sự quyết định chậm trễ và mập mờ của Pháp đã góp phần vào việc VNCH phải huỷ bỏ cuộc họp khẩn cấp về sự vụ Hoàng Sa. - Nếu Ấn Độ và Sudan vẫn còn là thành viên thường trực của hội đồng bảo an LHQ và Indonesia và Pháp có động thái tích cực và chính xác hơn thì có lẽ VNCH đã có thể chiếm 9 phiếu thuận trên 15 phiếu và sự vụ đã được khép lại. - Hội đồng bảo an LHQ và phía Hoa Kỳ đã làm việc rốt ráo và có những đóng góp ý kiến có giá trị vì nếu VNCH không nắm tình hình mà lao vào cuộc biểu quyết và bị phủ quyết thì sự vụ sẽ vĩnh viễn khép lại và Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa. - Phía VNCH và tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã quyết định rút đơn thỉnh cầu và đó là một quyết định đúng đắn vì nếu VNCH bị phủ quyết thì sự vụ sẽ vĩnh viễn khép lại và Việt Nam sẽ vĩnh viễn mất Hoàng Sa. - Sau 1975, chính phủ VNDCCH chưa bao giờ đưa sự vụ Hoàng Sa ra LHQ. Cho đến ngày nay, Hoàng Sa đã trở thành căn cứ và thuộc đơn vị hành chánh "Tam Sa" nhưng chính phủ CHXHCNVN chưa bao bao giờ có bất cứ động thái rốt ráo và quyết liệt nào cả. Chú thích: [1] wikileaks.org [2] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON00752_b.html [3] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00175_b.html [4] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON00859_b.html [5] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00188_b.html [6] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE012722_b.html [7] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE012732_b.html [8] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00190_b.html [9] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00192_b.html [10] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00194_b.html [11] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00203_b.html [12] Hummel, Arthur William, Jr. trợ lý Đông Á - Thái Bình Dương sự vụ của Hoa Kỳ. [13] Stearns, Monteagle, phó trợ lý Đông Á - Thái Bình Dương sự vụ của Hoa Kỳ. [14] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE013405_b.html [15] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE013407_b.html [16] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974MANILA00775_b.html [17] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974KUALA00310_b.html [18] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974MOSCOW01036_b.html [19] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00219_b.html [20] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974JAKART00961_b.html [21] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON01039_b.html [22] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974BANGKO01283_b.html [23] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE014788_b.html [24] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974USUNN00233_b.html [25] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE015338_b.html [26] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974STATE015405_b.html [27] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974SAIGON01040_b.html [28] http://search.wikileaks.org/plusd/cables/1974PARIS02298_b.html Nguồn: https://www.facebook.com/notes/773727779316198/  
......

CHUNG QUANH CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG

Vào đầu tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981đến đặt tại vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã đánh chiếm của Việt Nam Cộng Hòa ngày-19-1-1974.  Sự xuất hiện giàn khoan nầy làm rộ lên trở lại dư luận trong và ngoài nước vấn đề công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt Nam trước đây. 1.-  TUYÊN BỐ CỦA TRUNG QUỐC Từ 24-2 đến 29-4-1958, các thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ) họp tại Genève bàn về luật biển.  Hội nghị ký kết bốn quy ước về luật biển.  Riêng  quy ước về hải phận mỗi nước, có 3 đề nghị:  3 hải lý, 12 hải lý và 200 hải lý.  Không đề nghị nào hội đủ túc số 2/3, nên LHQ chưa có quyết định thống nhất.  Lúc đó, Trung Quốc và hai miền Nam và Bắc Việt Nam không phải là thành viên LHQ nên không tham dự hội nghị nầy.  Trước cuộc tranh cãi về hải phận, ngày 28-6-1958, Mao Trạch Đông tuyên bố với nhóm tướng lãnh thân cận: “Ngày nay, Thái Bình Dương không yên ổn.  Thái Bình Dương chỉ yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and Jon Halliday, MAO: The Unknown Story, New York: Alfred A. Knopf, 2005, tr. 426.)  Tiếp đó, ngày 4-9-1958, Trung Quốc đưa ra bản tuyên bố về hải phận gồm 4 điểm, trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau: (1)   Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý.  Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc. . . . . . . . . . . . . . . (4)  Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành Hồ], quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc... (Nguồn: http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm>).  Mục đích của bản tuyên bố ngày 4-9-1958 nhằm xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý.  Tuy nhiên điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố cố ý lập lại và mặc nhiên khẳng định chắc chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền của Trung Quốc và gọi theo tên Trung Quốc là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].  Điểm cần chú ý là Trung Quốc lúc đó chưa phải là thành viên Liên Hiệp Quốc và không thể dùng diễn đàn của Liên Hiệp Quốc để bày tỏ quan điểm và chủ trương của mình, nên Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố nầy, thông báo quyết định về lãnh hải của Trung Quốc.  Vì vậy các nước không nhất thiết là phải trả lời bản tuyên bố của Trung Quốc, nhưng riêng Bắc Việt Nam lại tự ý đáp ứng ngay. 2.-   CÔNG HÀM CỦA BẮC VIỆT Trước khi ký kết hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai đất nước, đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) đã sắp đặt trước kế hoạch tiếp tục chiến tranh đánh miền Nam.  Chủ trương nầy được đưa ra rõ nét tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng Tây (Guangxi), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai. Sau khi đất nước bị chia hai, Bắc Việt nằm dưới chế độ cộng sản do Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo.  Muốn đánh miền Nam, thì Bắc Việt cần được các nước ngoài viện trợ, nhất là Liên Xô và Trung Quốc.  Vì vậy, khi Trung Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, chẳng cần tham khảo ý kiến Bắc Việt, thì “không gọi mà dạ”, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, lại hưởng ứng ngay, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc để lấy lòng chính phủ Trung Quốc.  Mở đầu bản công hàm, Phạm Văn Đồng viết: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.  Kết thúc bản công hàm là câu: “Chúng tôi xin kính gởi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.”  Gọi nhau đồng chí là ngôn ngữ giao thiệp giữa đảng với đảng trong cùng một hệ thống cộng sản quốc tế, khác với ngôn ngữ ngoại giao thông thường.  Nội dung bản công hàm Phạm Văn Đồng nguyên văn như sau: “Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.” Chắc chắn bản công hàm nầy đưọc Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) chuẩn thuận và được gởi thẳng cho Trung Quốc mà không tham khảo ý kiến hay thông qua quốc hội Bắc Việt.  Quốc hội Bắc Việt lúc đó nguyên là quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, gọi là quốc hội Khóa I.  Sau chiến tranh 1946-1954, đất nước bị chia hai.  Nhà nước Bắc Việt triệu tập những dân biểu cộng sản còn sống ở Bắc Việt vào tháng 9-1955, tiếp tục hoạt động cho đến ngày 8-5-1960, Bắc Việt mới tổ chức bầu lại quốc hội khóa II, khai mạc phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 6-7-1960.  3.-  TRUNG QUỐC BIỆN MINH Khi tự động đem giàn khoan 981 đặt trong vùng biển Hoàng Sa, vi phạm lãnh hải Việt Nam, Trung Quốc liền bị dân chúng Việt Nam biểu tình phản đối mạnh mẽ và dư luận quốc tế lên án, thì nhà cầm quyền Trung Quốc cho người sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 để nói chuyện. Cùng ngày 20-5, hai nhân vật Trung Quốc đã lên tiếng biện minh cho hành động của Trung Quốc.  Dĩ nhiên họ được lệnh của nhà nước Bắc Kinh mới được quyền lên tiếng. Thứ nhứt, đại biện lâm thời Trung Quốc ở Indonesia, ông Lưu Hồng Dương, có bài đăng trên báo Jakarta Post (Indonesia), xác định rằng quân đảo Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh thổ của Trung Quốc.  Bài báo viết: “Trong tuyên bố ngày 14-9-1958, thay mặt chính phủ Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.”  Lưu Hồng Dương, tác giả bài báo, còn viết: “Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc “estoppels”. [không được nói ngược]. Người thứ hai là tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, trả lời phỏng vấn hãng tin Deutsch Welle (DW) của Đức, được đưa lên Net ngày 20-5.  Ông nầy nói như sau: “Năm 1958, thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai...  Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất nước thống nhất năm 1975.  Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.” 4.-   CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỐNG CHẾ Trả lời những cáo buộc trên đây của Trung Quốc, trong cuộc họp báo ngày 23-5-2014 tại Hà Nội, ông Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, cho rằng công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ quyền biển đảo Việt Nam.  Ông Hải nói: “Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa, TrườngS, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa... Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.  Vậy điều đó càng khẳng định công văn của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý...” Ngoài ra, còn có đại sứ của hai phía Trung Cộng và Việt Cộng ở Hoa Kỳ tham gia cuộc tranh cãi, lên tiếng bênh vực lập trườøng của chính phủ mình.  Báo chí hai nước cũng đưa tin và bình luận cáo buộc đối phương mà trước đây ít khi thấy.  Lời qua tiếng lại còn nhiều, nhưng đại khái lập trường hai bên là như vậy. 5.-  HIỂU CÁCH NÀO? Bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đưa ra hai chủ điểm: 1) Xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Mặc nhiên xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên một số quần đảo trên Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vốn của Việt Nam từ lâu đời.  Dầu công hàm Phạm Văn Đồng không có chữ Hoàng Sa và Trường Sa như ông Trần Duy Hải nói, nhưng công hàm Phạm Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc”, có nghĩa là nhà nước Bắc Việt cộng sản công nhận hai chủ điểm của bản tuyên bố của Trung Quốc.    Trần Duy Hải còn nhấn mạnh rằng sau hiệp định Genève, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa và “Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được.”  Ông Hải nói chuyện lạ lùng như một người nước ngoài.  Nếu Nam Việt không phải là một phần của Việt Nam, thì tại sao Bắc Việt lại đòi “Chống Mỹ cứu nước” hay “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.”?  Khi xâm lăng Nam Việt, thì Bắc Việt nhận Nam Việt là một phần của Việt Nam.  Khi  cần xin viện trợ thì Bắc Việt bảo rằng đó là của Nam Việt, rồi Bắc Việt dùng để trao đổi với nước ngoài?  (Một giải thích lạ lùng hơn nữa là bà Nguyễn Thị Thụy Nga (Bảy Vân), vợ Lê Duẫn, trả lời trong cuộc phỏng vấn năm 2008 của đài BBC rằng “ngụy nó đóng ở đó nên giao cho Trung Quốc quản lý Hoàng Sa.” (CTV Danlambao - danlambaovn.blogspot.com) Một nhà nghiên cứu trong nước còn nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội nên không có giá trị pháp lý trong bang giao quốc tế. (BBC Tiếng Việt 21-5-2014, “Hoàn cảnh lịch sử công hàm 1958”).  Khái niệm nầy chỉ đúng với các nước tự do dân chủ.  Trong các nước tự do dân chủ, tam quyền phân lập rõ ràng.  Những quyết định của hành pháp phải được lập pháp thông qua, nhất là những hiệp ước về lãnh thổ, lãnh hải phải có sự đồng ý của quốc hội.  Tuy nhiên dưới chế độ cộng sản, cộng sản không cai trị theo luật pháp, mà cộng sản thống trị theo nghị quyết của đảng cộng sản.  Với cộng sản, tam quyền không phân lập mà tam quyền đồng quy vào trong tay đảng CS, nên CS chẳng cần đến quốc hội.  Chủ trương nầy được đưa vào điều 4 hiến pháp cộng sản mà ai cũng biết. Trung Quốc là một nước cộng sản từ năm 1949.  Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng thống trị đất nước họ như đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN).  Vì vậy, giữa hai nước cộng sản với nhau, Trung Quốc rất am hiểu truyền thống của nhau, am hiểu ngôn ngữ cộng sản với nhau.  Chính công hàm của Phạm Văn Đồng cũng viết theo ngôn ngữ cộng sản: “Thưa Đồng chí Tổng lý”.  Vì vậy, Trung Quốc hiểu công hàm Phạm Văn Đồng theo cách thống trị đất nước của nhà nước cộng sản, nghĩa là quyết định của đảng cộng sản là quyết định tối hậu, trên tất cả, chẳng cần gì phải có chuyện quốc hội phê chuẩn.  Hồ Chí Minh và đảng Lao Động (tức đảng CSVN ngày nay) ủng hộ hay không ủng hộ bản tuyên bố về hải phận của Trung Quốc, dân chúng Việt Nam không cần quan tâm.  Tuy nhiên, đối với dân chúng Việt Nam, chuyện Phạm Văn Đồng cùng Hồ Chí Minh và đảng Lao Động tán thành “quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa], …, quần đảo Nam Sa [Trường Sa], … thuộc Trung Quốc” là một hành vi bán nước và phản quốc. 6.-  LIÊN MINH QUÂN SỰ? Trước hiểm họa Trung Quốc đe dọa ngày nay, vì Việt Nam không đủ sức chống lại Trung Quốc nên có ý kiến cho rằng nhà nước CSVN cần phải liên minh với nước ngoài để chống Trung Quốc.  Ví dụ liên minh với Hoa Kỳ hay với khối ASEAN chẳng hạn. Tuy nhiên, trong cuộc họp báo tại Bắc Kinh vào ngày 25-8-2010, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng CSVN đã đưa ra chủ trương “ba không” của đảng CS và nhà nước CSVN là: Không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự và không cùng một nước khác chống lại nước thứ ba. (Xem Internet: chủ trương ba không của CSVN.) Về phía Hoa Kỳ, thì vừa qua, ngày 28-5-2014, trong bài diễn văn trình bày tại lễ tốt nghiệp Học viện Quân sự West Point, New York, tổng thống Obama đưa ra nét căn bản về chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ: “Hoa Kỳ sẽ sử dụng quân đội, đơn phương nếu cần thiết, nếu cần cho lợi ích cốt lõi của chúng ta - trong trường hợp người dân chúng ta bị đe dọa, nguồn sống chúng ta gặp nguy hiểm hay an ninh của các nước đồng minh bị thách thức ...” (BBC Tiếng Việt, 29-5-2014.)   Chủ trương sử dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích cốt lõi của nước mình không phải là chủ trương riêng của Hoa Kỳ hay của một nước nào mà là chủ trương chung của tất cả các nước trên thế giới.  Nước nào cũng vì quyền lợi của nước mình mà thôi.  Vậy thử hỏi Hoa Kỳ có quyền lợi gì khi giúp Việt Nam (90 triệu dân) nhằm đổi lại với việc Hoa Kỳ giao thương với Trung Quốc (hơn 1 tỷ dân)?  Ngoài ra, Hoa Kỳ khó trở thành đồng minh của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ vì một lý do đơn giản là CHXHCNVN là một nước cộng sản vi phạm nhân quyền một cách trầm trọng.  Hơn nữa, Hoa Kỳ mới liên minh trở lại với Phi Luật Tân để ngăn chận Trung Quốc từ xa.  Vì Phi Luật Tân ở xa, nằm phía bên kia bờ Biển Đông phân cách Phi Luật Tân với lục địa Trung Quốc, nên an toàn hơn cho Hoa Kỳ.  Vì vậy, Hoa Kỳ có cần liên minh với CSVN hay không?  Các nước trong khối ASEAN cũng không khác gì Hoa Kỳ, tập họp với nhau vì quyền lợi kinh tế của mỗi nước.  Có nước chẳng ưa thích gì Việt Nam như Cambodia, Lào vì truyến thống lâu đời. Có nước chẳng có quyền lợi gì trong vấn đề Việt Nam và Biển Đông như Miến Điện, Mã Lai.  Đó là chưa nói hầu như các nước ASEAN đều quan ngại thế lực của Trung Quốc về nhiều mặt và các nước ASEAN còn muốn Việt Nam luôn luôn ở thế yếu kém, bị động để đừng quay qua bắt nạt các nước láng giềng. Như thế, chỉ là ảo tưởng nếu nghĩ rằng nhà nước CSVN có thể liên minh với bất cứ nước nào để chống Trung Quốc.  Trung Quốc dư biết điều đó.  Cộng sản Việt Nam phải tự mình giải quyết lấy bài toán của mình do những sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng CSVN gây ra.  Nhờ Trung Quốc đánh Pháp chẳng khác gì nhờ một tên ăn cướp đuổi một kẻ ăn trộm.  Còn nhờ Trung Quốc chống Mỹ không phải là giải pháp để cứu nước mà là con đường dẫn đến mối nguy mất nước ... 7.-   PHẢI QUYẾT ĐỊNH Lịch sử cho thấy từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam luôn luôn chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, chống lại các cuộc xâm lăng của nước ngoài.  Ngược lại, từ giữa thế kỷ 20, đảng CSVN cướp được chính quyền năm 1945, đã dùng đất đai do tổ tiên để lại như một vật trao đổi nhằm mưu cầu quyền lực, mà công hàm Phạm Văn Đồng là một ví dụ điển hình. Muốn thoát khỏi tấn bi kịch hiện nay, một trong những việc đầu tiên là phải vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng, chấm dứt sự thừa nhận của Phạm Văn Đồng và đảng Lao Động tức đảng CSVN đối với tuyên bố của Trung Quốc.  Muốn vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng thì phải vô hiệu hóa chính phủ đã ký công hàm.  Phạm Văn Đồng đã chết.  Chính phủ Phạm Văn Đồng không còn.  Tuy nhiên, chính phủ thừa kế chính phủ Phạm Văn Đồng còn đó ở Hà Nội.  Vậy chỉ còn cách giải thể nhà nước cộng sản hiện nay ở Hà Nội mới có thể vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng.  Có hai cách giải thể: Thứ nhứt, đảng Cộng Sản Việt Nam hiện nay, hậu thân của đảng Lao Động trước đây, thừa kế chính thức của nhà nước do Phạm Văn Đồng làm thủ tướng, phải tìm cách tự lột xác như ve sầu lột xác (kim thiền thoát xác), mới phủ nhận những điều do nhà cầm quyền cũ ký kết.  Trên thế giới, đã có hai đảng cộng sản theo thế kim thiền thoát xác là trường hợp Cộng sản Liên Xô với Yeltsin và cộng sản Cambodia với Hun Sen. Vấn đề là những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay có vì sự sống còn của đất nước, có chịu hy sinh quyền lợi của đảng CS, có chịu giải thể đảng CS như Yeltsin đã làm ở Liên Xô, để cùng dân tộc tranh đấu bảo vệ non sông? Thứ hai, nếu những nhà lãnh đạo cộng sản vẫn cương quyết bám lấy quyền lực, cương quyết duy trì đảng CSVN, thì chỉ còn con đường duy nhứt là toàn dân Việt Nam phải tranh đấu lật đổ chế độ cộng sản.  Cuộc tranh đấu sẽ rất cam go, khó khăn, nhưng hiện nay đất nước chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, đang lâm vào thế cùng.  Cùng đường thì phải tranh đấu để biến đổi và tự cứu mình.  Vậy chỉ còn con đường duy nhứt là chấm dứt chế độ CSVN để chấm dứt công hàm Phạm Văn Đồng, đồng thời chấm dứt luôn những mật ước giữa đảng CSVN với đảng Cộng Sản Trung Quốc từ thời Hồ Chí Minh cầu viện, qua thời Thành Đô và cho đến hiện nay.  Đã đến lúc phải quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN  theo thế “ve sâu lột xác”, hoặc CSVN phải bị lật đổ mà thôi.  Nếu không, hiểm họa một thời kỳ Hán thuộc mới đang chờ đợi Việt Nam. TRẦN GIA PHỤNG (Toronto, 5-6-2014)
......

