Khi ngòi bút mạnh hơn nòng súng

Những người cầm bút không phải là người cầm súng nhưng họ không hề run sợ trước họng súng... (Nhân một đồng nghiệp và cũng là một người anh đáng kính của MTA, nhà văn Nguyễn Quang Lập bị bắt, xin đăng một bài viết của MTA (có đăng trong BoLap QueChoa), như một lời bày tỏ với anh Bọ rằng, dù anh đang ở trong ngục tù đen tối thì chúng tôi luôn ở bên anh, ở cùng anh...) Những người cầm bút, nhà văn, nhà thơ, nhà báo...cũng như mọi người dân Việt Nam bình thường khác. Họ yêu Tổ Quốc, yêu Dân Tộc, yêu Hòa Bình và ghét Chiến Tranh bạo tàn... Họ kính trọng Thần Thánh, Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, tôn Sư trọng Đạo... Họ tôn trọng các giá trị đạo đức, luân lý và các giá trị giường cột tạo nên một xã hội nhân bản và đáng kính như xã hội Việt Nam từ ngàn đời. Họ tôn trọng pháp luật, và dù không hẳn đồng ý với nhiều điều nhưng họ không chống lại pháp luật bằng lật đổ pháp luật. Và họ không dùng súng để kêu gọi bạo lực mà dùng ngòi bút để chống bạo lực, bất công, đem lại công bằng xã hội, chống kẻ thù bên trong và bên ngoài... Vì họ biết được đôi chữ Thánh Hiền thì thật có tội nếu không đem chữ ấy phụng sự cho Quốc Gia... Vì họ có cái Tâm cho Quê Hương, thì thật có tội khi không đem Tâm ấy phụng sự cho Quê Hương... Họ cũng như mọi công dân khác, họ có quyền yêu ai, ghét ai, có quyền yêu màu Trắng ghét màu Đen, yêu màu Xanh ghét màu Đỏ hay ngược lại...Họ có quyền thích người này ghét người kia, thích nhóm này ghét nhóm kia hay ngược lại...và có quyền phát lộ chính kiến một cách công khai, hòa bình... Chính quyền của dân, vì dân và do dân không thể là chính quyền bắt bớ, giam cầm hay đe dọa bắt bớ, giam cầm những con người không có tội nào ngoài tội có chữ và và dùng chữ ấy để đền đáp cho quê hương, cho dân tộc mình... Chính quyền sẽ phạm tội ác nếu dùng bạo lực, bạo quyền để bắt giam những con người chỉ dùng ngòi bút chính nghĩa để chống lại bất công, bất nghĩa, để giúp dân oan, dân khổ... Và cũng đừng đe dọa bạo lực, bạo quyền vì giờ đây ngoài cái Tâm, cái Tài thì những người cầm bút còn có cái Dũng của những người nguyện dấn thân để chống lại bạo lực bạo quyền... Ngạn ngữ nước ngoài có câu rằng :"Ngòi bút không giết được ai nhưng có thể lật đổ cả một vương triều". Chính quyền hãy coi mọi người cầm bút, không phân biệt lề trái phải là những đối thủ đối thoại văn minh, chứ không phải là kẻ thù hoặc tiềm tàng là kẻ thù... Chính quyền đừng làm ngược với lòng dân thêm nữa khi đã bắt giữ vô lý, đang bắt giữ vô lý và còn đe dọa bắt giữ vô lý những người cầm bút, những người trí thức mà giờ đây trước cơ đồ của dân tộc, họ quyết đứng thẳng người dưới ánh sáng mặt trời, đối diện với bạo quyền để không phải thẹn với tổ tiên, không phải hèn với dân tộc và không phải nhục với quốc gia... Và cuối cùng chính quyền đừng đem bạo quyền, ngục tù, chết chóc ra để dọa dẫm những con người cầm bút, vì họ đã chấp nhận tất cả những điều đó từ trước khi tự nguyện dấn thân rồi... Mai Tú Ân Theo FB MTÂ
......

AI TRẤN ÁP AI ?