Khắp nước biểu tình chống Trung Quốc

Sáng hôm nay Chủ Nhật ngày 11 tháng 5. 2014, người dân quan tâm đến việc Trung Quốc kéo giàn khoan dầu HD 981 vào sâu trong khu đặc quyền kinh tế Việt Nam biết rằng sẽ có biểu tình tại Hà Nội và Sài Gòn để chống lại hành động xâm lược này. Được biết hàng ngàn người đã âm thầm chờ đợi để sáng hôm nay biểu lộ lòng yêu nước cũng như sự phẫn nộ qua hành động biểu tình chống Trung Quốc lần đầu tiên trên ba miền đất nước. Tại Hà Nội vào lúc 8 giờ hàng trăm người dân đã tập trung đông đảo tại công viên Lenin và cùng nhau tiến tới trước Đại sứ quán Trung Quốc. Trên tay họ là những biểu ngữ chống Trung Quốc bằng nhiều câu chữ khác nhau. Anh Nguyễn Đức Quốc, từ Lăng Cô, Huế ra Hà Nội hai ngày trước đây cho biết: “Bây giờ mọi người đang dần dần đổ về tại công viên Lenin cũng được ba bốn trăm người rồi theo thông báo thì lúc 9 giờ mới bắt đầu. Công an đứng chung quanh rất nhiều nhưng chưa thấy hàng rào. An ninh cầm máy quay phim quay người tham gia biểu tình rất đông. Đồng bào các nơi đổ vể rất đông có Đà Nẵng, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An đang tập trung lại.” Sài Gòn Biểu tình chống Trung Quốc Xâm lược Đà Nẵng bất ngờ biểu tình chống Trung Quốc xâm lược Không khí biểu tình rực lửa tại Hà Nội     Chị Nga một khuôn mặt bất đồng chính kiến nổi tiếng cho chúng tôi biết cụ thể: “Hôm nay người dân Việt Nam có xuống đường để phản đối Trung Quốc xâm lược trước cửa Đại sứ quán Trung Quốc. Lực lượng an ninh mật vụ cùng lực lượng dư luận viên từng đàn áp các cuộc biểu tình trước đây cũng có mặt. Hôm nay được huy động thêm bộ đội thanh niên sinh viên cầm biểu ngữ cờ đỏ sao vàng để chống Trung Quốc.” Không riêng tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Sài gòn, thành phố tiêu biểu của miền trung là Đà Nẵng cũng có biểu tình chống Trung Quốc, Anh Nguyễn Văn Thạnh có mặt từ sớm tại công viên 2 tháng 9 cho biết: “Hôm nay chắc cũng trên trăm người. Anh chị em đến thể hiện chính kiến củ mình đố với hành vi xâm lược của Trung Quốc có rất nhiều khẩu hiệu và an ninh cũng như lực lượng chức năng không làm khó dễ gì anh em họ chỉ thực hiện chức năng của họ. Bây giờ sau khi làm lễ các anh linh liệt sĩ anh em sẽ tập trung tuần hành đến Hội đồng Nhân dân thành phố.”   Ở Đà Nẵng không biết chắc chắn số lượng người biểu tình là bao nhiêu nhưng tại Thp.HCM thì người ta đoán chừng con số có thể lên tới it nhất hai ngàn người sẽ có mặt tại Nhà Hát lớn thành phố và Nhà văn hóa Thanh Niên gần khu vực Hồ Con Rùa. Tại Nhà hát lớn thành phố từ 8 giờ đã có vài chục người tập trung và 30 phút sau đã lên đến vài trăm người. Có một trở ngại cho người biểu tình giống như tại Hà Nội trước đây đã làm.  Đó là một dàn nhạc đã được mang tới trước nhà hát thành phố.   Không biết đây là sự sắp đặt hay chỉ vô tình nhưng ông Lê Công Giàu một thành viên trong nhóm người kêu gọi biểu tình cho biết: “Bây giờ đang tập họp trước nhà hát lớn nhưng chưa đông lắm chỉ vài trăm người. Có một dàn nhạc trước nhà hát theo tôi nghĩ thì nó vẫn chơi hàng tuần lát nữa mình sẽ nói với họ. Tôi nghĩ lần này nhà nước sẽ không cản trở đâu.” Tuy nhiên khác với sự yên ắng tại các nơi, nhà thờ Dòng Chúa Cứu thế không được tự do tập trung người biểu tình như những khu vực khác. Lúc 8 giờ một số an ninh, dân phòng cùng với cảnh sát giao thông đã bao vây DCCT. Những khuôn mặt trước đây từng đàn áp dân oan cũng có mặt như muốn cảnh cáo những người biểu tình sáng nay. Chị Trần Ngọc Anh, một trong hàng chục dân oan chuẩn bị tham gia biểu tình cho biết:   “Đúng rồi đang bị bao vây và bây giờ bắt đầu xuất phát. Chúng nó bao vây thì kệ nó mình cứ ra chứ biết sao bây giờ? Những khuôn mặt mà chúng tôi thường bị cưỡng chế bắt lên xe gặp tụi tôi biết chứ. Chúng tôi là dân oan chúng tôi biết tụi nó chứ.” Bùng nổ Đến 9 giờ 30 sáng tại Hà Nội người biểu tình tập trung rất đông đảo con số đã lên đến hơn hai ngàn người.   Những khuôn mặt từng biểu tình chống Trung Quốc trước đây gần như đầy đủ. Có rất nhiều an ninh, dư luận viên, dân phòng trà trộn vào nhưng tất cả đều hướng về Đại sứ quán Trung Quốc để tỏ thái độ chống đối sự xâm lược của Bắc Kinh và không có sự cố đáng tiếc nào xảy ra trong đoàn người biểu tình. Blogger Khúc Thừa Sơn cho biết: Từ chuyện giàn khoan HD 981 của Trung Quốc xâm phạm biển Đông thì người dân Việt Nam đều xuống đường để chống đối. Không những tại Hà nội mà người dân cả nước đều cùng chung một tiếng nói. Chưa bao giờ thấy người dân Việt Nam đoàn kết một lòng như thế này. Mọi người đang diễu hành trên đường rất là khí thế tập trung đầy đủ các nhân sĩ trí thức đủ mọi thành phần. Hình ảnh cho thấy hàng trăm dân phòng đứng sau những hàng rào dã chiến mang băng đỏ đứng nhìn nhưng không có một sự cố nào xảy ra.   Nhà báo tự do JB. Nguyễn Hữu Vinh ghi nhận: Đoàn biểu tình đã từ sứ quán Trung Quốc ra đến bờ hồ. Khí thế người dân hết sức hừng hực và mạnh mẽ. Khá nhiều người không thể đếm hết được nhưng tôi nghĩ phải hơn nghìn người. Hôm nay công an khá mềm mại hòa nhã không đến nỗi làm những trò bẩn như các cuộc biểu tình trước đây. Tại Đà Nẵng do con số người tham gia biểu tình ít ỏi hơn và không khí biểu tình cũng êm dịu hơn so với Hà Nội và ThP-HCM. Hơn trăm người đã giải tán vào lúc 10 giờ sáng sau khi tuần hành tới UBND thành phố. Không có ghi nhận rắc rối nào xảy ra. Anh Nguyễn Văn Thạnh cho biết: Tình hình phản đối đã xong bây giờ đã giải tán rồi ạ. Tuy nhiên nhìn chung cuộc biểu tình lớn và đa dạng, quan trọng nhất đã diễn ra tại thành phố HCM. Lúc 9 giờ 30 sáng nhà thơ Đỗ Trung Quân thuật lại: Sáng nay rất nhiều đoàn, do đó ai nhập vào đoàn nào thì chỉ biết đoàn đó. Đoàn của chúng tôi vừa mới ra Lãnh sự quán Trung Quốc xong và một nhóm khác rẽ ra. Bây giờ tôi thấy một nhóm lớn tập trung rất đông tại Nhà hát thành phố. Thực ra tình hình cài răng lược đã xảy ra. Tôi cho là khí thế hừng hực và một điều đáng ghi nhận là lực lượng an ninh giữ trật tự khá tốt cho đoàn biểu tình. Hai nữa họ không phá sóng điện thoại như mọi lần ở khu vực nhạy cảm và cũng chưa xảy ra va chạm gì cho tới giờ này. Hiện tại tôi đang đứng trước nhà hát thành phố và tôi cho rằng người tham dự biểu tình hôm nay có thể hơn ba ngàn người. Nhóm biểu tình "quốc doanh"!   Trước nhà hát lớn thành phố nơi một nhóm nhân sĩ tổ chức biểu tình đã có một sự cố nhỏ đó là sự không đồng thuận giữa ban tổ chức cuộc biểu tình và Thành đoàn. Theo lời kể lại của ông Huỳnh Kim Báu thì có sự phá rối âm thanh khi ông Huỳnh Tấm Mẫm phát biểu. Cuộc biểu tình tại Nhà hát lớn được Thành đoàn cho một số rất lớn thanh niên tham gia nhưng các phát biểu của họ làm người dân phẫn nộ. Các ngôn từ như “Việt Nam muốn giữ hòa hiếu với Trung Quốc” hay “Việt Nam luôn kiểm chế”, “người dân đứng sau chính phủ” hay “sống và làm việc theo pháp luật”…đã bị la hét chống đối và cuộc biểu tình đôi lúc tưởng có thể vỡ ra nhưng cuối cùng không có gì đáng tiếc xảy ra.   Ông Huỳnh Kim Báu một thành viên tổ chức thuật lại sự việc này:   Bọn quốc doanh, cái đoàn thanh niên nó cướp diễn đàn nó đem khẩu hiệu của nó ra kêu gọi “bình tĩnh, hòa khí” tùm lum hết thì tụi anh chiếm lại diễn đàn để hô đúng khẩu hiệu của tụi anh. Cái thứ hai là hai mươi tổ chức xã hội dân sự tại số 4 Duy Tân thì lực lượng khoảng 2 ngàn người còn lực lượng bên này tổ chức thành đoàn thì khoảng 1.000 người. Bây giờ anh đang tham gia cuộc biểu tình của 3 ngàn người của quần chúng nhân dân tự phát đang đi trên đường Võ Thị Sáu dự kiến sẽ kéo đến Lãnh sự quán Trung Quốc nhưng chắc chắn sẽ bị nó ngăn. Ông Huỳnh Tấn Mẫm, người có phát biểu trước Nhà Hát lớn hôm nay thuật lại: Thấy rõ ràng là họ muốn phá nhưng phá không được. Thành đoàn thì nó không phối hợp nhưng nó có mặt nó cố ý phá. Không biết từ phía công an hay phía Thành đoàn nhưng rõ ràng là vào giờ chót thì nó lại có phá rối đối với một số anh em phát biểu, có sự giằng co chỗ đó. Mình thấy khí thế quần chúng rất là dữ dội, nhìn chung rất tốt, khí thế quần chúng đang lên quyết tâm phản đối Trung Quốc rất mạnh mẽ. Lúc 10 giờ 30 hơn năm ngàn người đã tập trung biểu tình tại nhiều địa điểm của thành phố HCM. Từng đoàn người kéo ngang Lãnh sự quán Trung Quốc, Nhà văn hóa Thanh Niên ở số 4 Duy Tân và trên các con đường như Võ Thị Sáu, Đồng Khởi cùng vài con đường khác cho thấy khí thế của người dân đã bùng dậy không còn bị kềm chế như trước đây. Trong tất cả các đoàn biểu tình đều có an ninh và thành đoàn thanh niên trà trộn cái răng lược. Người biểu tình đều biết nhưng không cần chú ý và không gây đụng chạm. Những biểu ngữ của nhà nước ghi các dòng chữ như: “Biểu tình bằng lòng yêu nước, không lợi dụng xuyên tạc và kích động bạo lực” chen với một rừng biểu ngữ cầm tay tuy nhỏ bé nhưng mạnh mẽ của nhân dân và các tổ chức dân sự.   Từ Hà Nội Luật sư Hà Huy Sơn có mặt trong đoàn biểu tình cho biết nhận xét của ông: Trước hết cuộc biểu tình này là thành công và theo quan sát của tôi thì cuộc biểu tình này được nhà nước ủng hộ. Tôi cho rằng đây là dịp thức tỉnh cái nhận thức của người dân vể vấn đề chủ quyền cũng như bày tỏ quan điểm trước các vấn đề xã hội của đất nước. Con số người dân tham gia biểu tình vượt trội thành phần nhà nước tại thành phố HCM đã làm các cuộc biểu tình mang một ý nghĩa rất lớn. Những nhân vật bất đồng chính kiến tham dự biểu tình nói với đài Á Châu Tự do họ tin rằng nhân dân sẽ thức tỉnh trước dã tâm thôn tính Biển Đông của Trung Quốc sau những cuộc biểu tình đầy ý nghĩa của ngày hôm nay. Nguồn: rfa.org Hình Internet tổng hợp:   Người biểu tình tại Hà Nội căng tấm băng rôn: “Thủ tướng Đức chỉ cho Tập cận Bình bản đồ TQ không có Hoàng sa Trướng sa” Khu vực chợ Bến Thành Khu vực nhà thờ Đức Bà Hai hình ảnh biểu tình trái ngược Đây là cuộc biểu tình quốc doanh để chụp hình  đăng báo của nhà cầm quyền tại Sài Gòn:  
......

Chúng ta đương mất nước từng phần vào tay giới cầm quyền Trung Quốc

TQ tuồn đủ mọi hàng hóa rẻ tiền vào lũng đoạn thị trường nước ta, bóp nghẹt mọi sản phẩm của ta; họ thực hiện mọi thủ đoạn thâu tóm kinh tế nước ta đồng thời phái thương nhân vào phá hoại kinh tế của ta; về chính trị, họ cũng chi phối phía ta; về quân sự, họ không ngừng lấn, cướp biển đảo của ta, bắt tàu cá, tịch thu tài sản, đánh thuyền viên, đâm hỏng tàu, bắn ngư dân, phá mọi hoạt động của ta trong thềm lục địa của mình, báo chí của họ luôn đe dọa dùng vũ lực với ta. Mọi sự việc nêu trên, những ai quan tâm theo dõi đều đã biết cả.   Tình hình còn nguy hiểm và bức xúc hơn là chúng ta đương mất nước từng phần vào tay những nhà cầm quyền TQ, và sẽ mất nữa:   Trước đây họ đã mua được hàng ngàn ha rừng biên giới, một đoạn bãi biển Đà Nẵng, người Việt Nam không ai vào được. Thế là mất chủ quyền, cũng là mất một phần đất nước vào tay TQ. Vài năm gần đây, họ đổ tiền vào đầu tư bất động sản, địa ốc, những nơi ấy họ đã xây nhà hay chưa cũng là lãnh địa của họ rồi.   Họ chi 40 triệu đôla mua hơn 6 triệu cổ phiếu của Công ty Vinacafe Biên Hòa, trở thành cổ đông lớn thứ 2 của công ty. Họ tăng cường mua cổ phần của nhiều công ty nước ta, đến một lúc họ mua được 51% cổ phần, sẽ biến thành công ty của TQ, những mảnh đất mà các công ty này tọa lạc sẽ nghiễm nhiên trở thành đất của TQ. Tập đoàn Yulun, Giang Tô xây dựng nhà máy sản xuất sợi, dệt, nhuộm tại Vụ Bản, Nam Định chiếm 80.000 m2 đất. Lấy Tập đoàn dệt may Việt Nam làm bình phong, TQ dự kiến xây dựng nhà máy dệt tại huyện Nghĩa Hưng chiếm diện tích khoảng 1.500 ha.   Theo một người dân Kỳ Anh nói: “Người TQ hầu như đã làm chủ thức tế huyện Kỳ Anh”. Họ xây dựng tường cao tốc dọc phía Đông đường quốc lộ suốt từ Kỳ Anh qua Cẩm Xuyên đến chân Đèo Ngang, phía trong bức tường ra biển, họ là gì trong đó không ai biết được. Họ thuê cảng Cửa Việt (Quảng Trị). Họ được Đài Loan nhượng dự án khu kinh tế Formosa bao gồm cả cảng Vũng Áng chiếm một diện tích rất rộng, riêng cảng là 3.300 ha. Cảng Vũng Áng là điểm cực kỳ xung yếu, nó là yết hầu của miền Trung, TQ làm chủ, khi họ trở mặt, họ có thể khống chế đường giao thông của ta cả trên bộ lẫn trên biển, chia cắt nước ta làm 2 phần. Cửa Việt và Vũng Áng, họ cấm người ra vào, có thể họ đương xây dựng thành căn cứ quân sự. Tóm lại, những nơi mà TQ thuê, mua, đầu tư đã trở thành lãnh địa của TQ. Người Việt Nam, công an, chính quyền địa phương không được vào, ngay cả công trường nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân do TQ thầu đương xây dựng, phó Giám đốc công an tỉnh Bình Thuận cũng không được vào. Thế là tất cả những nơi nói trên, ta mất chủ quyền, chẳng phải là mất nước từng phần là gì? Những nơi TQ thuê, mua, đầu tư họ đều đưa người của họ sang làm. TQ trúng thầu 90% công trình trọng điểm của nước ta. Bằng nhiều thủ đoạn, bất chấp luật pháp của nước ta, họ đưa ồ ạt lao động phổ thông vào. Thế là họ vừa thực hiện được mục đích di dân vừa bố trí được đội quân thứ 5 hàng vạn người rải khắp nước ta. Rất nhiều người trong số họ lấy vợ Việt Nam, sau thời hạn 50, 70 năm sẽ có hàng trăm “làng TQ” trong nước ta. Cứ đà này, sớm muộn nước ta sẽ trở thành “thuộc quốc” hoặc “thuộc địa kiểu mới” của chủ nghĩa bành trướng, bá quyền Đại Hán! Vì đâu nên nỗi? Phải nói thẳng ra đây là trách nhiệm của các cấp nắm quyền của ta từ dưới lên trên.   Hoặc do mê muội bởi “16 chữ, 4 tốt”, “cùng ý thức hệ”, mà không thấy được giới cầm quyền TQ miệng thì nói “hữu nghị”, nhưng hành động thì ác độc, đầu óc thì thâm hiểm, nên tạo cho họ mọi sự dễ dàng. Làm gì có “cùng chung ý thức hệ”? Từ khi Đặng Tiểu Bình nói: “Mèo trắng, mèo đen, mèo nào bắt được chuột là mèo tốt” thì họ đã đi theo con đường TBCN rồi, dù vẫn nêu xây dựng CNXH đặc sắc TQ. Còn ở nước ta, tuy tên nước vẫn là XHCN, nhưng trong nội dung có gì là XHCN đâu!? Hoặc do không tiếp thụ được ý chí quật cường của cha ông, nên tự ty, tự cho mình là nước nhỏ, quân yếu, nhân nhượng họ cho yên, vẫn giữ được quyền, được ghế. Hoặc quá sợ họ đánh, nên họ đề xuất gì, yêu cầu gì đều chấp nhận; họ sai trái, vi phạm luật pháp của ta, không dám xử lý. Hoặc có vị “ăn xôi chùa ngọng miệng”, quyền ký thì ký, quyền bỏ qua thì bỏ qua, để mặc họ muốn gì cũng được. Hoặc chỉ thấy tiền, cho thuê, bán, cho đầu tư, cấp dự án, thì được tiền, tiền cho ngân sách đồng thời cho cả cá nhân, cho nhóm lợi ích, bất chấp sự nguy hại cho đất nước, đúng là “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Phải làm gì? 1. Nhân dân kêu gọi những ai trong bộ máy cầm quyền còn tâm huyết với dân tộc, với Tổ quốc hãy đấu tranh thực hiện dân chủ, quay lại với dân, dựa vào sức mạnh của dân ngăn chặn mối nguy cho đất nước. 2. Các tổ chức, các lực lượng yêu nước liên kết nhau thành sức mạnh đấu tranh quyết liệt loại bỏ những hình bóng của loại Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, ủng hộ người có thực đức, thực tài xuất hiện cùng nhau giữ độc lập, tự chủ và đưa đất nước tiến lên. Xây dựng tuyến đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội là chuốc họa.   Tôi rất tâm dắc với suy nghĩ của bạn Hoàng Mai về con đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội, cho rằng: “Mục đích trước mắt của tuyến đường này là để hàng hóa TQ xâm nhập Việt Nam một cách nhanh hơn, rẻ hơn, qua đó nhằm bóp chết nền sản xuất của Việt Nam, cũng là để vơ vết tài nguyên của Việt Nam một cách nhanh hơn…”. Tôi nghĩ, đến một thời cơ nào đó, TQ xuất quân đánh ta thì chính con đường cao tốc này cho phép bộ đội cơ giới của họ tiến rất nhanh đến Hà Nội. Từ xưa đến nay, các thế hệ cầm quyền TQ chưa bao giờ từ bỏ ý đồ thôn tính nước ta và tiến xuống bá chiếm Đông Nam Á. Đồng ý với bạn Hoàng Mai, tôi cho rằng con đường cao tốc Lào Cai - Hà Nội lợi cho ta thì ít, lợi cho TQ thì nhiều. Trong khi tài chính của ta đương rất khó khăn, nợ nước ngoài đã chồng chất mà vay để chi một khoản tiền khổng lồ 896 triệu đôla cho con đường cao tốc này thì thật là phi lý. Là con nợ của TQ, sau này không chỉ phải trả bằng tiền mà còn phải trả họ bằng nhiều thứ khác theo đòi hỏi của họ. N.T.V http://xuandienhannom.blogspot.de/2014/04/nguyen-trong-vinh-chung-ta-ang...
......

Gạc Ma: 14 tháng 3- Ngày của nỗi đau và uất hận!

Lời giới thiệu: Trong bài thơ nhan đề: “THÁNG BA, NGÀY 14, VIỆT NAM ƠI!” hướng về các chiến sĩ đã gửi thân xác lại vùng biển Trường Sa trong trận chiến Gạc Ma, Giáo sư Hà Văn Thịnh đã uất nghẹn hỏi rằng “Sao tôi chẳng được quyền kể về các anh? (Và nếu) Lỡ gọi tên (các anh)  có thể là tù tội”. Dưới tựa đề “14 tháng 3- Ngày của nỗi đau và uất hận!” để giới thiệu cho bài thơ vừa kể, nhà văn Nguyễn Quang Lập đã viết trên trang blog ngày 13/3/2012 của mình như sau:  “Trong một cuộc thẩm vấn người biểu tình chống Trung Quốc, một sĩ quan công an đã hỏi Gạc Ma là cái gì? Nếu anh ta hỏi Gạc Ma ở đâu, chuyện gì xảy ra ở đó thì hảy còn dễ hiểu, đằng này anh ta lại hỏi Gạc Ma là cái gì? Thật là kinh khủng. Đó là hậu quả cuả những nổ lực thảm hại đánh đu với 16 chữ vàng. Sự ngu tín hóa toàn dân đã dẫn đến những hậu quả đau lòng và nhục nhã. Đảm bảo cho đến bây giờ vẫn có nhiều người như sĩ quan công an kia không biết Gạc Ma là cái gì, như một ông bí thư chi bộ vẫn đinh ninh Hoàng Sa chỉ là bãi chim ỉa. Hôm nay không một tờ báo nào trên tất cả các báo lề phải nhắc đến sự kiện Gạc Ma 14/3/1988. Đó cũng là một nỗi đau và nhục nhã. Nực cười thay, sự im lặng khốn cùng ấy được đánh tráo bằng hai chữ hữu nghị! “ DĐ/CTM xin trân trọng gửi đến quý độc giả bài thơ “THÁNG BA, NGÀY 14, VIỆT NAM ƠI!” của giáo sư Hà Văn Thịnh. THÁNG BA, NGÀY 14, VIỆT NAM ƠI! Hà Văn Thịnh Tháng Ba Mùa Xuân chở mây ra khơi xa Nước xanh như màu mây ấy Biển thét gào nỗi đau sống dậy: 64 linh hồn uất nghẹn Gạc Ma! Tháng Ba Tự cổ chí kim chưa thấy bao giờ: 64 người con hy sinh vì Tổ Quốc Chết cho Nước khỏi sống quỳ sống nhục Bị biến thành ma!? Tháng ba Sao tôi chẳng được quyền kể về các anh? Lỡ gọi tên có thể là tù tội Anh dũng hiên ngang bị vùi trong bóng tối Việt Nam ơi, nhức mỏi đến bao giờ? Tháng Ba Nỗi đau Ngày Mười Bốn Tháng Ba Năm có hai số tận cùng Phát Phát (1988) Các anh chết để cho ai phát tài, phát nhát? Phát cả tai ương – dân tộc đoạ đày Phát cả nỗi căm hờn thành hữu hảo chua cay… Tháng Ba Xương cũng hoá thành bùn héo rũ những vòng hoa Thành mười sáu chữ vàng nhức buốt Lũ giặc Tàu nghênh ngang cùng lũ chuột Rứt rỉa đau thương bày tiệc trận cười! Tháng Ba Chẳng có cái chết nào có thể hoá phôi pha Dẫu bạo ngược cường quyền muốn thế Dẫu cuộc đời ngập chìm dâu bể ViệtNamơi, không khiếp sợ, bao giờ! Tháng Ba Chúng muốn ta quỳ mỏi gối xin cho Để Hoàng Sa, Trường Sa máu cuộn cùng nước mắt Các anh đã hy sinh để hôm nay, sự thật Tổ Quốc biết những gì CÒN – MẤT Từ những ngọn sóng xanh bầm đỏ căm thù! Tháng Ba Nỗi đau ngày đuổi tận mơ đêm Cả dân tộc nhớ thương bằng tiếng thĩ thầm Khen kẻ ngoài là chê bên trong dở Nhắc lại ngày xưa là chê thời nay đó Thuỷ Hoàng ư? Khép nép tẽn tò… Tháng Ba Tôi viết bài ngợi ca người Nhật Tsunami! Chẳng thèm rơi nước mắt Bonsai như nửa nụ cười… Có kẻ chỉnh nhắc rằng, khen ít lại, vừa thôi! Tháng Ba Ngày mười bốn, mỗi năm Người Việt nào cũng khóc Khóc bởi 24 năm qua không biết chỗ Các Anh nằm Khóc bởi biết rằng trong chốn mù tăm Các anh hiểu hàng triệu người vẫn nhớ! Tháng Ba, Không thể gọi là thơ những câu chữ ghép vần Nhưng tiếng trái tim của muôn người là sự thật Lịch sử sẽ ghi những dòng tươi sáng nhất Tên các anh Mãi mãi rạng ngời Trong bất khuất Lạc Hồng Sống mãi, Việt Nam ơi!… Huế, tháng Ba, 2012. Theo BVN.http://bolapquechoa.blogspot.ca/2012/03/14-thang-3-ngay-cua-noi-au-va-ua...
......

Tuyên bố Tưởng niệm các Chiến sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc, Tự do cho người dân

40 năm ngày Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa (19/1/1974), 35 năm ngày Trung Quốc xâm lược biên giới Việt Nam (17/2/1979) với biết bao chiến sĩ và đồng bào ngã xuống. Máu xương và anh linh những người con đất Việt vẫn còn đấy… Thế mà cũng những tháng năm ấy, máu xương và anh linh những người con đất Việt đã bị cố tình quên lãng. Không một lễ tưởng niệm nào được tổ chức chính thức để tri ân những chiến sĩ đã bỏ mình vì tổ quốc. Thậm chí mọi sự tưởng nhớ do nhân dân thực hiện còn bị nhà cầm quyền vùi dập. Hành động phá đám sai khiến công an giả dạng cưa đá và phóng loa của CAND ồn ào, gây bụi mù mịt, và cho người nhảy nhót trơ trẽn theo điệu nhạc Trung Quốc dưới tượng đài Lý Thái Tổ linh thiêng đã lập công nơi chốn Thăng Long ngàn năm văn vật này là một điều không thể hiểu và không thể giải thích nổi, nhất là với một quốc gia vẫn còn nắm trong tay chủ quyền và có chân trong Hội Đồng Nhân Quyền LHQ. Tưởng niệm 26 năm ngày Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Trường Sa (14/3/1988) cũng sắp đến. Liệu chúng ta sẽ tiếp tục bị tước đoạt như những kẻ nô lệ chỉ vì một phát lịnh của đường dây nóng? Không! Vì tương lai và sự trường tồn của dân tộc, chúng tôi thiết nghĩ chẳng cần truy tầm ai là đạo diễn của thứ kịch bản này, mà phải đủ thấy rằng chính họ là lý do gây lên trong chúng tôi không chỉ những tiếng than, mà còn khiến chúng tôi phải thức tỉnh kết đoàn và ký tên dưới đây. Chúng tôi muốn được xem đây là tiếng nói của mọi thành phần người dân mạnh dạn tuyên bố: 1. Quyền tập họp dâng hoa, thắp nến tưởng niệm một biến cố lịch sử trọng đại của dân tộc vốn mang thuộc tính tâm linh đạo đức, và nhân văn lịch sử nước nhà, không chấp nhận để nước ngoài can thiệp.   2. Không thể quên: “19/1 Hoàng Sa, 17/2 biên giới Việt Nam, 14/3 Trường Sa” là những mốc điểm bi hùng lịch sử, không một ai có quyền xóa nhòa, chôn vùi hoặc bôi bác. 74 anh hùng chiến sĩ VNCH đã lính-chết-theo-tàu trong cuộc hải chiến 19/1 Hoàng Sa để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ phải được vinh danh. 60 ngàn quân dân bộ đội đã bỏ mình trong Ngày Biên giới Việt Nam không thể bị lãng quên. 64 hải quân đã hy sinh tức tưởi trên đảo Gạc Ma, Trường Sa phải được Tổ quốc Việt Nam công nhận ghi ơn. 3. Quyền thiêng liêng tưởng niệm của một sự kiện lịch sử dân tộc càng trở nên có ý nghĩa và danh dự bổn phận, khi đất nước đang bị đe dọa từng ngày bởi tham vọng bá chủ bá quyền Trung Cộng. 4. Vinh danh, tưởng nhớ, tri ân phải được chính thức ban hành và tổ chức trọng thể. 5. Mọi hành vi cấm cản, sách nhiễu với những người mong muốn thực hiện các nghi thức tưởng niệm phải được coi là một thái độ thách thức lòng tự trọng và lương tri người Việt Nam muốn đảm bảo sự vẹn toàn độc lập của đất nước. 6. Quyền bày tỏ cũng như các quyền tối thượng con người của người dân phải được tôn trọng. Xin được gởi những tín hiệu SOS Việt Nam đến với những trái tim tử tế ngợi ca Tự Do và những nhà tù lương tâm chính trị đã đóng cửa vĩnh viễn trên thế giới. Làm ơn ghé mắt xem cho rõ để cùng chuyển tải, chia sẻ hoặc trắc ẩn về những bần cùng và rách nát nhân quyền của Việt Nam. Hãy nắm chặt tay nhau trong một ngày tự quyết quyền tưởng niệm toàn quốc và toàn cầu. Xin khẳng định ngày 14/3 cũng là ngày tưởng niệm linh thiêng các chiến sĩ đã hy sinh vì tổ quốc. Không một thế lực đen tối nào ngăn được lòng yêu nước của chúng ta. Tổ quốc Việt Nam muôn năm! Trân trọng kính mời quý đồng bào tham gia ký tên và Danlambao sẽ cập nhật danh sách. Mỗi chữ ký tự nó sẽ là chất xúc tác động viên cho chính mình và bạn bè. Xin ủng hộ bằng cách ký tên ở địa chỉ email này: Congdantudotuongniem@gmail.com Danh sách ký tên đầu tiên theo thứ tự abc (và sẽ cập nhật theo thứ tự thời gian sau đó): 1.     Thi Vũ Võ Văn Ái, nhà thơ & nhà đấu tranh dân chủ (Pháp) 2.     Hòa thượng Thích Nhật Ban, GHPGVNTN (Đồng Nai, Việt Nam) 3.     Trịnh Ngọc Bằng, về hưu (Irving, Texas, Hoa Kỳ) 4.     Nguyễn Mạnh Bảo, giáo sư  (Cao Đài Tây Ninh, Việt Nam) 5.     Nguyễn Ngọc Bích, giáo sư (Springfield, Virginia, Hoa Kỳ) 6.     Nguyễn Thị Thanh Bình , nhà văn & nhà thơ (Washington DC, Hoa Kỳ) 7.     Nguyễn Minh Cần, nhà báo (Moscow, Nga) 8.     Bùi Chát, nhà thơ (Sài gòn, Việt Nam) 9.     Bùi Thị Dung, về hưu (Irving, Texas, Hoa Kỳ) 10.   Lâm Đăng Châu, kỹ sư (Hannover, Đức) 11.   Ngô Cao Chi, giáo sư (Tampa, Florida, Hoa Kỳ) 12.   Nguyễn Bảy Giáp Dần (Sài Gòn, Việt Nam) 13.   Ca Dao, nhà báo (Paris, Pháp) 14.   Phạm Chí Dũng, nhà văn, nhà báo, tiến sĩ kinh tế (Sài Gòn, Việt Nam) 15.   Lê Khánh Duy (Quảng Nam, Việt Nam) 16.   Đào Tăng Dực, luật sư (Sydney, Úc) 17.   Nguyễn Văn Đài, luật sư (Hà Nội, Việt Nam) 18.   Lê Diễn Đức, nhà báo (Houston, Texas, Hoa Kỳ) 19.   Trần Đông Đức, nhà báo (Pennsylvania, Hoa Kỳ) 20.   Trương Minh Đức, ký giả tự do (Bình Dương, Đồng Nai, Việt Nam) 21.   Linh mục Nguyễn Hữu Giải (TGP Huế, Việt Nam) 22.   Nguyễn Thanh Giang, giáo sư (Hà Nội, Việt Nam) 23.   Nguyễn Thanh Hà, kỹ sư (California, Hoa Kỳ) 24.   Đỗ Nam Hải, kỹ sư (Sài Gòn, Việt Nam) 25.   Ni sư Như Hải (Chicago, Illinois, Hoa Kỳ) 26.   Trịnh Đình Hồng Hạnh, kỹ sư (California, Hoa Kỳ) 27.   Vũ Thư Hiên, nhà văn (Pháp) 28.   Trần Thanh Hiệp, luật sư (Pháp) 29.   Huỳnh Trọng Hiếu, blogger (Quảng Nam, Việt Nam) 30.   Phạm Hoàng, nhà báo (CHLB Đức) 31.   Đoàn Viết Hoạt, giáo sư (Virginia, Hoa Kỳ) 32.   Huỳnh Thị Thu Hồng (Quảng Nam, Việt Nam) 33.    Hoàng Vi Kha, nhà thơ (Virginia, Hoa Kỳ) 34.   Thượng tọa Thích Thiện Khanh, GHPGVNTN (Phú Yên, Việt Nam) 35.   Đặng Đình Khiết, giáo sư (Virginia, Hoa Kỳ) 36.   Linh mục Phan Văn Lợi (TGP Huế, Việt Nam) 37.   Cao Xuân Lý , nhà văn (Sydney,  Australia) 38.   Trần Thị Ngọc Minh (mẹ của Đỗ Thị Minh Hạnh, Lâm Đồng, Việt Nam) 39.   Thượng tọa Thích Thiện Minh, GHPGVNTN (Sài Gòn, Việt Nam) 40.   Phan Nhật Nam, nhà văn (California, Hoa Kỳ) 41.   Nguyễn Thị Ánh Ngân (Quảng Nam, Việt Nam) 42.   Phan Ngữ,  bác sĩ  (Đà Nẵng, Việt Nam) 43.   Bùi Thị Kim Phượng (Đồng Tháp, Việt Nam) 44.   Đặng Phùng Quân, giáo sư (Houston, Texas, Hoa Kỳ) 45.   Nguyễn Quốc Quân, bác sĩ, đại diện Tổ Chức Tập Hợp Nền Dân Chủ (Falls Church, Virginia, Hoa Kỳ) 46.   Nguyễn Đan Quế, bác sĩ, chủ tịch Cao Trào Nhân Bản (Sài Gòn, Việt Nam) 47.   Bùi Minh Quốc, nhà thơ (Đà Lạt, Việt Nam) 48.   Bắc Phong, nhà thơ (Toronto, Gia Nã Đại) 49.   Lê Huy Phong, ca nhạc sĩ đấu tranh (San Jose, California, Hoa Kỳ) 50.   Thượng tọa Thích Không Tánh (Huế, Việt Nam) 51.   Liêu Thái, nhà thơ (Quảng Nam, Việt Nam) 52.   Linh mục Antôn Lê Ngọc Thanh (DCCT Sài Gòn, Việt Nam) 53.   Trần Quang Thành, nhà báo (Tiệp Khắc) 54.   Trần Ngọc Thành, kỹ sư (Warsaw, Ba Lan) 55.   Uyên Thao, nhà văn, nhà xuất bản Tiếng Quê Hương (Virginia, Hoa Kỳ) 56.   Huỳnh Phương Thảo (Quảng Nam, Việt Nam) 57.   Linh mục Đinh Hữu Thoại (DCCT Sài Gòn, Việt Nam) 58.   Trần thị Thức (Virginia, Hoa Kỳ) 59.   Nguyễn Đăng Thường, nhà thơ (London, Anh) 60.   Hòa thượng Thích Thanh Tịnh, GHPGVNTN (Vũng Tàu, Việt Nam) 61.   Nguyễn Thanh Trang, giáo sư (San Diego, California, Hoa Kỳ) 62.   Đỗ Ngọc Xuân Trầm (Áo) 63.   Nguyễn Mậu Trinh, dược sĩ (Gaithersburg, Maryland, Hoa Kỳ) 64.   Huỳnh Anh Trí (Sài Gòn, Việt Nam) 65.   Huỳnh Anh Tú (Sài Gòn, Việt Nam) 66.   Nguyễn Quốc Tuấn, kỹ sư (Florida, Hoa Kỳ) 67.   Hàn Song Tường, nhà thơ, (Houston, Texas, Hoa Kỳ 68.   Đoàn Việt Trung, kỹ sư (Melbourne, Úc) 69.   Nguyễn Bắc Truyển, luật sư (Đồng Tháp, Việt Nam) 70.   Đỗ Ty (Lâm Đồng, Việt Nam) 71.   Nguyễn Đình Vinh, cựu sĩ quan tiền sát QLVNCH (Virginia, Hoa Kỳ) 72.   Huỳnh Khánh Vy (Quảng Nam, Việt Nam) 73.   Huỳnh Thục Vy, blogger (Quảng Nam, Việt Nam) 74.   Dương Triệu Vỹ (Ontario, Gia Nã Đại)
......

Tôn Vinh Chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Trận Gạc Ma 14-3-1988

GĐ Trung Tâm Minh Triết, Thường trực Ban Điều hành Chương Trình Minh Triết Làm Chủ Biển Đông   I- Ngày 14 tháng 3 năm 1988 đã diễn ra cuộc chiến bi hùng giữa một lực lượng nhỏ, chỉ có ba tàu vận tải với chủ yếu là công binh để bảo vệ đảo Gạc Ma, bãi đá Cô Lin và bài đá Len Đao đối địch với hơn 40 tàu chiến trang bị cả tên lửa và pháo lớn hàng 100 mm của quân xâm lược Trung quốc. Quân ta đã anh dũng chiến đấu, cũng đã gây cho phía Trung quốc thiệt hại và thương vong. Lực mỏng, tàu không phải chiến hạm, vũ khí chỉ là thứ cầm tay, nhưng tinh thần quyết tử của chiến sĩ ta thật oai hùng. Những gương hy sinh cao cả của thuyền trưởng Vũ Phi Từ, Lữ phó Trần Đức Thông, của Thiếu úy Trần văn Phương, trước khi ngã xuống còn hô vang ”Thà hy sinh không chịu mất đảo, hãy để máu mình tô thắm truyền thống Hải quân Việt Nam”... và của 61 liệt sĩ Hải quân Việt Nam anh hùng trong trận Gạc Ma, cũng như hành động dũng cảm chiến đấu, mưu trí chống lại quân Trung quốc xâm lược của các chiến sĩ bảo vệ Gac Ma, Cô Lin, Len Đao thuở ấy đã để lại mãi mãi trong lòng các thế hệ người Việt lòng nhớ thương, kính phục và biết ơn.   Gương hy sinh của họ, hành động mưu trí, dũng cảm của họ, tinh thần căm thù kẻ xâm lược của họ, đời đời sẽ là những giá trị tinh thần để nuôi dưỡng tâm hồn Việt Nam yêu nước, không hèn hạ khiếp sợ trước quân thù, luôn biết thức tĩnh, cảnh giác trước mọi mưu mô và hành vi thâm độc của quân bành trướng đại Hán, cũng như với mọi thế lực cường quyền gian ác khác. Tri ân và ghi nhớ những người con đã bỏ mình, đã chiến đấu để bảo vệ non sông Đất nước, chính là để nuôi dưỡng tâm hồn và văn hóa của người Việt. Vì thế bất cứ ai, do một lý lẽ nào, mà vô cảm quay lưng lại với lịch sử, với tiền nhân đều có tội, đáng lên án và phỉ nhổ.   II- Sự kiện Gạc Ma và những bài học không bao giờ được quên 1. Âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của Trung quốc Trung quốc là nước lớn, đang hưng phát, dù họ tuyên bố đường lối phát triển hòa bình, họ nói láng giềng tốt, bạn tốt, đối tác tốt… chớ cả tin. Họ đang khát không gian sinh tồn, và với bản chất bành trướng đại Hán, họ sẵn sàng theo đuổi những phương thức của chủ nghĩa đế quốc dẫu đã lỗi thời. Rõ ràng Việt Nam đã không rút ra được bài học từ Hoàng Sa năm 1974, nên đã không sẵn sàng đối phó được với mưu đồ của Trung quốc chiếm Gạc Ma và trước đó đối với cả chục bãi đá trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đối với Trung Quốc thì mềm nắn, rắn buông. Rõ ràng một tháng sau khi Gạc Ma đã bị chiếm, ta đã bí mật cho công binh ra xây nhà đánh dấu chủ quyền trên bãi Len Đao, Trung Quốc đem 7 chiến hạm đến vây Len Đao, nhưng không quân VN đã cho 7 máy bay ra chi viện, và chiến hạm của Trung Quốc phải rút chạy khỏi Len Đao. 2- Thế trận bảo vệ biển đảo của Việt Nam   Cha ông ta đã để lại những tư tưởng chiến lược thiên tài, thế kỷ 16 Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: Biển Đông vạn dặm dang tay giữ, Đất Việt muôn năm vững trị bình. Giữ cho được chủ quyền Biển Đảo, và khai thác được lợi thế của một quốc gia biển đảo là chiến lược sinh tử của Việt Nam. Phải tăng cường sức mạnh quân sự để bảo vệ chủ quyền Biển Đảo. Đúng. Phải khai thác lợi thế biển để xây dựng một nền kinh tế biển khá hoàn chỉnh và tầm cỡ. Đúng. Phải phát triển khoa học biển, văn hóa biển. Đúng. Nhưng còn phải coi trọng thế trận lòng dân. Không biết giáo dục tinh thần và ý chí vì chủ quyền biển đảo sẽ là sai lầm nghiêm trọng. Chỉ trên cơ sở một sức mạnh nội lực của Dân tộc về cả tinh thần và vật chất, với một nhân cách mới của người Việt Nam, một nhân cách mới của Dân tộc thật sự văn minh, dân chủ, giàu mạnh mới có tự cường để làm chủ vận mệnh của mình trên biển cả cũng như trên đất liền. Việt Nam thường nói đến phương châm kết hợp sức mạnh của dân tộc và của thời đại. Sức mạnh thời đại chính là sự liên minh, liên kết với những quốc gia, dân tộc văn minh tiến bộ, chứ không thể khư khư cúi mình phục vụ cho một thế lực cường quyền. Đối phó với hiệu ứng “bóng đè” của Trung Quốc trên biển Đông không thể không coi đoàn kết, hô ứng lẫn nhau trong ASEAN là quan trọng. 3-Coi trọng nghiền ngẫm những bài học lịch sử, cả thành công và thất bại   Vấn đề ở đây không chỉ là kể công hay luận tội, mà phải là trao lại cho thế hệ mới một năng lực nhận thức mới, những kinh nghiệm thực tiễn, những giá trị tinh thần về làm chủ, về trách nhiệm, về lòng dũng cảm, tinh thần sẵn sàng hy sinh… về cả kinh nghiệm đối phó với những tình huống chính trị phức tạp. Cho nên cách hành xử ngăn cấm tưởng niệm, nghiên cứu, bình luận, rút tỉa những bài học từ chúng ta, từ đối phương… đều là thiển cận, nếu không nói là vô trách nhiệm với Dân với Nước. Phải làm cho thế hệ trẻ biết trân trọng những giá trị, kể cả bài học sai lầm và thất bại đó sẽ là sự khôn ngoan có văn hóa và đạo đức. Cũng là sự thể hiện một phép thử về máu anh có bao nhiêu nước lã và bao nhiêu là tình dân, nghĩa nước. Dạy cho con em biết trân quý những con người cao quý, đã hy sinh chiến đấu vì Dân vì Nước, đó cũng là nuôi dưỡng một năng lượng mới, một chất lượng mới của nhân cách Việt Nam. Vấn đề không hề nhỏ tí nào. Nhân dân có lý lẽ để chê trách cũng như đòi hỏi một tầm nhìn cao hơn đối với những người đang có trọng trách với Nhân dân và Đất Nước. Ví như Đà nẵng thì chủ trương cho 1974 thanh niên cầm nến tưởng niệm sự kiện Hoàng Sa. Còn Hà Nội lại tổ chức nhảy nhót với điệu nhạc Tàu vào đúng ngày phải nhớ nghĩ đến 6 vạn đồng bào và chiến sĩ hy sinh để đánh đuổi quân cướp nước! Một cái Tâm đẹp, một cái tầm cao trí tuệ mới là đòi hỏi về cái đức cầm cân nảy mực mới của đất nước. III- Kính lạy trước anh linh 64 liệt sĩ Gạc Ma. Kính chào các chiến sĩ anh dũng chiến đấu ở Gạc Ma Không giống như nhiều năm trước. Năm nay cuộc tưởng niệm trận chiến Gạc Ma đã được Vùng Hải quân III tổ chức trang nghiêm, xúc động. Nhiều bài báo đề cập đến sự kiện bi hùng này. Tình cờ tôi gặp một chuẩn đô đốc Hải quân. Anh ấy nói, chúng cháu vẫn có nề nếp hễ đi qua vùng biển Gạc Ma là thực hiện điều lệnh Hải quân, thả hoa hướng về Gạc Ma tưởng niệm đồng đội đã hy sinh anh dũng. Chúng cháu vẫn đều đặn tổ chức thăm hỏi gia đình các liệt sĩ. Tôi nói nên quan tâm nhiều hơn đến các chiến sĩ đã chiến đấu anh dũng và trở về từ Gạc Ma. Vẫn còn những người bao năm nay vẫn chưa được xác nhận công tích, vẫn còn thất nghiệp. Chương Trình Minh Triết Làm Chủ Biển Đông nhân dịp này xin gởi đến các bạn bè gần xa, các bạn sinh viên, thanh niên, các bậc cha chú, các anh chị em có tấm lòng kính cẩn tri ân đối với những người con của Tổ quốc đã bỏ mình để bảo vệ Gạc Ma, cùng những chiến sĩ đã trở về từ Gạc Ma lời kêu gọi nghĩa tình. Hãy cùng nhau tổ chức những cuộc thăm hỏi tới các gia đình liệt sĩ và chiến sĩ Gạc Ma. Chúng tôi xin công bố danh tính theo từng tỉnh thành để bà con tiện thực hiện. Xin nhờ các báo đài tiếp tay truyền thông giúp. Lời kêu gọi này cùng danh sách liệt sĩ cũng sẽ được gởi đến các tổ chức hội đoàn ở TƯ và các địa phương có liệt sĩ. Thành kính mong có được sự hưởng ứng tốt đẹp. Hà nội ngày 5 tháng 3 năm 2014 N.K.M. ******************* Phương Danh 64 Liệt sĩ Gạc Ma 14-3-1988 (Xếp theo Tỉnh, Thành) I- Quãng Bình: 14 Liệt sĩ 1. Trần văn Quyết. Xã Quãng Thủy, H. Quãng Trạch 2. Trương Minh Phương. Xã Quãng Sơn, H Quãng Trạch 3. Hoàng văn Tùy. Xã Hải Ninh, H.Lệ Ninh 4. Võ Văn Đức. Xã Liên Thủy, H. Lệ Ninh 5. Võ Văn Từ. Xã Trường Sơn, H.Lệ Ninh 6. Trương Văn Hướng. Xã Hải Ninh, H. Lệ Ninh 7. Nguyễn Tiến Doãn. Xã Nghi Thủy, H. Lệ Ninh 8. Phạm Hữu Tý. Xã Phong Thủy, H. Lệ Ninh 9. Phạm Văn Thiêng. Xã Đông Trạch, H. Bố Trạch 10. Trần Đức Hóa. Xã Trường Sơn, H. Lệ Ninh 11. Trần Quốc Trị. Xã Đông Trạch, H. Bố Trạch. 12. Trần Văn Phương. Xã Quãng Phúc, H. Quãng Trạch 13. Nguyễn Mậu Phong. Xã Duy Ninh, H. Lệ Ninh 14. Phạm Văn Lợi. Xã Quãng Thủy, H.Quãng Trạch ** Lệ Ninh, nay đã tách trở lại là Lệ Thủy và Quãng Ninh. Xin tìm chính xác cho __________________________ II. Thái Bình: 9 Liệt sĩ 1. Nguyễn Minh Tâm. Xã Dân Chủ, H. Hưng Hà 2. Mai Văn Tuyến. Xã Tây An, H. Tiền Hải 3. Trần Văn Phong. Xã Minh Tâm, H. Kiến Xương 4. Trần Đức Thông. Xã Minh Hóa, H. Hưng Hà 5. Nguyễn Văn Phương. Xã Mê Linh, H. Đông Hưng 6. Bùi Duy Hiển. Xã Điêm Điền, H. Thái Thụy 7. Phạm Hữu Đoan. Xã Thái Phúc, H. Thái Thụy 8. Nguyễn Văn Thắng. Xã Thái Hưng, H. Thái Thụy 9. Trần văn Chức. Xã Canh Tân, H. Hưng Hà _________________________ III. Nghệ An: 9 Liệt sĩ 1. Trần Văn Minh. Đại Tân. Xã Quỳnh Long, H. Quỳnh Lưu 2. Nguyễn Tấn Nam. Xã Thường Sơn, H. Đô Lương 3. Đậu Xuân Tư. Xã Nghi Yên, H. Nghi Lộc 4. Nguyễn Văn Thành. Xã Hương Điền, H. Hương Khê 5. Phạm Huy Sơn. Xã Diễn Nguyên, H. Diễn Châu 6.Lê Bá Giang. X. Hưng Dũng. TP Vinh. 7.Phạm Văn Dương.X. Nam Kim. H Nam Đàn. 8.Hồ Văn Nuôi. X Nghi Tiên. H Nghi Lộc. 9. Vũ Đình Lương. Xã Trung Thành, H. Yên Thành ________________________________ IV. Đà Nẵng: 7 Liệt sĩ 1. Trần Tài. Tổ 12, Xã Hòa Cường 2. Phạm Văn Sửu. Tổ 7, Hòa Cường 3. Nguyễn Phú Doãn. Tổ 47, Xã Hòa Cường 4. Trương Quốc Hùng. Tổ 5, Xã Hòa Cường 5. Nguyễn Hữu Lộc. Tổ 22, Xã Hòa Cường 6. Trần Mạnh Viết. Tổ 36, Xã Bình Hiên 7. Lê Thế. Tổ 29, Xã An Trung Tây ________________________________ V. Thanh Hóa: 6 Liệt sĩ 1. Hồ Công Đệ. Xã Hải Thượng, H. Tĩnh Gia 2. Đỗ Viết Thắng. Xã Thiệu Tân, H. Đông Sơn 3. Lê Đình Thơ. Xã Hoàng Minh, H. Hoàng Hóa 4. Vũ phi Trừ. Xã Quãng Khê, H. Quãng Xương 5. Cao Xuân Minh. Xã Hoàng Quang, H. Hoàng Hóa 6. Lê Đức Hoàng. Nam Yên. Xã Hải Yến, H. Tĩnh Gia ____________________________________ VI. Hà Nam: 3 Liệt sĩ 1. Phạm Gia Thiều. Hưng Đạo, Xã Trung Đồng, H. Nam Ninh 2. Trần Đức Bảy. Phương Phượng, Xã Lệ Hòa, H. Kim Bảng 3. Nguyễn Văn Thủy. Phú Linh, Xã Phương Đình, H. Nam Ninh __________________________________ VII. Hải Phòng: 3 Liệt sĩ 1. Bùi Bá Kiên. Xã Vân Phong, H. Cát Hải 2. Đoàn Đắc Hoạch. 163 Trần Nguyên Hãn, Q. Lê Chân 3. Nguyễn Văn Hải. Xã Chính Mỹ, H. Thủy Nguyên _____________________________________ VIII. Quãng Trị: 2 Liệt sĩ 1. Tống Sĩ Bái. Phường 1, TP Đông Hà 2. Hoàng Anh Đông. Phường 2, TP Đông Hà ___________________________________ IX. Nam Định: 2 Liệt sĩ 1. Nguyễn Trung Kiên. Xã Nam Tiến, H. Nam Ninh 2. Trần Văn Phong. Xã Hải Tây, H. Hải Hậu _________________________________ X. Phú Yên: 2 Liệt sĩ 1. Trương Văn Thinh. Xã Bình Kiên, TP Tuy Hòa 2. Phan Tấn Dư. Xã Hòa Phong, TP Tuy Hòa _______________________________ XI. Hà Tĩnh: 2 Liệt sĩ 1. Đào Kim Cương. Xã Vương Lộc, H. Can Lộc 2. Nguyễn Thắng Hai. Xã Sơn Kim, H. Hương Sơn _________________________________ XII. Hà Nội: 1 Liệt sĩ 1. Kiều Văn Lập. Phú Long, Xã Long Xuyên, H. Phúc Thọ. _______________________________ XIII. Ninh Bình:1 Liệt sĩ 1. Đinh Ngọc Doanh. Xã Ninh Khang, H. Hoa Lư ________________________________ XIV. Quãng Nam: 1 Liệt sĩ 1. Nguyễn Bá Cường. Xã Thanh Quýt, H. Điện Bàn _________________________________ XV. Phú Thọ: 1 Liệt sĩ 1. Hàn Văn Khoa. Xã Văn Lương, H. Tam Thanh __________________________________ XVI. Khánh Hòa: 1 Liệt sĩ 1. Võ Đình Tuấn. Xã Ninh Ích, H. Ninh Hòa Nguồn: boxitvn.blogspot.de
......

Bài II: Gạc Ma, Những Năm Sau Đó

"Cuộc chiến chỉ xảy ra 20 phút nhưng cuộc đời kéo dài hàng chục năm. Để có hành động anh hùng trong một trận chiến không khó. Để thành công trong cuộc đời khó thay” – Lê Hữu Thảo đốt thuốc liên tục trong suốt buổi nói chuyện với chúng tôi, tối 17-2-2014, rồi thốt lên câu đó. Quê Nhà   “Ngay trong ngày” 14-3-1988, Bộ Ngoại giao ra tuyên bố “lên án hành động khiêu khích quân sự của nhà cầm quyền Trung Quốc”. Nhưng, phải vài hôm sau Đài tiếng nói Việt Nam và báo Nhân Dân mới cho hay: “Sáng 14-3, các tàu chiến Trung Quốc đã ngang nhiên nổ súng vào 3 tàu vận tải của Việt Nam đang hoạt động bình thường ở bãi đá ngầm Gạc Ma thuộc đảo Sinh Tồn. Tàu của ta đã phải nổ súng để tự vệ. Trong khi đó họ lại đổi trắng thay đen vu cáo tàu của Việt Nam khiêu khích vũ trang tàu Trung Quốc”[1]. Ngày 25-3-1988, đài tiếng nói Việt Nam và báo Nhân Dân cho biết chi tiết: “Họ (Trung Quốc-HĐ) đã dùng súng bắn chết thiếu úy Trần Văn Phương, dùng súng và dao găm đâm bị thương nặng chiến sỹ Nguyễn Văn Lanh, bắn chết một số chiến sỹ khác. Từ trên các tàu chiến, họ tập trung hỏa lực bắn xả vào các chiến sỹ ta ở trên các đảo và trên những tàu bị cháy đang nhảy xuống nước, bắn vào các chiến sỹ đang bơi trên thuyền cao su, dùng cả câu liêm, bắn mạnh vào các chiến sỹ ta đang bơi trên biển. Cho đến nay, chúng ta vẫn còn 74 anh em mất tích”.   Sáng 25-3-1988, ông Nguyễn Văn Mạo dậy sớm đi đôn đốc các gia đình trong xã lên xe đi “kinh tế mới”. Khoảng 8 giờ, khi trở về, ông thấy nhà mình đông nghẹt người. “Tôi rụng rời”, ông Mạo nhớ lại. Nguyễn Văn Phương, con trai ông, có tên trong danh sách 74 người mất tích. Ông Mạo vốn là một chuẩn úy pháo phòng không phục viên, lúc ấy đang là Chủ tịch xã Mê Linh, huyện Đông Hưng, Thái Bình. “Tôi buồn đến mức xin thôi làm chủ tịch ngay sau đó”- ông nói.   Tâm Điểm của Báo Chí Thảo và Chúc ở lại Sinh Tồn Lớn 10 ngày, “ngày nào cũng nhìn thấy tàu Trung Quốc chạy qua chĩa súng vào đảo”. Ngày thứ 11, có tàu ra, đưa Thảo và Chúc vào bờ. Hàng tháng sau đó, những “người hùng Gạc Ma” sống sót trở thành tâm điểm của báo chí và các sinh hoạt chính trị. Đoàn Thanh niên Cộng sản phát động phong trào “Hướng về quần đảo Trường Sa thân yêu”. Lê Hữu Thảo kể: “Liên tục, báo chí, lãnh đạo, các đại biểu tới thăm. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh cũng bay vào Cam Ranh. Tôi và Chúc ‘thay mặt bộ đội Trường Sa’ nhận rất nhiều quà ‘của đồng bào cả nước’. Tôi được mời đóng một đoạn phim tài liệu; được mời vô Sài Gòn; được mời lên truyền hình, nói: Sẵn sàng quay lại Trường Sa”. Khi đó, trong số những người thực sự tham chiến còn sống sót chỉ có Thảo và Chúc là không bị thương. Lanh nằm viện nhiều tháng liền. Lê Hữu Thảo nhớ lại: “Chúng tôi được thông báo, cả hai sẽ được cử đi dự festival Thanh niên Sinh viên Thế giới diễn ra vào giữa năm sau tại Bình Nhưỡng. Hai thằng được tập huấn cách phát biểu và trả lời báo chí. Sau đó lại được thông báo, tên tôi được ghi vào bảng vàng danh dự của Hải quân. Cuối cùng, một sỹ quan quân lực gọi chúng tôi lên nói: Có đợt học tập ở Đức, Thảo và Chúc nên đi, chờ dự Festival thì chậm mất. Chúng tôi đi, té ra là ‘xuất khẩu lao động’ chứ không phải đi học”.   Những Tấm Huân Chương Tháng 12-1988, hàng chục cán bộ chiến sĩ được phong tặng, truy tặng huân chương, phong hoặc truy phong danh hiệu anh hùng. Năm “suất” anh hùng được phân bổ: Thiếu úy Trần Văn Phương (sinh 1965-Quảng Bình), Lữ 146 (hy sinh); Trung tá Trần Đức Thông (sinh 1944-Thái Bình), Phó lữ đoàn trưởng 146 (hy sinh); Đại úy Vũ Phi Trừ (sinh 1957-Thanh Hóa), Thuyền trưởng HQ-604 (hy sinh); Thiếu tá Vũ Huy Lễ (sinh1946-Thái Bình), Thuyền trưởng HQ-505; Nguyễn Văn Lanh (sinh 1966-Quảng Bình), chiến sỹ công binh E83. Thảo và Chúc không nghe nhắc gì tới tên mình. Khi đó, cả hai đang lao động ở Đông Đức, không còn màng tới bằng khen, giấy khen. Trong nước, sự kiện Gạc Ma nhạt dần và biến mất trên báo cũng như trong đời sống chính trị kể từ sau “Hội nghị Thành Đô” (9-1990). Ở Thái Bình, ông Nguyễn Văn Mạo cũng không biết con trai mình, liệt sỹ Nguyễn Văn Phương được truy tặng Huân chương chiến công hạng 3. Ông nói: “Họ đút huân chương đâu đó trên Huyện đội. Một thời gian sau, cậu xã đội trưởng lên huyện họp, nhìn thấy, cầm về”. Bố của liệt sỹ Phạm Gia Thiều, ông Phạm Gia My – người từng ở trong Quân đội từ 1953-1975 – thì không ứng xử như vậy.   Thượng úy Phạm Gia Thiều không thuộc biên chế của tàu HQ-604 nhưng khi 604 được lệnh ra đảo, một thuyền phó vắng mặt, Thiều đã đi thay. Ông My nói: “Khi được mời lên xã làm lễ truy điệu, tôi không đi vì chưa được làm rõ: Anh Trừ, thuyền trưởng, được phong anh hùng; con tôi, thuyền phó cùng chiến đấu trong giờ đó có công, có tội gì mà không nghe nói đến? Một thời gian sau, họ cử một cán bộ mang về nhà tôi tấm huân chương chiến công hạng nhất. Bà nhà tôi nói: không nhận. Đơn vị bảo gia đình yêu sách. Tôi nói: Huân chương là tặng thưởng của ‘nhà vua’ đâu có trao như thế được. Sau, đơn vị cho người mang về, mời tôi ra xã trao”. Những người đã có mặt trên đảo Gạc Ma sáng 14-3 như Thảo thì không câu nệ ai được huân chương, ai không. Trong khoảng gần 20 phút nổ súng đó, không ai có thể quan sát bao quát, để biết, ai đã chiến đấu như thế nào để về báo công. Về sau, báo chí nói khi bị bắn, thiếu úy TrầnVăn Phương hô: “Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”. Đấy có thể là ý chí của Phương. Trước đó, khi giao nhiệm vụ, Phương dặn, “Bằng mọi giá, phải giữ cờ”, nhưng khi bị bắn, Thảo biết, Phương không có đủ thời gian để hô khẩu hiệu. Với Thảo, những đồng đội sẵn sàng ra đảo hôm 11-3-1988 đều là những anh hùng. Họ đã nhận nhiệm vụ với tinh thần cảm tử. Một vài bạn của Thảo xin đi đã không được chấp nhận. Một vài người sợ hãiđã đào ngũ trước đó. Vấn đề không chỉ là những tấm huân chương mà là cuộc sống của những ông bố, bà mẹ, của những người vợ, của những đứa trẻ.   Các Góa Phụ Gạc Ma Y sỹ Phạm Huy Sơn (Diễn Nguyên, Diễn Châu, Nghệ An) tưởng có thể được ăn Tết cùng vợ con sau hai năm ở đảo Trường Sa. Nhưng, 15 ngày trước khi hết phép, anh được lệnh quay lại đơn vị, nhận nhiệm vụ mới ở “nhà giàn” Gạc Ma. Phạm Huy Sơn hy sinh khi vợ anh – chị Trần Thị Ninh – đang có thai ở tháng thứ hai (con gái anh Sơn, Phạm Thị Trang, sinh ngày 27-10-1988), đứa con trai sinh năm 1984 bị bại não bẩm sinh. Chồng mất năm 27 tuổi, chị Ninh ở vậy nuôi con trong đau thương và cả những tủi hổ không nói được. Ba năm sau, mấy mẹ con phải ra khỏi nhà chồng. Các cậu, các dì góp chút gạch, chút ngói, cất cho một căn nhà nhỏ. Ông ngoại cho một con bò. Cậu con trai, đến nay đã 31 tuổi, nhưng đến bữa vẫn phải nằm ngửa ra, đợi mẹ xay thức ăn bón vào miệng. Trí não không phát triển nhưng chân tay khỏe mạnh. Nhiều hôm cậu lang thang hết làng trên, xóm dưới. Làm đồng về không thấy con, chị vừa chạy tìm, vừa khóc. Năm 2006, Quân chủng Hải quân cho 15 triệu, chị Ninh nói: “Các anh ấy xét hoàn cảnh, linh động gửi tiền trước thay vì xây xong nhà mới ‘giải ngân’. Đó cũng là cơ hội, tôi vay thêm các cậu, ‘cắm’ sổ liệt sỹ trong hai năm vay thêm 15 triệu của ngân hàng. Xây được căn nhà này rồi trả dần, giờ vẫn còn nợ các cậu 15 triệu”. Căn nhà ngói 3 gian, có gắn bảng “nhà tình nghĩa” của chị Ninh, tuy không to đẹp như các nhà trong xóm, nhưng trông khang trang hơn hẳn so với căn nhà cất hồi năm 1991. Chị Cao Thị Bình và cháu ngoại Chị Cao Thị Bình – vợ liệt sỹ, bác sĩ quân y Hồ Công Đệ (Hải Thượng, Tĩnh Gia, Thanh Hóa) – vốn là một người lính ở vùng Biên phía Bắc. Năm 1981, họ cưới nhau khi chị ra quân. Từ năm 2012, “các đoàn” về thăm thấy chị có một căn nhà khá khang trang, ít ai biết, cho đến năm 2011, chị vẫn phải làm “osin” ở Vũng Tàu. Tám năm giúp việc cho một gia đình, nhà chủ thông cảm hoàn cảnh, để chị mang 3 đứa con vào cùng ăn học. Chồng chết năm 31 tuổi, khi mới mang thai 6 tháng đứa con thứ 3, chị Bình kể: “Bốn năm sau khi anh mất, một người bạn mới mang đồ đạc của anh về. Khi đó, 4 mẹ con đang sống trong một căn nhà tranh, vách đất. Đêm đêm, tôi lặn ngụp, mò cua, bắt ốc, bệnh sưng khớp đeo đẳng tới bây giờ. Hai đứa con gái đã lấy chồng, rất thương mẹ. Cháu trai, Hồ Công Được, cũng đã có bằng trung cấp cơ điện. Chỉ mong cháu xin được một chỗ làm trong công trường xây dựng nhà máy lọc dầu Nghi Sơn, rồi tôi có chết cũng mãn nguyện”. Trung úy hải đồ Lê Đình Thơ (Hoằng Minh, Hoằng Hóa, Thanh Hóa) hy sinh khi con gái, Lê Thị Thủy, mới vừa tròn một tuổi. Chín tháng sau, mẹ anh, bà Lê Thị Lương, kể: “Ngày 20-12-1988, đơn vị cho xe về đón tôi ra, đến lượt vợ thằng Thơ mất”. Mất con, rồi mất dâu, bà thay mẹ nuôi đứa cháu nội mới gần 2 tuổi. Bà Lương nói trong nước mắt: “Tôi khổ cả đường tình, cả đường con. Tôi sinh đứa thứ 4 thì chồng bỏ đi lấy vợ khác. Nhiều năm trời không biết giấc ngủ là gì bác ạ”. Cô dâu út thấy bà kể lể, nắm áo: “Thôi, bà ơi!” .Bà Lương quay sang con dâu, quyệt mắt: “Mi có biết khổ là chi mô”.   Được bà nội và các cô chú chăm sóc, Thủy lớn khôn, học giỏi. Sau khi tốt nghiệp trường đại học Mỏ Địa Chất, cô được đơn vị cũ của cha – Đoàn do đạc biên vẻ bản đồ và nghiên cứu biển, Hải quân -nhận về làm. Bà Lương cho biết, đơn vị cha cháu vẫn giữ liên lạc suốt bao nhiêu năm và luôn quan tâm đến cháu. Bà khoe, mỗi khi ra thăm cháu, cứ hết người này đến người kia mời. Bà nói: “Gần đây, tôi nằm mơ thấy thằng Thơ về, nó mặc quân phục, đeo quân hàm rất đẹp, nói với tôi: Mẹ chăm cháu thế là được rồi, mẹ không phải ra nữa, vậy là tôi ở nhà”. Bà Lương bảo: “5 triệu các anh (Nhịp Cầu Hoàng Sa) đưa hôm Tết, tôi dùng để mua một cỗ hòm”. Các ông bố, bà mẹ, những người vợ liệt sỹ hết tuổi lao động được cấp tiền tử tuất, trước đây là 370 nghìn/ tháng; sau đó tăng lên 670 nghìn; năm 2013 là 1 triệu 100 nghìn; năm 2014 là 1 triệu 220 nghìn/ tháng. Từ năm 2008, nhiều đơn vị phối hợp với địa phương, cấp cho một số gia đình liệt sỹ Gạc Ma từ 15, 20 triệu đến 30, 50 triệu/ gia đình để xây “nhà tình nghĩa”, nhiều gia đình cố vay mượn thêm để xây được căn nhà. Ngày 19-2-2014, khi chúng tôi đến xã Nghi Yên, Nghi Lộc, Nghệ An, thăm gia đình liệt sỹ Đậu Xuân Tư, hai cha con người em của Tư, Đậu Xuân Chương, vẫn đang “đi Lào làm phụ hồ”. Chị Phan Thị Lương, vợ anh Chương, nói: “Anh ấy rất muốn mua cái máy cày hoặc máy tuốt lúa (khoảng 35 triệu) để khỏi phải đi làm thuê xa nhưng ngân hàng không cho vay vốn vì vẫn còn nợ 6 triệu chưa trả hết”.   Có những ngôi nhà thực sự tình nghĩa, như nhà của ông Phạm Gia My. Bạn bè liệt sỹ Phạm Gia Thiều, thời anh học ở đại học Hàng hải đã góp 500 triệu xây nhà tặng ông. Năm 2010, bà Nguyễn Thị Nhơn (83 tuổi), mẹ của Đậu Xuân Tư, được một đơn vị tặng 50 triệu. Thay vì tu sửa căn nhà cũ của gia đình Chương, người em đang chăm sóc bà Nhơn, theo chị Lương: “Họ yêu cầu phải xây riêng cho bà, chúng tôi phải vay mượn thêm 45 triệu”.   Cuộc Chiến, Cuộc Đời Phần lớn các cựu binh Gạc Ma khi trở về đều sống rất chật vật. Trừ một số người nhận danh hiệu anh hùng, nhận huân chương, thăng tiến trong quân đội, số còn lại “hết nghĩa vụ ra quân” không có chế độ gì. Phạm Xuân Trường, Trương Văn Hiền… tuy đã ổn định gia đình nhưng kinh tế chỉ đắp đổi qua ngày. Ngôi nhà Phạm Xuân Trường xây đã mấy năm vẫn chưa kiếm đủ tiền mua cửa. Còn Lê Hữu Thảo thì vẫn lông bông, chưa vợ, chưa nhà. Trong một lần về quê đầu năm 1991, Thảo yêu một “cô gái đẹp có tiếng ở Hà Tĩnh”. Suốt mấy năm sau đó, cô nhất mực chờ anh. Năm 1995, sốt ruột vì tuổi con gái lớn dần, bố cô điện thoại sang Đức cho Thảo nói: “Nếu con yêu và quyết tâm lấy nó thì đêm nay suy nghĩ kỹ, ngày mai điện về. Khi đó, nó muốn đợi bao lâu cũng được”. Đêm ấy,Thảo bị bắt trong một chiến dịch truy quét thuốc lá lậu của cảnh sát Đức. Mối tình sau đó, cho Thảo một đứa con trai, cũng chỉ kéo dài được mấy năm. Đã từng hào hiệp với bạn bè. Để rồi, nay trở về quê, Thảo nói: “Thật xấu hổ khi gần như chỉ còn hai bàn tay trắng”. [1] TuổiTrẻ thứ Năm, 17-3-1988. Nguồn: http://newosin.wordpress.com/2014/03/01/bai-ii-gac-ma-nhung-nam-sau-do/
......

Chúng ta biết ơn những người bị bắt.

Có lần một thượng nghĩ sĩ của một nước châu Âu, hỏi trực tiếp tôi   ( qua phiên dịch). Bây giờ thì hình như ông ta là bộ trưởng hay phó thủ tướng gì đó. Các Bà Mẹ của những người bị bắt   - Anh nghĩ sao về chuyện có những người bị bắt và có những người chưa bị bắt. Tôi vẫn thấy nhiều người viết hoặc đấu tranh nhân quyền không bị bắt đó thôi. Tôi trả lời.   - Tôi nghĩ là chỉ có người  bị bắt và người chưa bị bắt thôi. Vì sự bắt bớ vẫn diễn ra, năm nay người này, năm sau người khác. Cho nên tôi chờ đợi ở những người như ông câu hỏi - Chừng nào ở Việt Nam không có người viết, người bất đồng chính kiến bị bắt ?- Câu hỏi đó tôi nghĩ mới cần thiết. Ở cuôc gặp này có 3 người Việt Nam được đối thoại với các nghị sĩ, hai trong số 3 người đó là người của nhà nước Việt Nam.   Trong câu hỏi của vị thượng nghị sĩ kia, chắc chắn ông ta có những thông tin về người bị bắt, và chắc chắn ông ta còn có những lý giải của ai đó về việc vì sao có người không bị bắt. Ví dụ người bị bắt là không phải đấu tranh ôn hòa cho nền dân chủ, nhân quyền mà họ đi gây sự, đi phá phách ...vv và vân vân.   Những lý giải này từ phía người của nhà nước Việt Nam, đó là chuyện tất nhiên. Nhưng đang tiếc những lý giải này còn có ở những người đấu tranh chưa bị bắt. Tôi rất buồn khi nhìn báo cáo của họ, tôi vẫn cứ nghĩ rằng báo cáo đó do an ninh mạo danh soạn ra và cách nào đó gửi đến đây, nghĩ thế cho đỡ buồn.   Trở lại câu chuyện người bị bắt và chưa bị bắt. Nói nôm na theo dân chúng, chẳng qua chỉ là chuyện nạc và xương. Bao giờ hết nạc mới vạc đến xương. Những người bị bắt là nạc, những người chưa bị là xương. Đương nhiên người ta cứ chén nạc cái đã, bao giờ hết mới đến bọn xương.   Tôi nằm trong số bọn xương, nhiều khi tôi nghĩ mình chưa bị bắt, không phải là khôn ngoan hơn người bị bắt. Chẳng qua những người bị bắt đã mạnh mẽ quá, và họ đã hứng chịu thay cho mình. Thử hỏi không có họ xem, ôn hòa à, hữu nghị à, chỉ viết lách à...với một chính quyền chuyên chế thì chỉ bóng gió thôi cũng đi tù mút mùa cải tạo như trước đây nhiều người đã bị khi nói vài câu ở hàng nước.   Nhưng hôm nay ở hàng nước nhiều người nói thế không sao. Bởi vì có người viết hẳn bài trên mạng, người viết bái trên mạng không sao, vì có người viết hẳn tên tuổi đích danh quan chức. Và nếu có bắt thì những người viết đích danh như Cù Huy Hà Vũ, Trương Duy Nhất, Phạm Viết Đào sẽ bị bắt trước, chẳng bao giờ người ta đi bắt bọn phê phán ôn hòa ở hàng nước vỉa hè trước cả.   Tương tự như thế, những người ở đảng phái sẽ bị bắt trước những người không đảng phái. Khi mà không có người ở đảng phái, tổ chức thì ắt những người đấu tranh không đảng phái vô tù. Lúc đó thì đừng nghĩ mơ đến chuyện tôi không đảng phái gì, tôi độc lập, tôi trong sáng lý tưởng.   Cũng tương tự như thế, người đấu tranh trực tiếp trên đường phố bằng hành động thực tế như Nguyễn Phương Uyên . Đinh Nguyên Kha và Bùi Thị Minh Hằng sẽ đương nhiên bị ưu tiên hốt trước tiên.   Cho nên những người chưa bị bắt có đi con đường ôn hòa ( con đường không nạc mỡ ) thì đừng chê trách những người bị bắt. Vì hiểu thấu đáo nguyên nhân thì họ đã chịu trận cho mình. Chúng ta, những người chưa bị bắt chả khôn ngoan gì hơn họ, nói thẳng chúng ta đang hưởng chút an toàn từ họ. Nhưng còn chê trách họ, ngầm tạo dư luận bất lợi cho họ trước phiên xử, trước khi cơ quan anh ninh ra quyết định khởi tố. Cung cấp những thông tin về họ thiếu khách quan cho tổ chức báo chí quốc tế, nhân quyền, đại sứ, chính phủ các nước.  Để họ bị cô lập trước một cuộc tấn công sắp xảy ra. Đó là điều không giản đơn.   Tôi chia sẻ với ông Huỳnh Ngọc Tuấn, là một người đấu tranh nhiều năm, chịu án tù nhiều năm, ông cảm giác cơn giông bão sắp tới với con thuyền gia đình mình là điều tất nhiên. Cảm giác ấy khó nói được thành lời để giãi bày thiên hạ.   Không phải tình cờ, một Hồ Lan Hương ngồi một chỗ, không mấy tiếng tăm, không tham gia các hoạt động. Càng chưa bao giờ gần với Bùi Thị Minh Hằng. Bỗng nhiên một ngày giật status nói Bùi Hằng đi gây sự, và hai hôm sau cơ quan an ninh chuyển từ tạm giữ sang tam giam và khởi tố Bùi Thị Minh Hằng với tội danh chống người thi hành công vụ, một tôị danh rất phù hợp với từ '' gây sự ''   Chúng ta hãy xem lại đoạn phim Bố Già, khi Mai Cơn vào viện thăm ông, không thấy ai bảo vệ. Mai Cơn đã hiểu đằng sau đó có vấn đề sắp đến với sinh mạng bố mình. Cũng như Trần Bùi Trung đi đòi bảo vệ mẹ mà không thấy những người trước kia gọi mẹ xưng con, chị chị em em đi theo.   Dù sao ở bài viết này, tôi vẫn muốn nhấn mạnh chuyện vì sao có người bị bắt và chưa bị bắt. Và vì sao những người chưa bị bắt nên cám ơn họ. Chứ không phải là chê trách họ ngu hơn mình. Đó cũng là lý do vì sao tôi hay bênh vực những người bị bắt bớ giam cầm vì lý tưởng
......

Vừa hợp tác vừa đấu tranh

Có lẽ ít người biết đến cụm từ này cụ thể là hành động thế nào. Tôi thấy một số người vẫn thắc mắc tại sao đối tượng A, nhóm B cũng đấu tranh mà lại đi đánh phá người khác. Người Buôn Gió Hợp tác có nghĩa là làm cho an ninh một số việc, đồng thời được an ninh cho phép làm nhà "đấu tranh" trong mức độ có lợi cho an ninh. Tất nhiên trong về này, an ninh bao giờ cũng hời hơn. Vì họ được cả một cuộc chiến. Còn những kẻ kia về cá nhân họ cũng được hời. Ở giá cả trao đổi như vậy hai bên đều cảm thấy hài lòng. Có những người vì thiếu hiểu biết, đố kỵ, ghen tức nhau mà vô tình để những lời an ninh nói nhập vào đầu mình. Dẫn đến tự nguyện làm một người vừa đấu tranh mà vừa hợp tác trong khi chính họ không biết. Nhưng có người thì nhận thức được điều đó, và họ bằng lòng với việc này. Bởi họ hy vọng sẽ mượn tay an ninh triệt phá các nhóm đấu tranh cạnh tranh với họ, hòng dành được nguồn tiền trợ lực từ hải ngoại cho nhóm của mình. Sâu xa hơn là họ hy vọng vào sự thay đổi xã hội, họ sẽ là lực lượng được ĐCS chọn làm đối thoại trong buổi giao thời. Bởi thế họ luôn tạo cho mình vẻ ngoài là ôn hòa, là chừng mực, là vì một chuyển biến tốt đẹp cho dân tộc mà cả hai bên đều thấy ổn thỏa, hài hòa. Hợp tác là năng chịu khó cà fe với an ninh, kể những chuyện mình nghe, mình biết về người nào đó đang làm gì, đang định thế nào. Qua câu chuyện cà fe này, an ninh có thông tin về thằng kia đang yêu một con bé dưới tuổi thành niên, thằng này đang khó khăn trong việc thuê nhà, kiếm việc làm, con nọ là vợ hai của lão này, con kia dây dưa với bọn Việt Tân, Dân Chủ, 8406.. Cái việc gặp gỡ kể chuyện tưởng như đối thoại tầm phào như hai người bạn trao đổi quan điểm đó, thực chất là một cuộc cung cấp thông tin về nhóm khác, người khác đang hoạt động hay tình trạng thế nào cho anh ninh nắm bắt. Đổi lại họ nhận thêm từ phía an ninh những thông tin về người đấu tranh này đã có những gì không xứng đáng là nhà đấu tranh, ví dụ như nhận tiền để đấu tranh, theo đảng nọ kia...   Sau đó hai bên ra về, khai thác sử dụng thông tin theo cách của mình.  An ninh thì gia tăng việc ngăn cản thuê nhà, xin việc hay triển khai bắt người (như trường hợp Dũng aduku).   Còn kẻ  "đấu tranh" thì từ nguồn tin an ninh về sẽ rỉ tai rằng người này, người kia có vấn đề. Những kẻ "đấu tranh" này rất chịu khó làm quen với các trang truyền thông lớn quốc tế hoặc những trang báo ngoài lề. Để khi cần thiết có thể lái dư luận hoặc cô lập thông tin về vấn đề nào đó. Chúng cũng hay chịu khó ghi danh vào bất cứ nhóm nào để chiếm vị trí trong nhóm, khi cần đưa ra những ý kiến làm phân tán sức mạnh của nhóm. Được cái bề ngoài nhiều người lầm tưởng kẻ "đấu tranh" này đang nỗ lực hoạt động vì tham gia nhiều nhóm. Nhưng nhìn thực chất thì chúng không làm gì hiệu quả thực sự. Thậm chí chúng còn lái các hoạt động đấu tranh đi sang hướng khác, chúng nhanh chân chiếm vị trí để nắm thông tin hoạt động của nhóm. Khi nhóm có việc gặp các cơ quan ngoại giao, chúng sẽ chiếm một phần tiếng nói trong đó. Đôi khi nội dung phát biểu của chúng với cơ quan ngoại giao chỉ nhằm mục đích lấy đi thời gian của người khác mà nội dung cần thiết hơn. Chúng tập trung một số thanh niên trẻ quanh mình, lợi dụng sự khác biệt giữa lớp già với lớp trẻ để khoét sâu mâu thuẫn, gia tăng sự hiềm khích. Khiến cho các hoạt động của nhóm lớn tuổi và nhóm trẻ trở thành riêng rẽ. Đồng thời chúng cũng thâm nhập vào các nhóm để làm phân hóa, tan rã các nhóm bằng cách kích động tự ái của một số người, xúi dục họ tách ra lập nhóm này nhóm kia. Sau khi lập nhóm mới xong, chúng cho hoạt động vài ba trò rồi để nhóm tự tan rã. Bởi mục đích của chúng chỉ là phân hóa nhóm ban đầu. Điều này giải thích vì sao nhiều nhóm đầu voi đuôi chuột. Lúc đầu rất hăng hái bên nhau, sau cứ mâu thuẫn dần, các hoạt động nhạt dần rồi tan rã. Điều độc ác hơn là khi những người đấu tranh nào đó bị bắt, chúng phân tán dư luận bằng những luận điệu như với Tạ Phong Tần chúng bảo là an ninh trá hình, với Nguyễn Phương Uyên, Đỗ Thị Minh Hạnh chúng bảo đó là do nghe theo thế lực chính trị bên ngoài. Với Huỳnh Thục Vy chúng gây sự, với Lê Thị Công Nhân chúng moi móc thông tin cá nhân để dèm pha. Nhiều người e ngại không dám nói, vì có thể trước đó có chút giao du, hoặc có thể để an phận mình, hoặc có thể chúng đánh nhóm khác mà mình cũng không ưa. Hoặc họ nghĩ nhầm đây là mâu thuẫn giữa những người đấu tranh, không tham gia làm gì. Xin thưa, đây là cả một chiến dịch có âm mưu kết hợp bài bản của cơ quan bảo vệ chính trị nội bộ. Nếu đọc được sách hướng dẫn "đấu tranh chống diễn biến hòa bình". Bạn sẽ thấy hoạt động này nằm hẳn trong một trương về "phân hóa". Và đã gọi là "phân hóa" diễn biến bên trong thì tất nhiên kẻ tham gia phải nằm trong hàng ngũ những người đấu tranh. Một số bạn trẻ vẫn nghĩ rằng, con người này vẫn đấu tranh, mình làm việc với họ thấy thế mà. Ở đây cũng nằm trong sách lược, vì cơ quan an ninh tính rằng ngăn chặn từ đầu hơn là bắt bớ. Nên họ ngầm để bạn theo những kẻ này, hoạt động trong vòng kiểm soát, ở những mức độ họ có thể thấy chấp nhận. Ví dụ như phong trào xuống đường biểu tình lên cao, họ sợ bạn tham gia, họ để bạn theo kẻ kia để biểu tình trong nhà. Họ sợ bạn tham gia Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự, nên họ để các bạn tham gia các nhóm nhỏ này nọ để thỏa mãn sự đấu tranh trong bạn. Vì họ biết không thể dập tắt thì họ chọn một lối đi cho bạn cũng là đấu tranh khác. Cũng như nguồn nước sẽ xuôi theo về với sông lớn. Họ cho bạn chảy riêng theo một dòng khơi, bạn không hòa vào con sông lớn, bạn có bản sắc của riêng mình, thỏa mãn cái tôi của bạn, cái tiếng đấu tranh của bạn. Mục đích của những người bảo vệ chính trị nội bộ là không để cho một con sông lớn được hình thành. Những dòng suối nhỏ chảy mãi rồi cũng thấm dần vào đất và mất tích êm đềm, đúng như các nhóm nhỏ đã sinh ra và mất đi như thực tế. Sẽ có người hỏi, tại sao chúng hợp tác với an ninh mà thỉnh thoảng vẫn bị làm khó dễ.? Nhìn thực chất thì những khó dễ đó không nhiều, nó chỉ mang tính nhất thời trong một vụ việc nào đó. Mà do các cơ quan an ninh không kịp phối hợp trao đổi cho nhau. Hoặc vì ngăn chặn cả một đám đông thì chúng lọt vào đó nếu đẩy ra cũng khó. Nhưng cũng phải thẳng thắn công nhận là có lúc để cần thể hiện mình là nhà "đấu tranh" chúng đi quá những gì mà an ninh mong muốn. Tôi là kẻ chưa học hết phổ thông, từng đâm chém thuê, tàng trữ vũ khí, buôn ma túy, trấn lột tài sản, tổ chức cá độ cờ bạc... một kẻ từng làm những điều như thế để kiếm lợi  thì khó có gì bảo đảm lời nói của mình là trong sáng, khách quan. Tôi thực sự thú nhận không hề có danh dự gì để bảo đảm lời mình nói là đúng. Cũng có thể tôi nói lời này vì không kiềm chế được cơn giận khi Bùi Thị Minh Hằng đương trong lao tù mà bị bên ngoài đánh phá.   Đọc một bài viết, phụ thuộc vào cảm nhận của chính các bạn đọc. Nhưng nếu các bạn được tiếp cận hồ sơ những vụ án của tôi nói, sẽ thấy một điều là vụ nào lời khai của tôi cũng chỉ có một mình tôi phạm tội. Một kẻ đã từng dám làm những điều như vậy, thì không thể viết một bài viết dài mà không có tên tuổi ai, khiến thiên hạ đoán mò.   Người mà tôi nói trên là Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, tức Mẹ Nấm Gấu. Người đứng đằng sau trong các vụ đánh phá Huỳnh Thục Vy, Lê Thị Công Nhân, Đỗ Thị Minh Hạnh, Tạ Phong Tần và Bùi Thị Minh Hằng lần này.   Còn có những người đứng đằng sau MNG ở Hải ngoại và một số chân rết ở trong nước. Nhưng thiết nghĩ động cơ của họ chỉ vì muốn đấu tranh dân chủ mà có những hướng đi nhất thời chưa khớp với thực tế. Nên không nhắc tên họ ở đây sẽ ảnh hưởng đến việc đấu tranh của họ sau này. Bức tranh toàn cảnh đấu tranh Việt Nam rất đa dạng, mỗi con người là một nét vẽ, mỗi nét vẽ có những xuất xứ, động cơ khác nhau. Chính thế khi nhìn vào bức tranh đó, người ta khó trông cậy được một điều gì hoàn chỉnh, tổng thể.   nguồn:facebook's Người Buôn Gió
......

Tin Nhanh Tổng Hợp về buổi Tưởng Niệm Ngày Biên Giới tại Hà Nội

"Nếu để ý, những cuộc xuống đường của người Hà Nội về sau này không còn cờ đỏ, được công bố một cách chính thức bởi các nhóm dân sự, ngoài những khầu hiệu chống ngoại xâm họ đã không ngần ngại gọi chính quyền là bán nước. Chính những người CS đã đẩy những người ban đầu chỉ vì tinh thần dân tộc thành thế lực đối đầu không khoan nhượng. Chính quyền bối rối phản ứng một cách ngây ngô, thêm dầu vào lửa và đốt cháy nhanh chóng sự chính danh yếu ớt của mình." Trong suốt chiều và đêm ngày 15/2/2014, nhà cầm quyền đã cho dựng gấp rút một sân khấu tại khu tượng đài Lý Thái Tổ để tìm lý cớ mới ngăn chận buổi tưởng niệm Ngày Biên Giới hôm nay. Các thủ thuật mới hôm nay chắc sẽ khác với các trò công an đã dùng vào ngày 19/1 vừa qua để cản trở buổi tưởng niệm chiến sĩ Hoàng Sa. Đây là biểu hiệu mà mọi người đã đồng ý chọn qua mạng Internet để tưởng nhớ đến các chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh Từ sáng sớm, công an chìm nổi đã kéo đến hiện trường. Trong khi đó người dân Việt tại Hà Nội và các vùng phụ cận vẫn lên đường tiến đến khu tượng đài. Chúng tôi nhận thấy có nhiều khuôn mặt quen thuộc của giới trí thức và văn nghệ sĩ:   Vành khăn đỏ trên đầu: Nhân Dân không quên 1979 – 2014 Cụ bà Hiền Đức là người niệm hương đầu tiên và cũng là người đầu tiên bị công an xô đẩy. Sau đây là cảm nghĩ và dự phóng của nhà hoạt động Nguyễn Tường Thụy về buổi tưởng niệm hôm nay: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/nguyen-tuong-thuy-ve-ngay-16-2 Từ Hà Nội những khuôn mặt thân thương đang đại diện cho cả dân tộc trước anh linh Quân và Dân Việt đã hy sinh vì đất nước   Công an tiếp tục kéo đến nhưng ẩn núp kín đáo và chờ lệnh, trong khi đó đoàn côn an, với đầy đủ thủ lãnh lớn nhỏ và đầy đủ cả nam lẫn nữ, đành hậm hực đứng nhìn đoàn người Việt yêu nước đi quanh bờ hồ đả đảo Trung Quốc xâm lược: Đồng bào tụ tập trước tượng đài Lý Thái Tổ và hô to khẩu hiệu đả đảo Trung quốc xâm lược: https://www.facebook.com/photo.php?v=593506354075190&set=vb.100002474930... https://www.facebook.com/photo.php?v=593596350732857&set=vb.100002474930...   'Dư Lợn Viên' gào thét, quấy phá:http://www.youtube.com/watch?v=oSGVQndXfd4   Nhưng những con dân Việt đang có mặt tại khu vực tượng đài Lý Thái Tổ vẫn tập trung vào ý nghĩa của Ngày Biên Giới hôm nay. Họ đang đại diện cho cả dân tộc trên khắp nước và trên khắp thế giới để đốt những nén hương đầu tiên trước anh linh các anh hùng đã ngã xuống để bảo vệ Tổ Quốc:   Phóng viên nước ngoài có mặt để ghi lại quyết tâm của dân tộc Việt và cũng để sẵn sàng ghi lại các trò hèn kém của công an:   Và sau đây là cảm tưởng của Blogger Gió Lang Thang và cũng là cảm tưởng tiêu biểu của giới trẻ tại Hà Nội về cuộc tưởng niệm Ngày Biên Giới hôm nay: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/blogger-gio-lang-thang-ve-ngay-16-2 Trong lúc nhà cầm quyền tổ chức văn nghệ tưng bừng, Đoàn người Việt mang Hoa Sim tưởng niệm đi quanh bờ hồ   Cán bộ đảng múa may quay cuồng trước tượng đài Lý Thái Tổ: https://www.youtube.com/watch?v=xO5daEqa-3o https://www.facebook.com/photo.php?v=459129564188852&set=vb.100002754387... Trong ngày tưởng niệm nhiều vạn sinh mạng của Quân và Dân Việt để bảo vệ đất nước, nhà cầm quyền lại làm một hành động vô văn hóa, vô đạo đức. Đó là tổ chức ca nhạc và nhảy nhót để chiếm lấy hầu như toàn bộ khu vực tượng đài Lý Thái Tổ. Sau đây là khung cảnh hiện trường theo lời tường thuật của blogger JB Nguyễn Hữu Vinh: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/nguyen-huu-vinh Đoàn người Việt yêu nước đành xót xa đi dọc theo bờ hồ Hoàn Kiếm và bày tỏ sự phẫn nộ đối với dã tâm xâm lược của Trung Quốc. Blogger Nguyễn Tường Thụy chuyển lại các âm thanh sau đây: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/nguyen-tuong-thuy-ve-cuoc-di-quanh-bo-ho Ngoài các vành khăn đỏ trên đầu, đoàn người Việt yêu nước cũng cùng mang huy hiệu Hoa Sim: Đoàn côn an hậm hực nhìn theo những người yêu nước Khi thủ thuật nhiều công phu suốt đêm để gấp rút chiếm hết hiện trường bằng buổi ca nhạc, nhảy nhót vẫn thất bại trong ý đồ chận đứng cuộc tưởng niệm của đồng bào, và khi không giở lại được những trò hèn kém của ngày 19/1 (cắt đá, chỉa loa, giật băng rôn bỏ chạy, v.v...), đoàn côn an, với đầy đủ thủ lãnh lớn nhỏ và đầy đủ cả nam lẫn nữ, đành hậm hực đứng nhìn đoàn người Việt yêu nước đi quanh bờ hồ đả đảo Trung Quốc xâm lược: Sau đây là nhận xét của Blogger Lê Anh Hùng: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/le-anh-hung Hành động vô văn hoá, vô đạo đức Nhiều người Việt yêu nước có mặt tại khu vực tượng đài Lý Thái Tổ và nhiều đồng bào khác trên mạng Internet lắc đầu đau đớn nhìn cảnh tượng mà một số bloggers gọi là "hành động vô văn hóa, vô đạo đức". Nhà cầm quyền đã gấp rút cho tổ chức các màn nhảy nhót trong ngày tưởng nhớ hàng vạn người đã hy sinh, chỉ để cố ngăn cản cho được những người dân Việt muốn bày tỏ lòng tiếc thương: Trước cảnh tượng này, Cụ Bà Lê Hiền Đức phải thốt lên những lời sau đây: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/cu-le-hien-duc Nỗi đau và phẫn nộ của giới trí thức tại Ngày Biên Giới Sau đây là chia sẻ của 4 vị tiêu biểu cho giới trí thức, văn nghệ sĩ có mặt trong cuộc tưởng nhớ Ngày Biên Giới hôm nay, bao gồm cả Nghệ Sĩ Kim Chi. https://soundcloud.com/radio-ctm-2/nghe-si-kim-chi Trong đoàn người Việt yêu nước hôm nay có sự tham gia của nhiều con cháu Bà Trưng, Bà Triệu: Tiếng hô của các bác, các chị hòa cùng dòng người yêu nước vang rền giữa lòng thủ đô Hà Nội: https://soundcloud.com/radio-ctm-2/khi-the-buoi-tuong-niem (Hình ảnh tổng hợp từ các nguồn của RadioCTM và Internet) Văn Ngọc Thu, Vũ Hạ Quyên, Vĩnh Ánh, và Trần Quang Thành tường thuật  
......

Đừng quên "Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới"

“Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới, gọi toàn dân ta vào cuộc chiến đấu mới, quân xâm lược bành trướng dã man, đã dày xéo mảnh đất tiền phương, lửa đã cháy và máu đã đổ trên khắp nẻo biên cương." Khúc ca hùng tráng này đã thịnh hành trong suốt thập niên 80 và được đưa vào chương trình sinh hoạt quân đội Việt Nam.   Đêm rạng sáng ngày 16-2-1979, khi quân xâm lược Trung Quốc đổ một lực lượng quân đội hùng hậu vào đánh chiếm sáu tỉnh biên giới phía Bắc nước ta, thì ngày 17-2 -1979, nhạc sĩ Phạm Tuyên đã cho ra đời bài hát này. Bài hát như một bài hịch hiệu triệu toàn dân vào cuộc chiến đấu mới  và được lưu truyền rộng rãi trong nước để khích lệ sĩ khí quân dân ta đứng trước hiểm họa ngoại xâm từ phương Bắc. Khi bình thường hóa quan hệ Việt-Trung xong, bài hát này đã bị khai tử, và người ta không còn nghe hát trên các đài phát thanh hay trên các kênh thông tin đại chúng nữa. Dầu vậy nhưng âm vọng của nó vẫn trỗi dậy trong lòng mọi người mỗi khi kỷ niệm cuộc chiến oanh liệt chống quân Trung Quốc ngày 17-2 hằng năm. LỬA ĐÃ CHÁY VÀ MÁU ĐÃ ĐỔ   Làm sao có thể quên khi không biết bao nhiêu máu xương của quân và dân ta đã đổ xuống để bảo vệ cho toàn vẹn lãnh thổ ngày ấy. Trung Quốc đã dùng hàng trăm đại pháo, xe tăng, hỏa lực bắn giết hàng vạn dân và quân ta, gây ra cái chết trên 60.000 người. Bầu trời biên giới miền Bắc đã nhuốm màu máu lửa tang thương. Ba mươi lăm năm trôi qua, vết thương chiến tranh tuy đã lành nhưng ấn chứng, di tích hãy còn đó với những tấm bia tưởng niệm hãy còn đó khắc ghi tội ác của quân thù xâm lược Trung Quốc mà bây giờ nhà nước ta hôm nay phải gọi là "Bạn", là đồng chí với tinh thần "4 Tốt + 16 Chữ vàng". Cũng vì tình hữu nghị đồng chí anh em giữa hai Đảng CS VN và Đảng CS TQ mà hôm nay báo chí chính thống trong nước đều phải tháo gỡ những bài viết đã đăng về sự kiện lịch sử này. Và cũng vì tình hữu nghị mà trang sách sử giáo khoa Việt Nam vẫn chưa được phép đưa vào để giáo dục cho thế hệ con em mai sau về tinh thần yêu nước, chống ngoại xâm. Hằng năm, chúng ta có quá nhiều ngày quốc lễ để kỷ niệm, nhưng ngày 17-2 - ngày biến cố lịch sử quan trọng cần phải được tổ chức sinh hoạt rộng rãi trong toàn đảng, toàn quân và toàn dân thành quốc lễ như kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, v.v... - nhưng đảng và nhà nước Việt Nam lại cố tình bỏ quên; trong khi có rất nhiều cựu tướng lĩnh, sĩ quan hưu trí, người trí thức yêu nước muốn được long trọng kỷ niệm. Nhân dân ta vốn yêu chuộng hòa bình, vì thế ai cũng muốn gác lại quá khứ thù hận để chung sống hòa thuận, hợp tác phát triển quốc dân. Nhưng lịch sử là chứa đựng quá khứ có bi thương, có hùng tráng của mỗi dân tộc. Chúng ta nên sòng phẳng khách quan với lịch sử vì “lịch sử là sự thật mà không ai có quyền lãng quên “ hay bóp méo nó đi. Nhận thức như vậy, chúng ta mới cần có những hành động thiết thực như tu sửa lại những bia tưởng niệm, trùng tu lại những di tích cảnh về chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979. Hằng năm, phải tổ chức kỷ niệm để vinh danh, tri ân những người liệt sĩ đã ngã xuống cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc. Có như thế thì máu xương của họ đổ ra mới không oan uổng. Chín năm sau trôi qua, tiếng súng đã ngừng vang trên bầu trời biên giới nhưng tiếng súng lại vang lên nơi biên đảo Trường Sa năm 1988, giết đi 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam để chiếm đảo Gac-Ma. Cho đến nay, tàu hải quân Trung Quốc vẫn tiếp tục nổ súng bắn vào ngư dân Việt Nam vô tội nơi biển khơi Hoàng Sa của nước ta. Đối với, Trung Quốc, chúng ta phải đủ sáng suốt để nhận rõ ra: Bạn hay Thù? Hoàng Sa - Trường Sa của Việt Nam hay là Tam Sa của Trung Quốc? Chúng ta không chống nhân dân Trung Hoa vì họ cũng lâm vào hoàn cảnh bị trị như chúng ta nhưng chúng ta cần có thái độ rõ ràng, mạnh mẽ với nhà cầm quyền Cộng sản Trung quốc. Bởi lẽ, mỗi ngày ông bạn tốt láng giềng luôn đưa ra những đòi hỏi ngang ngược về chủ quyền Biển Đông và ngăn cấm không cho ngư dân Việt Nam ra khơi tìm nguồn sống, bất chấp sự phản đối của chúng ta. Vì vậy, khi nào nhà nước Việt Nam đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích của Đảng thì mới có thể có chính sách đúng đắn và phù hợp lòng dân.  Ngược lại, mỗi người Việt chúng ta phải tiếp tục lên tiếng bảo vệ công lý cho dân tộc, và chủ quyền đất nước trên vùng đất, vùng biển của Tổ quốc Việt Nam. Viết để cùng tưởng niệm ngày 17-2-1979. Gia Lai ngày 14-2-2014Hồng Trung
......

Nhà văn Phạm Xuân Nguyên nói về cuộc chiến biên giới Việt – Trung 1979

......

Lời kêu gọi nhân tưởng niệm 35 năm cuộc chiến chống Trung Quốc trên biên giới

LỜI KÊU GỌI NHÂN KỶ NIỆM 35 NĂM ĐÁNH TAN CUỘC CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC TRÊN BIÊN GIỚI PHÍA BẮC NƯỚC TA 17.2.1979   Ngày này cách đây 35 năm, hơn 60 vạn quân xâm lược Trung Quốc bất ngờ tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc nước ta, tàn sát dân ta cực kỳ dã man theo cách bao đời ông cha chúng từng làm. Chúng đốt sạch, giết sạch. Các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn và một số thị trấn khác bị san phẳng. Tội ác của chúng quả là "trúc rừng không ghi hết tội, nước biển không rửa sạch mùi" như Nguyễn Trãi đã phẫn nộ lên án quân xâm lược nhà Minh phương Bắc cách đây hơn năm thế kỷ. Bọn xâm lược không lường được rằng, tuy bị bất ngờ, nhưng với truyền thống quật cường, quả cảm, quân dân ta trên 6 tỉnh biên giới đã giáng trả bọn cướp nước những đòn trí mạng. Bằng một cuộc chiến tranh quy mô lớn nhất của Trung Quốc kể từ cuộc chiến tranh Triều Tiên 1950, điều động 9 quân đoàn chủ lực và 3 sư đoàn độc lập với hàng trăm xe tăng, hàng nghìn pháo, súng cối, dàn hỏa tiễn cùng với sự yểm trợ của hạm đội Nam Hải và không quân sẵn sàng ứng phó, chúng đã thảm bại! Ngày 18 tháng ba năm 1979 Đặng Tiểu Bình phải tuyên bố rút quân. Tuy vậy, chúng vẫn chốt lại tại một số điểm trên biên giới, tiếp tục các cuộc bắn phá tranh giành biên giới. Xung đột kéo dài, ác liệt nhất trong các năm 1984-1985, điển hình là các cuộc chiến xảy ra tại Núi Đất thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, Hà Giang, cho đến gần hết năm 1988 mới chấm dứt. Không phải chúng ta, mà là một nhà văn Trung Quốc đã viết: "Đem quân gây chiến, đánh phá nước láng giềng mà không có tuyên bố là một điều sỉ nhục, hèn hạ".   Bộ đội Việt Nam đánh trả quân Trung Quốc xâm lược tại Lạng Sơn năm 1979 - Tù binh Trung Quốc bị bắt tại Cao Bằng Nhưng, cũng sẽ là hèn hạ không kém nếu không dám công khai và quyết liệt vạch trần tội ác xâm lược của kẻ thù, càng phi đạo lý hơn nữa khi thỏa hiệp với luận điệu xảo trá về cái gọi là "giữ gìn đại cục", chui đầu vào thòng lọng của mười sáu chữ lừa bịp để tự trói tay, trói chân mình, quay lại đàn áp nhân dân mình biểu tỏ lòng yêu nước, lên án giặc ngoại xâm, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.   Trong khi nhà cầm quyền nín nhịn không cho phép công bố sự thật về cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu và dã man này thì bộ máy truyền thông Trung Quốc, từ thông tấn báo chí đến văn học nghệ thuật suốt 35 năm nay đã ra rả gieo vào đầu thế hệ trẻ nước họ và dân chúng họ "về cuộc đánh trả tự vệ". Nhiều nguồn tin cho rằng có tới trên 90% người dân Trung Quốc vẫn hiểu rằng năm 1979 bộ đội Việt Nam đã vượt biên giới sang tấn công, bắt buộc quân đội họ phải tự vệ! Và, cũng do sự "nín nhịn" vì "đại cuộc" tệ hại này mà phần lớn học sinh tiểu học, trung học và thậm chí đa số trong hơn 1,4 triệu sinh viên nước ta hầu như không biết về cuộc chiến tranh xâm lược đẫm máu này! Máu người đâu phải là nước lã! Máu của chiến sĩ và đồng bào ta đã thấm đẫm biên cương phía bắc nước ta mười mấy năm trời. Ai sẽ phải gánh chịu trước lịch sử sự câm lặng về những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc cách đây 35 năm? Ai? Ai? Chẳng lẽ không ai cả sao? Có cái thứ ngoại giao "khôn ngoan" cỡ gì khi quyết bịt miệng dân bày tỏ lòng yêu nước, chí căm thù quân cướp nước, để cố giữ hòa khí giữa hai nhà nước cùng chung ý‎ thức hệ? Hay là người ta đang cố gắng đi tìm "kế sách Câu Tiễn" thế kỷ XXI? Vậy thì hãy để ai đó là "Câu Tiễn thế kỷ XXI" chịu nhục, chứ chớ dại dột bắt cả dân tộc này phải chịu nhục cùng với những Lê Chiêu Thống mới. Lịch sử đã từng ghi nhận những tấn bi kịch của những nhà cầm quyền quay lưng lại với ‎ý chí và nguyện vọng của dân để dựa dẫm vào ngoại bang nhằm giữ cái ngai vàng mục ruỗng, ngày nay là cái ghế quyền lực, đặt nó lên trên tổ quốc, phản bội lại truyền thống dân tộc. Ấy vậy mà dân tộc thì mãi mãi trường tồn! Chỉ có những triều đại, những chính thể yếu hèn, và do yếu hèn nhưng lại cố bám víu lấy quyền lực để vun vén cho lợi ích của vương triều hoặc của phe nhóm nên đã lúng túng, bế tắc, xa rời con đường quang minh chính đại của dân tộc, thì sớm muộn cũng phải tự cáo chung. Chính vì vậy, nhân 35 năm cuộc chiến tranh biên giới, chúng tôi, những người đang ưu tư về vận nước, những người đã từng ký‎ vào Tuyên bố lên án Trung Quốc xâm lược, Tuyên bố về thực thi Quyền dân sự và Chính trị, Tuyên bố về Hiến pháp sửa đổi 2013, Lời kêu gọi thực thi quyền con người theo Hiến pháp... công bố LỜI KÊU GỌI với nội dung như sau: 1. Chính thức tổ chức lễ tưởng niệm cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược trên toàn tuyến biên giới phía Bắc ngày 17.2.1979. Có nhiều hình thức tưởng niệm. Trước hết, đề nghị Nhà nước tổ chức trên quy mô cả nước và các địa phương. Cũng có thể do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể các cấp từ trung ương tới địa phương tổ chức để đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Từng cộng đồng dân cư, các nhóm hội đoàn và các cá nhân dưới các hình thức hoạt động xã hội dân sự tổ chức nhiều hình thức tưởng niệm phong phú và đa dạng tùy theo sáng kiến và hoàn cảnh riêng như: dâng hương, đặt vòng hoa tưởng niệm những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh biên giới, chống quân xâm lược, bảo vệ đất nước, quê hương. Vòng hoa tưởng niệm của cá nhân công dân yêu nước, của một nhóm người, một cộng đồng người tri ân người đã ngã xuống đặt tại nơi công cộng để đánh ‎thức lương tri của toàn xã hội nâng cao lòng yêu nước, quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ chủ quyền biển đảo, Hoàng Sa, Trường Sa. Mỗi cá nhân, mỗi gia đình có thể tổ chức tưởng niệm tại nhà riêng của mình theo hoàn cảnh và sáng kiến như trước đây chúng ta đã làm: thắp một nén nhang trên bàn thờ với khẩu hiệu: Đời đời đời nhớ ơn chiến sĩ và đồng bào đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược trên biên giới phía Bắc 17.2.1979. Khẩu hiệu này có thể dán trước cổng nhà, trước cửa ra vào nhà, trước bàn làm việc, đeo trên mũ, trước ngực khi đi ra đường trong một tuần kể từ ngày 17.2.2014. 2. Phải trả lại vị trí xứng đáng cho những anh hùng, liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh biên giới chống Trung Quốc xâm lược. Cần có chủ trương công khai và cụ thể trong việc tổ chức biên soạn và đưa vào sách giáo khoa các cấp về cuộc chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược tại biên giới phía Bắc gắn với cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam và cuộc chiến đấu chống xâm lược tại Hoàng Sa, Trường Sa (nhất là cuộc chiến đấu tại Gạc Ma) để thấy rõ thêm bộ mặt của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, nâng cao tinh thần cảnh giác và ‎ ý‎ thức bảo vệ chủ quyền quốc gia trên tất cả các mặt. Khẳng định rõ hành động bành trướng của giới cầm quyền Trung Quốc không những gây tội ác và hiểm họa cho đất nước ta và nhiều nước trong khu vực mà còn đi ngược và làm tổn hại tinh thần láng giềng hữu nghị của nhân dân Trung Quốc mà nhân dân ta luôn tôn trọng và cùng vun đắp vì lợi ích của hai dân tộc, vì hòa bình, phát triển ở khu vực và trên thế giới. Rà soát lại chính sách và chế độ đối với những chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh mà lâu nay vì những thiếu sót và sai lầm đã bỏ quên nhiều đối tượng, gây nên những bất công xã hội và bất bình trong nhân dân. 3. Chính thức đưa ngày 17.2 hàng năm là ngày kỷ niệm cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc như cách ông cha ta đã từng làm với Giỗ Trận Đống Đa kỷ niệm chiến thắng đánh tan 20 vạn quân xâm lược nhà Thanh thế kỷ XVIII. CHIẾN SĨ VÀ ĐỒNG BÀO ĐÃ NGÃ XUỐNG TRONG CUỘC CHIẾN ĐẤU CHỐNG QUÂN XÂM LƯỢC TRUNG QUỐC SỐNG MÃI TRONG KHÍ THIÊNG SÔNG NÚI CỦA TỔ QUỐC, TRONG ANH LINH TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC, TRONG TRÁI TIM CỦA MỖI NGƯỜI VIỆT NAM TP HCM, ngày 12.2.2014 ĐỒNG KÝ TÊN: 1. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), Đại biểu Quốc hội khóa 6, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP HCM 2. Lê Công Giàu, nguyên Phó Bí thư thường trực Thành đoàn Thanh niên Cộng sản TP HCM, nguyên Giám đốc Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư (ITPC), TP HCM 3. Trần Quốc Thuận, luật sư, nguyên Phó Chủ nhiệm thường trực Văn phòng Quốc hội 4. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM 5. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức Yêu nước TP HCM 6. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên Phó Bí thư Đảng ủy Sở Văn hóa Thông tin TP HCM 7. Giang Thị Hồng (bà quả phụ Lê Hiếu Đằng), cán bộ hưu trí, TP HCM 8. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM 9. Tô Lê Sơn, kỹ sư, TP HCM 10. Hạ Đình Nguyên, nguyên Chủ tịch Ủy ban Hành động thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (trước 1975), cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM 11. Bùi Tiến An, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên cán bộ Ban Dân vận Thành Ủy TP HCM 12. Tống Văn Công, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động, TP HCM 13. Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, TP HCM 14. Đào Công Tiến, PGS, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế TP HCM, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, TP HCM 15. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên văn hóa, TP HCM 16. André Menras Hồ Cương Quyết, cựu tù chính trị chế độ cũ, Cộng hòa Pháp 17. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, TP HCM 18. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, TP HCM 19. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ, cựu binh cuộc chiến 17/2, số hiệu quân nhân 79476979, TP HCM 20. Nguyễn Trí Nghiệp, giám đốc công ty Nông Trang Island, Vĩnh Long 21. Nguyễn Văn An, cán bộ hưu trí, TP HCM 22. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh 23. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM 24. GB. Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn 25. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM 26. JM. Lê Quốc Thăng, linh mục Giáo phận Sài Gòn 27. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TP HCM 28. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên, TP HCM 29. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM 30. Bùi An, TP HCM 31. Huỳnh Thị Ngọc Tuyết, hưu trí, TP HCM 32. Hà Dương Dực, cựu giáo sư trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt và cựu giáo sư Vạn Hạnh Sài Gòn, MBA Mỹ 1970 33. Trần Minh Quốc, tác giả bài thơ “Biển gọi”, TP HCM 34. Trần Hữu Kham, thương binh mù, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM 35. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TP HCM 36. Cao Lập, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới – Saigontourist 37. Huỳnh Thục Vy, Quảng Nam 38. Hoàng Cao, người Việt tỵ nạn 39. Đặng Nguyệt Ánh, TS, cán bộ hưu trí 40. Phạm Văn Đỉnh, TSKH, nguyên Giảng viên Đại học Pau (UPPA), Cộng hòa Pháp 41. Phạm Thu Hà, nội trợ, TP HCM 42. Nguyễn Lương Thúy Kim, TP HCM 43. Ngô Kim Hoa, nhà báo tự do, TP HCM 44. Trần Thế Việt, nguyên Bí thư thành ủy Đà Lạt, Lâm Đồng 45. Hồ Hiếu, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên cán bộ Phong trào đấu tranh của nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ TP Đà Lạt, nguyên Chánh văn phòng Quận ủy quận 1, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Thành ủy TP HCM 46. Phan Văn Thuận, doanh nhân, TP HCM 47. Nguyễn Mai Oanh, nghiên cứu viên nông nghiệp nông thôn, TP HCM 48. Nguyễn Văn Lê, nguyên Chánh văn phòng Ban Dân vận Thành ủy TP HCM 49. Lê Thanh Văn, nguyên Phó Ban Dân vận thành ủy TP HCM 50. Trần Văn Nhiệm, nguyên Phó Giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP HCM 51. Nguyễn Lê Thu An, nhà báo, TP HCM 52. Nguyễn Lê Thu Mỹ, nguyên chiến sĩ biệt động Sài Gòn, TP HCM 53. Trần Văn Mỹ, giảng viên Đại học Sài Gòn, đã nghỉ hưu, TP HCM 54. Hoàng Thị Lệ, cán bộ hưu trí, TP HCM 55. Lê Văn Tâm, TS Hóa, Ủy viên UBTƯMTTQVN, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt Nam ở Nhật 56. Hoàng Dũng, PGS TS, TP HCM 57. Trần Khuê, nhà nghiên cứu văn hóa, TP HCM 58. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TP HCM 59. Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội 60. Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, nguyên thành viên Viện IDS, Giám đốc Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội 61. Nguyễn Quang Lập, nhà văn, TP HCM 62. Trần Tố Nga, nhà giáo về hưu, Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp, hiện sống ở Paris 63. Nguyễn Thị Ngọc Toản, Đại tá, GS, bác sĩ, cựu chiến binh, Hà Nội 64. Nguyễn Thị Ngọc Trai, nhà văn, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam, Hà Nội 65. Phạm Xuân Phương, Đại tá, cựu chiến binh, nguyên phái viên của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Hà Nội 66. Lê Thăng Long, nhà nghiên cứu kinh tế - chính trị - xã hội, TP HCM 67. Nguyễn Huệ Chi, giáo sư, nguyên Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn học, Hà Nội 68. Phạm Toàn, nhà giáo, Hà Nội 69. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Đại học Bách khoa, Đà Nẵng, Phó Tổng thư ký Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam 70. Nguyễn Trung, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội 71. Hoàng Hưng, nhà thơ, dịch giả, TP HCM 72. Trần Công Thạch, cán bộ hưu trí, TP HCM 73. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, TP HCM 74. Lưu Trọng Văn, nhà báo, TP HCM
......

Ôn lại lịch sử cuộc chiến biên giới 1979 - 1989 (kỳ 3)

QUAN HỆ VIỆT - TRUNG QUA LỜI CÁC TƯỚNG TÁ ĐANG CẦM QUYỀN 1. Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng chia sẻ rằng: Thứ Trưởng Quốc Phòng Trung Tướng Nguyễn Chí Vịnh “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các quốc gia trên thế giới. Nhưng nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng, với hơn 1 tỷ 350 triệu dân, đang phát triển, có vị thế và uy tín ngày càng cao trên thế giới, một khi các đồng chí tôn trọng độc lập chủ quyền của Việt Nam và mong muốn Việt Nam cùng phát triển?”. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng cho hay: “Các thế lực thù địch hiện có hai luận điệu chống phá. Thứ nhất, là Việt Nam dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc. Thứ hai, là Việt Nam nhượng bộ để Trung Quốc lấy đất, lấy biển Việt Nam. Đây là các luận điệu bất lợi cho Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như quan hệ Việt Nam – Trung Quốc. http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/37476/-viet—trung-tuyet-doi-khong-du... 2. “…Đại tướng Phùng Quang Thanh ghi rõ: Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động diễn biến hòa bình; lợi dụng các hoạt động dân chủ, nhân quyền, tôn giáo nhằm xóa bỏ chế độ XHCN, chia rẽ quan hệ hữu nghị Việt – Trung, đang đặt ra những khó khăn, phức tạp mới cho Đảng, Chính phủ, nhân dân và quân đội hai nước.   Bộ Trưởng Quốc Phòng Đại Tướng Phùng Quang Thanh “Quân đội hai nước chúng ta cần tăng cường tình đoàn kết, hợp tác chặt chẽ và bảo vệ thành quả cách mạng của mỗi nước. QĐND Việt Nam đặc biệt coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện và bền vững với Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, đây là chủ trương nhất quán, là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại, quốc phòng của Việt Nam”, Đại tướng Phùng Quang Thanh khẳng định…” NGUỒN: http://qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/61/43/10/50/50/199608/Default.aspx 3. Đại tướng Phùng Quang Thanh bày tỏ lòng biết ơn Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc đã ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Bộ trưởng khẳng định Việt Nam luôn coi trọng quan hệ hữu nghị, đoàn kết truyền thống, đối tác hợp tác chiến lược toàn diện với Trung Quốc theo phương châm 16 chữ và tinh thần bốn tốt. Bộ trưởng khẳng định chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Việt Nam là Việt Nam không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác.http://www.vietnamplus.vn/Home/Quan-he-quoc-phong-VietTrung-ngay-cang-ph... 4. “Thủ tướng khẳng định Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam hết sức coi trọng và mong muốn cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân Trung Quốc tiếp tục đưa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, theo đúng phương châm 16 chữ và tinh thần 4 tốt. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng điều này phù hợp với lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, góp phần vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực.”http://dantri.com.vn/su-kien/tim-giai-phap-co-ban-lau-dai-cho-van-de-bie... Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng 5. ĐẠI TÁ-PGS-TS-NGND Trần Đăng Thanh: “KHÔNG ĐƯỢC QUÊN ƠN TRUNG QUỐC” Sau đây là đoạn audio ghi âm lại cuộc nói chuyện của Đại tá-PGS-TS-NGND Trần Đăng Thanh, Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng giảng về Biển Đông cho các lãnh đạo Đảng ủy khối, lãnh đạo Đảng, Tuyên giáo, Công tác chính trị, Quản lý sinh viên, Đoàn, Hội thanh niên các trường Đại học-Cao đẳng Hà Nội. Đại Tá Trần Đăng Thanh [Trích] Đối với Trung Quốc hai điều không được quên: họ đã từng xâm lược chúng ta nhưng ta cũng không được quên họ đã từng nhường cơm xẻ áo cho chúng ta. Ta không thể là người vong ơn bội nghĩa. Trung Quốc là anh bạn núi liền núi, sông liền sông, chung một Biển Đông, chung tình hữu nghị. Hoặc là nói như ông Hồ Cẩm Đào: sơn thủy thì tương liên, lý tưởng thì tương thông, văn hóa thì tương đồng, vận mệnh thì tương quan… Còn Mỹ, các đồng chí nhớ người Mỹ chưa hề, chưa từng và không bao giờ tốt thật sự với chúng ta cả … Nếu có tốt chỗ này, có ca ngợi chúng ta chỗ kia, có ủng hộ chúng ta về Biển Đông chẳng qua vì lợi ích của họ. Họ đang thực hiện “thả con săn sắt, bắt con cá rô”. Họ chưa bao giờ tốt thật sự với chúng ta, tội ác của họ trời không dung, đất không tha. Trước mắt là chúng ta phải tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng chúng ta, sự điều hành của Chính phủ. Nếu trường đại học nào còn để sinh viên tham gia biểu tình bất hợp pháp trước hết khuyết điểm thuộc về các đồng chí Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu trường đó, trước hết thuộc về Bí thư Đảng ủy – phòng quản lý sinh viên của trường Đại học đó. (Nghe toàn bộ audio ghi âm tại đây:https://anhbasam.wordpress.com/2012/12/19/1481-dai-ta-tran-dang-thanh-gi...) Theo nhật ký yêu nước.
......

Trung Quốc ép Việt Nam không được tưởng niệm Chiến tranh biên giới 1979?

Cuộc trao đổi qua đường dây nóng giữa ông Tập Cận Bình và ông Nguyễn Phú Trọng là lý do khiến Việt Nam đột ngột chấm dứt các hoạt động tưởng niệm 40 năm hải chiến Hoàng Sa và 35 năm Chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc 1979? Đèn xanh   2014 đánh dấu “năm chẵn” một loạt những sự kiện liên quan đến lịch sử bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam. Trong số này có 35 năm Ngày Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam (7/1/1979), 40 năm sự kiện Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ tay chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (19/1/1974) và 35 năm ngày Trung Quốc tung 60 vạn quân quân nổ súng tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía Bắc (17/2/1979). Trong khi sự kiện gắn với biên giới Tây Nam được tuyên truyền tương đối bình thường thì việc báo chí chính thống của Việt Nam nhắc tới Hoàng Sa 1974 và Chiến tranh biên giới 1979 là điều gần như không có nếu không tính quãng thời gian từ 2009 trở lại đây. Cũng cần phải nói rằng câu chuyện về cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới 1979 mới được hâm nóng trở lại trên các kênh truyền thông chính thức ở Việt Nam được vài năm nay mà bắt đầu là bài viết “Biên Giới Tháng Hai” của ký giả nổi tiếng Huy Đức (http://www.viet-studies.info/kinhte/HuyDuc_BienGioiThangHai.htm) trên báo Sài Gòn Tiếp thị ra ngày 9/2/2009. Lác đác trong những năm sau đó một số tờ báo như Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Pháp luật Tp.HCM...đã có một số bài viết trực tiếp hoặc gián tiếp nói đến sự kiện này trong đó nổi bật là báo Thanh Niên, tờ báo của Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Tháng 2/2011, báo Thanh Niên có bài viết về liệt sĩ Lê Đình Chinh (http://tinyurl.com/pm76349) và bài về chiến công chống quân Trung Quốc xâm lược của một đơn vị bộ đội tại Lạng Sơn năm 1979 (http://tinyurl.com/cas56wk) gây được sự chú ý của dư luận đặc biệt với hình ảnh về tấm bia ghi dấu chiến công bị đục bỏ. Năm 2013, đúng vào ngày 17/2, báo Thanh Niên cũng cho đăng tải bài phỏng vấn tướng công an Lê Văn Cương về việc phải công bố và đưa câu chuyện chiến tranh biên giới 1979 vào sách giáo khoa (http://tinyurl.com/n6cwr8w). Sau bài viết mang tính mở đường này nhiều tờ báo khác như Tuổi Trẻ, VietnamNet...cũng đã liên tiếp lên tiếng. Theo một nhà nghiên cứu, những diễn biến nóng trên Biển Đông trong những năm qua, nỗ lực của báo giới và những sức ép từ dư luận đã buộc chính quyền có độ mở nhất định đối với các thông tin về vụ Hoàng Sa 1974, Trường Sa 1988, chiến tranh biên giới 1979 trên các kênh chính thức của Việt Nam. Từ cuối tháng 12/2013 đầu 1/2014 một số tờ báo “lề phải” của Việt Nam bắt đầu đăng tải các bài viết về sự kiện Hoàng Sa 1974 với một sự thận trọng nhất định. Khởi đầu là Giaoduc.net.vn, tiếp sau đó là Tuổi Trẻ, Infonet.vn, PetroTimes, Vietnamnet...Tờ báo điện tử có lượng truy cập hàng đầu Việt Nam là Vnexpress.net đến gần sát thời điểm 19/1 cũng có một số bài. Các tờ báo chính thống như Nhân dân, Quân đội Nhân dân...như thường lệ không hề đả động gì đến những vấn đề vốn được mặc định là “nhạy cảm” này. Thanh Niên, nhập cuộc muộn hơn, nhưng tổ chức khá bài bản loạt bài về Hoàng Sa trên báo điện tử thành một chuyên đề (http://tinyurl.com/nlm6tql) với nhiều bài viết đa dạng. Sự kiện Hoàng Sa 1974 được tờ báo này nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc cạnh khá mạnh dạn so với báo chí chính thống trong nước. Việc báo chí có thể đăng tải thoải mái các tin bài về sự kiện Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974, thậm chí động đến những chuyện khá “nhạy cảm” và gây tranh cãi mà trước nay mới chỉ được đề cập trên các kênh phi chính thống. Trong số này có thể kể đến việc đòi đánh giá lại sự kiện Hoàng Sa, ca ngợi những hy sinh của binh lính Việt Nam Cộng Hòa và coi họ như những anh hùng liệt sĩ chống ngoại xâm...đã tạo dư luận cho rằng chính quyền đã bật đèn xanh cho việc tuyên truyền này. Tưởng niệm hay không tưởng niệm? Chiều 30/12/2013, báo Thanh Niên điện tử đã xuất hiện bản tin về việc “Sẽ kỷ niệm sự kiện 40 năm Hoàng Sa và chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc” (http://tinyurl.com/nfn9tgp). Bản tin này sau đó đã bị gỡ bỏ sau đó chỉ vài giờ đồng hồ. Tuy nhiên nội dung của nó đã được nhiều website đăng tải lại. Theo bản tin này, trong cuộc làm việc với Hội Khoa học lịch sử VN, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết, hiện Bộ Ngoại giao Việt Nam đang lên kế hoạch tưởng niệm 40 năm sự kiện Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (1/1974) và 35 năm sự kiện Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (2/1979). Bản tin của Thanh Niên còn cho biết Thủ tướng đã trả lời trực tiếp tại Hội Khoa học Lịch sử rằng: “Phải kỷ niệm. Nhưng kỷ niệm thế nào để ổn định. Rồi còn biên giới Tây Nam thế nào. Chứ không phải Bộ Chính trị không quan tâm”. Ông Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết hiện Bộ Ngoại giao Việt Nam đang soạn thảo đề án kỷ niệm sự kiện: biên giới phía Bắc, Hoàng Sa. “Kỷ niệm thế nào cho vừa đạt yêu cầu đối nội, vừa đạt yêu cầu đối ngoại. Đó cũng là lợi ích của nhân dân. Bộ Chính trị rất quan tâm đến việc kỷ niệm này”, ông Dũng được Thanh Niên điện tử trích dẫn.   Cú phanh đột ngột Trong khi nhiều người tin rằng đúng ngày 19/1/2014 hàng loạt các bài viết về sự kiện Hoàng Sa 1974 sẽ được hàng loạt tờ báo bung ra thì một điều bất ngờ xảy đến : hầu hết các tờ báo đều đột ngột ngừng việc đưa tin về sự kiện này từ 18/1. Sáng 18/1, trang web của UBND huyện Hoàng Sa cũng bất ngờ đăng lời cáo lỗi (http://tinyurl.com/ox8kf9w) của ông Đặng Công Ngữ, Chủ tịch UBND huyện, về việc hủy chương trình tưởng niệm, thắp nến tri ân Hướng về Hoàng Sa dự kiến sẽ được tổ chức vào 19h00 cùng ngày tại tại Công viên Biển Đông, thành phố Đà Nẵng. Lý do được đưa ra là “do công tác chuẩn bị chưa được chu đáo” nên chương trình ca nhạc hát về biển đảo quê hương và Lễ thắp nến tri ân Hướng về Hoàng Sa đã không thể diễn ra theo kế hoạch. Cũng trong sáng 18/1, báo Thanh Niên điện tử cho đăng tải bài phỏng vấn cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (http://tinyurl.com/nvzs2hl) liên quan đến chủ đề Hoàng Sa 1974 và Chiến tranh biên giới 1979. Tuy nhiên bài viết này sau đó cũng nhanh chóng bị gỡ xuống. Đến thời điểm ấy người ta chỉ có thể lờ mờ phỏng đoán đã có một quyết định được đưa ra vào giờ chót, ngay trước 19/1/2014, nhằm ngăn cản việc tưởng niệm sự kiện Hoàng Sa 1974 đồng thời “bịt miệng” báo chí trong nước. Điều khó hiểu là quyết định này dường như được đưa ra khá bất ngờ chứ không phải như chủ trương “đèn xanh” như trước đó. Dường như đã có một sự thay đổi vào phút chót trong việc kiểm soát thông tin của sự kiện này từ giới lãnh đạo Việt Nam. Ngày 21/1, sau cuộc giao ban báo chí định kỳ hàng tuần của lãnh đạo Ban Tuyên giáo, Bộ Thông tin và Truyền thông với lãnh đạo các báo, đài, trên một số diễn đàn báo chí đã lan truyền thông tin lãnh đạo báo Thanh Niên và Infonnet.vn đã bị “cạo” ra trò tại cuộc giao ban này. Cũng xuất hiện thông tin nói rằng báo Thanh Niên và báo Infonet.vn sẽ bị kỷ luật do không chấp hành chỉ đạo liên quan đến việc tuyên truyền về sự kiện Hoàng Sa 1974. Chỉ thị mật Điều có lẽ không nhiều người biết biết đó là vào ngày 16/1/2014, các tổng biên tập, giám đốc các cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình đã bất ngờ được Ban Tuyên giáo triệu tập đến trụ sở của cơ quan này tại 2 Hoàng Văn Thụ, Ba Đình, Hà Nội. Họ được gọi lên để nhận tận tay một chỉ thị mật liên quan đến việc tuyên truyền về Hoàng Sa 1974 và Chiến tranh biên giới 1979. Theo một cựu lãnh đạo báo chí thì việc gọi các Tổng biên tập đến để trao tận tay một văn bản chỉ đạo mật là điều ít khi xảy ra. Thông thường các vụ việc thế này Ban Tuyên giáo chỉ cho người gọi điện/gửi tin nhắn hoặc qua đường công văn. Nội dung chính của chỉ đạo mật này đó là theo yêu cầu trực tiếp từ Bộ Chính trị, các cơ quan báo chí phải tuân thủ nghiêm “kỷ luật thông tin” trong tuyên truyền về Hoàng Sa, Trường Sa và chiến tranh biên giới phía Bắc năm 1979. Cụ thể, dưới sự chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Tuyên giáo đã ra lệnh cho các báo không được đưa tin về các hoạt động kỷ niệm, tưởng niệm các sự kiện nêu trên nếu chưa có sự chỉ đạo của Ban Tuyên giáo TƯ. Các báo, đài nào đã đăng thì được yêu cầu phải “dừng ngay” và “tuyệt đối không được đăng tiếp”. Chỉ thị mật này cũng nêu rõ khi cần báo, đài nào lên tiếng, Ban Tuyên giáo TƯ sẽ có sự chỉ đạo cụ thể đồng thời răn đe, dọa dẫm, yêu cầu một cách khá gay gắt rằng các cơ quan báo chí “không được tự tiện, manh động”. Bên cạnh đó chỉ thị đồng thời cũng yêu cầu “thông tin, tư liệu về chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vẫn giữ mức độ, nội dung, cách thức tuyên truyền như lâu nay” (?!) và không đẩy việc tuyên truyền lên mức cao hơn. Đặc biệt, chỉ thị mật này yêu cầu báo chí “tuyệt đối không đưa thông tin kích động, gây tâm lý dân tộc cực đoan, làm nóng dư luận, gây bất lợi về đối nội, đối ngoại” và chú ý đến các nội dung liên quan đến “đấu tranh phản bác thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tác đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước tạo chia rẽ, tạo mâu thuẫn trong quan hệ Việt Nam- Trung Quốc”. Trong chỉ thị này Ban Tuyên giáo TƯ cho biết họ cùng Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ thành lập một “Tổ công tác đặc biệt” để chỉ đạo, theo dõi việc thực thi chỉ thị và các các báo, đài vi phạm sẽ bị xử lý nghiêm khắc. Đường dây nóng Một nguồn thạo tin tại Hà Nội cho biết ngày 15/1/2014 phía Trung Quốc đã bất ngờ nêu yêu cầu trao đổi giữa Chủ tịch, Tổng Bí thư Trung Quốc Tập Cận Bình với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đường dây nóng nhân dịp kỷ niệm 64 năm Ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc (18/1/1950-18/1/2014). Nguồn tin không nói rõ thời điểm cuộc điện đàm được thực hiện, nhưng nhiều khả năng thời gian điện đàm từ 15-16/1/2014. Điều đáng chú ý là theo thông tin công khai trên báo chí thì có một cuộc điện đàm với lý do tương tự (http://tinyurl.com/pww2foa) nhưng được thực hiện vào ngày 22/1/2014 cũng giữa ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tập Cận Bình. Thông tin công khai này không cho biết cuộc điện đàm bình thường hay được thực hiện qua đường dây nóng. Không rõ đây chính là cuộc điện đàm được thực hiện trước thời điểm 16/1/2014 nhưng được ém thông tin và đăng tải thành ngày 22/1/2014 hay là một cuộc điện đàm khác. Theo dự đoán của người viết thì nhiều khả năng chỉ có một cuộc điện đàm nhưng thời gian công bố đã có sự điều chỉnh. Nguồn tin cũng cho biết nhiều khả năng trong cuộc điện đàm này phía Trung Quốc đã đưa ra yêu cầu và được ông Nguyễn Phú Trọng đồng ý về việc Việt Nam hủy bỏ chương trình tưởng niệm Hoàng Sa 1974 và Chiến tranh biên giới 1979 mà trước đó được dự kiến thực hiện. Nếu điều này là sự thật thì có thể thấy một lần nữa Trung Quốc lại cho thấy sự cao tay trong việc “dắt mũi” giới lãnh đạo Việt Nam khi đặt Hà Nội vào thế bị động. Nó cũng cho thấy những nhà lãnh đạo chủ chốt của Việt Nam thiếu tầm nhìn trong việc ứng xử với Trung Quốc như thế nào, nguồn tin bình luận. Hẳn là Hà Nội chưa quên bài học vừa mới xảy ra năm ngoái khi họ đón Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường ngay trong thời điểm lễ Quốc tang Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Việc những lá cờ rủ đã buộc phải thay đổi cấp tập thành cờ mừng đã gây ra một làn sóng dư luận phẫn nộ trong dân chúng. Một chuyên gia về chính trị Việt Nam cho rằng những ứng xử mang tính chất đối phó và dường như có phần quá nể sợ Trung Quốc của giới lãnh đạo Việt Nam cho thấy họ sẽ chẳng bao giờ có được sự tôn trọng từ phía người láng giềng “khó chơi”. “Người Trung Quốc vốn kính nể những đối thủ cứng rắn. Họ muốn các chư hầu thần phục nhưng cũng coi thường những kẻ thần phục. Đó là văn hóa của họ”. “Điều mà tôi lo lắng là không biết đến bao giờ chúng ta mới có những thủ lĩnh đủ tầm trong ứng xử với Trung Quốc Nếu những nhà lãnh đạo quốc gia của chúng ta cứ mãi “trẻ con” thế này thì đất nước sẽ còn tiếp tục bị đè nén và sỉ nhục”.   Hà Nội ngày 4/2/2014 (Kỷ niệm 225 Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, Xuân Kỷ Dậu 1789) Hoàng An Vĩnh Nguồn: viet-studies.info
......

Văn tế Đồng bào và Chiến sĩ tử trận trong cuộc chiến tranh vệ quốc tháng 2 năm 79

Hỡi ơi! Thấm thoắt đã ba lăm năm Mới đấy đã thành thiên cổ! Trời biên giới ầm vang tiếng súng, thanh niên lớp lớp lên đường Miền biên cương máu nhuộm đỏ sông, dân chúng nhà nhà tan tác Nhớ linh xưa: Chiến sĩ tòng chinh Tuổi hoa niên đang bận sách đèn Lòng trai tráng chứa bao mơ ước Đáp lời non sông, hăm hở lên đường Từ biệt quê hương, gạt niềm thương nhớ Súng bắn chưa quen, quân sự đôi bài, đánh giặc bằng lòng căm hận Chiến trận chưa từng, ba lô một gánh, nhắm bắn bằng nỗi hờn căm. Nhân dân biên giới Đang yên ổn làm ăn, đâu ngờ phút chốc loạn ly Gặp buổi thanh bình, ai tưởng được điều thảm khốc Pháo giao thừa vừa nổ, hội xuân vừa mở rộn ràng Năm mới vừa sang, hy vọng ngập tràn phơi phới Đì đùng súng bắn, trẻ con vẫn tưởng pháo giao thừa Loa réo vang trời, cụ già còn ngờ loa hội mở Thương thay! Chiến đấu ngoan cường, xông thẳng nơi mũi tên hòn đạn Kiên trung giữ đất, sợ chi nơi súng nổ pháo rền. Máu loang mặt đèo, mùi thuốc súng khét lẹt còn vương Xác nghẽn gềnh sông, tiếng kêu thương ngút trời đau xé Địch giết người không ghê tay Địch nã pháo không ngừng nghỉ Hãm hiếp đàn bà, lộ mặt loài dê chó. Tiếng kêu thương xé nát một góc trời Cắt đầu trẻ nhỏ, hiện rõ lũ sài lang. Hồn oan khuất vật vờ miền biên viễn. Ôi! Máu xương gửi lại biên cương Hồn phách tụ về nơi đền miếu Tuổi thanh xuân dâng Tổ quốc ngàn năm Hoa chiến thắng dâng Đất Mẹ vạn thưở. Đền nợ nước nào đợi vinh danh Chết vì dân đâu chờ tưởng vọng Hôm nay Tưởng niệm 35 năm ngày kết thúc chiến tranh Thương nhớ 60 ngàn đồng bào ra đi vĩnh viễn Chúng tôi Đốt nén hương thơm Dâng vòng hoa thắm Đơn sơ lễ bạc lòng thành Thành kính tâm hương dâng cúng Cúi xin chư vị anh linh sống khôn thác thiêng Phù trợ cho Non sông đất nước thăng bình muôn thưở Cũng xin chư vị Tha thứ hết lỗi lầm Của những kẻ cố tình vong ân bội nghĩa Của những kẻ quên hết công lao và máu xương của chư vị anh linh Lại xin chư vị anh linh, cùng chúng tôi: Nguyền rủa đời đời bọn bành trướng Bắc Kinh Nhắc nhở muôn năm mối thù truyền kiếp! Hỡi ơi! Hồn có linh thiêng Xin về nhận hưởng! Lâm Khang phụng soạn Nguồn: xuandienhannom.blogspot.com
......

Sài Gòn tưởng nhớ Hoàng Sa

Bốn mươi năm qua cứ đến ngày 19.1, ngày giặc Tàu chiếm Hoàng Sa của tổ tiên ta, trong trái tim mọi người Việt Nam lại thầm thì, tha thiết gọi tên Hoàng Sa! Hoàng Sa!   Năm nay tiếng Hoàng Sa không phải chỉ là tiếng thầm thì, tha thiết trong tim mà đã vang lên thành tiếng gọi vang vọng trong không gian, vang vọng trong thời gian, vang vọng từ thế hệ trước sang thế hệ sau, vang vọng ở mọi nơi trên đất nước Việt Nam, vang vọng ở mọi nơi có người Việt sinh sống trên thế giới. Chiều 18.1.2014, khoảng 100 người Sài Gòn gọi nhau đến Phòng họp Phạm Tiên Long, 43 đường Nguyễn Thông, quận Ba, để được cùng nhau nhắc đến Hoàng Sa, để nghe tiếng Hoàng Sa từ trong lồng ngực vang trong không gian, để tưởng nhớ những dòng máu Việt Nam đã hòa trong nước biển Hoàng Sa. Tại đây, Câu lạc bộ Phaolô Nguyễn Văn Bình đã tổ chức thánh lễ tưởng niệm, tri ân và cầu nguyện cho tất cả đồng bào và chiến sĩ đã bỏ mình để bảo vệ biển đảo Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988), dưới sự Chủ tế của Linh mục Nguyễn Trọng Viễn. Có mặt ở đây, bên nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu 95 tuổi là hai người vợ góa của hai chỉ huy chiếm hạm chiến đấu và ở lại mãi mãi với Hoàng Sa, bà Ngô Thị Kim Thanh vợ tử sĩ Nguyễn Thành Trí, Thiếu tá hạm phó hộ tống hạm Nhựt Tảo và bà Huỳnh Thị Sinh vợ tử sĩ Ngụy Văn Thà, Trung tá hạm trưởng hộ tống hạm Nhựt Tảo. Những trí thức: bác sĩ Huỳnh Tấn Mẫm, GS Tương Lai, nhà khoa học Huỳnh Kim Báu, kỹ sư Đỗ Thái Bình, PGS TS Hoàng Dũng, TS Vũ Thị Phương Anh, TS Nguyễn Xuân Nghĩa, các nhà thơ Nguyễn Duy, Hoàng Hưng, nhà văn Phạm Đình Trọng, các nhà báo Lê Phú Khải, Lê Công Giàu, Thế Thanh, Nguyễn Quốc Thái, các nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Thị Khánh Trâm,… bên cạnh những gương mặt của tuổi trẻ Sài Gòn. Từ trái qua: Các anh Huỳnh Tấn Mẫm, Tương Lai, Huỳnh Kim Báu, Lê Công Giàu Từ trái qua: bà Ngô Thị Kim Thanh và bà Huỳnh Thị Sinh Mở đầu buổi lễ, Linh mục Chủ tế nêu rõ: “Chúng ta nhớ lại lịch sử Hoàng Sa không để oán thù mà để khơi dậy lòng yêu nước, yêu hoà bình và công lý”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu đã đọc bài luận văn quan trọng “Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa của Việt Nam”, trong đó ông lược thuật diễn biến lịch sử của việc quản lý liên tục Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam từ các chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1945), Bảo Đại (1949), Việt Nam Cộng hoà (1955) cũng như quá trình Trung Quốc (Cộng sản) xâm chiếm quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Kết thúc bài nói, ông chân thành bộc lộ tâm sự của một trí thức công giáo Sài Gòn đã từng ủng hộ miền Bắc trong cuộc “kiến tạo độc lập – thống nhất”: “Sau tháng 4/1975, dần dần tôi mới thấy ý đồ của TQ đã từ lâu vẫn giữ não trạng “đại Hán” xâm chiếm từng mảng lãnh thổ hay lãnh hải của nước ta mỗi khi có nguy cơ ngoại xâm hay nội chiến. Nói ra quá đau lòng, nhưng đó là sự thật”. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu Linh mục Lê Quốc Thăng, người con của một sĩ quan hải quân Sài Gòn (tàu HQ 5) bảo vệ Trường Sa và cháu của hai sĩ quan tham gia chiến đấu trên HQ 10 trong trận chiến bi hùng 17-19/1/1974, đã kết thúc phần giảng lễ với lời nguyện: “Hòa bình không thể tách rời khỏi những đòi hỏi của công lý, được hỗ trợ bằng sự hy sinh, lòng khoan dung nhân từ và tình yêu thương của con người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các quốc gia, nhất là các nước lớn mạnh biết tôn trọng các công ước quốc tế được ký kết, biết đối xử bình đẳng, tôn trọng giữa các quốc gia và biết đối thoại trong sự thật để xây dựng hòa bình trên thế giới và khu vực”. Linh mục Lê Quốc Thăng Thay mặt những người dự lễ, GS Tương Lai có bài phát biểu đầy nhiệt huyết và mạnh mẽ nói lên tâm tình của trí thức nhân sĩ và nhân dân luôn đau đáu nỗi đau Hoàng Sa, Trường Sa, kiên trì lên tiếng đòi Nhà nước thể hiện quyết tâm bảo vệ biển đảo của đất nước ở những việc làm rõ ràng, cụ thể. Một trong những việc ấy là: sớm chính thức biểu dương lòng yêu nước của các chiến sĩ bảo vệ Hoàng Sa năm 1974 (xem toàn văn bài Và rồi hôm nay cánh cửa đã hé mở đăng ngay sau bài này). GS Tương Lai đang phát biểu Sau buổi lễ, một số anh em đến nhà của bà Ngô Thị Kim Thanh, một căn hộ ở chung cư Trần Quốc Toản, để thắp nhang cho liệt sĩ Nguyễn Thành Trí. Vừa đến cầu thang chung cư, thì gặp hai nhà báo Huy Đức và Mạnh Quân đang ôm một giỏ hoa quả đi lên. Sau khi thắp nhang, kỹ sư Đỗ Thái Bình và nhà báo Huy Đức thông báo cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Thành Trí và cả bà quả phụ Ngụy Văn Thà về kết quả cho đến nay của chương trình Nhịp cầu Hoàng Sa. Hai anh nhấn mạnh chương trình sẽ là một điểm nối kết Nam Bắc, thúc đẩy tình cảm hòa giải hòa hợp dân tộc. Hoàng Sa – đó là nơi chúng ta thấy rõ kẻ xâm lược. Mà xâm lược thì thời nào cũng vậy, là kẻ thù chung của con dân nước Việt, bất kể Nam hay Bắc.   Từ trái qua: kỹ sư Đỗ Thái Bình, nhà văn Phạm Đình Trọng, nhà báo Huy Đức, nhà báo Mạnh Quân, nhà văn Phạm Đình Trọng và hai người con của liệt sĩ Nguyễn Thành Trí – Nguyễn Thị Thanh Thảo và Nguyễn Thanh Triết. Nhà văn Phạm Đình Trọng thắp nhang TS Phạm Chí Dũng thắp nhang   Nguồn: PV BVN  
......

Pages