Tiếp theo giáo sư Lê Hồng Thọ là đến nhà văn Nguyễn Quang Lập bị bắt vì điều 258.Cả hai người đều có điểm tương đồng giống nhau, có địa vị, học thức, tuổi tác và tư cách đạo đức. Cả hai cùng lập blogger và cùng chung một hướng điểm tin. Nếu nói xa hơn chút về trước thì có nhà văn Phạm Viết Đào, Nguyễn Hữu Vinh đều có một số điểm giống nhau tương tự. Họ đều là những trí thức khát khao thông tin, tự do ngôn luận trong xã hội. Hoạt động gần như độc lập, không tham gia đảng phái hay nhóm xã hội nào. Chủ trương hoạt động của họ là cung cấp thông tin đa chiều đến bạn đọc, có chọn lọc chất lượng tin tức. Bởi thế họ đều có số lượng bạn đọc lớn. Thu hút được niềm tin của bạn đọc cũng như tạo được uy tín cho trang cá nhân của mình. Ngoài những bài viết, bài đăng có tính phản biện những vấn đề nội bộ xã hội Việt Nam. Họ đều giống nhau ở điếm thái độ phản kháng hành vi xâm lược của nhà cầm quyền Trung Quốc. Những người bị bắt này đa số bằng cách này hay phương pháp khác đều thể hiện sự phản đối nhà cầm quyền Trung Quốc. Vậy chúng ta liệt kê lại những mâũ số chung của những người này. - Chống TQ xâm lược - Có địa vị, tư cách, học thức - Có số lượng bạn đọc lớn - Có uy tín trong các bài đăng. - Cá nhân độc lập. - Trang cá nhân có sự hấp dẫn như một tờ báo. Nhìn những mẫu số chung này của họ, có thể khẳng định họ không phải là đối tượng của cơ quan an ninh như cục A67, A88. Hai cục chống tôị phạm có tổ chức. Thường thì các cơ quan an ninh phụ trách phần mình sẽ theo dõi, lập hồ sơ và chuyển cho cơ quan an ninh điều tra A92 tiến hành bắt giữ và khởi tố vụ án. Ví dụ bạn là người liên quan đến đảng phái bên ngoài, A67 sẽ theo dõi lập hồ sơ, thu thập chứng cứ để chuyển cho A92 khởi tố. Hoặc bạn là người trong nhóm dân oan , giáo dân, phật tử thì A88 sẽ lập hồ sơ, thu thập chứng cứ rồi chuyển cho A92 bắt giữ và tiếp tục khai thác để truy tố. Ngoài ra có A69 là cục trinh sát rải quân đi tìm kiếm các con mồi, sau đó phân loại đưa về cho các cục chuyên môn như A67, A88, A65, 63, 83, 87..... A83 là cục an ninh chính trị nội bộ, A87 là cục an ninh thông tin , truyền thông. Khả năng những . Những cục trực thuộc tổng cục an ninh nội địa, viết tắt là tổng cục 2 BCA do tướng Hoàng Kông Tư là tổng cục trưởng. Những người bị bắt trên chắc chắn xuất phát từ hai cục an ninh A83 và A87. Phân tích tiếp thì những mẫu số chung của những người này, nhất là yếu tố chống Trung Quốc đứng đầu, thuộc dạng tức quan điểm chính trị mâu thuẫn với đường lối chính trị của đảng cộng sản Việt Nam. Có thể kết luận tiếp họ là đối tượng của A83, cục an ninh chính trị nội bộ. Trong bộ Công An, các cục trưởng tuỳ thuộc vào chuyên môn của mình phối hợp với các bộ khác. Ví dụ về kinh tế thì phối hợp với bộ Tài Chính, Công Thương, Ngân Hàng Nhà Nước... về an ninh đối ngoại phối hợp với Bộ Ngoại Giao, về an ninh tôn giáo phối hợp với Ban tôn giáo chính phủ...nói chung thì trong Đảng có nhiều ban. Và những cục an ninh của BCA phải phối hợp với những ban hoặc bộ này. Thường thì là ban nào đó của Đảng nhiều hơn là bộ, ban cho ý kiến, bộ chỉ là phối hợp. Những ban của Đảng này có ý kiến chỉ đạo trong những vụ viêc. Đảng CSVN thông qua những ban này để điều hành quyền lực của mình, hầu hết mọi việc nhà nước, chính phủ làm đều chịu sự kiểm soát  và theo dõi, chỉ đạo của những ban này. Người đứng đầu những ban này quyền lực có khi còn hơn cả bộ trưởng. Đây mới chính là bộ máy phát minh ra những tư tưởng, chính sách trọng yếu cai trị đất nước trong từng lãnh vực. Những ban này thường giấu mặt, ít khi xuất hiện trên báo chí. Mục đích muốn tạo cho người dân thấy đất nước hoạt động theo một cơ cấu bình thường như các đất nước khác, các bộ trưởng thì hành nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của chính phủ. Tương tự như thế, ở cấp hành chính địa phương có bí thư tỉnh uỷ bên cạnh chủ tịch tỉnh. Mỗi một ban quan trọng thường do một uỷ viên Bộ Chính Trị phụ trách, hoặc ít nhất là uỷ viên trung ương có vị thế gần bằng uỷ viên BCT. Cục A83 của BCA ngoài sự chỉ đạo chung của bộ trưởng CA ra, việc thường xuyên là nhận chỉ đạo của Ban Tuyên Giáo Trung Ương trong những vấn đề xử lý các tư tưởng như họ gọi là lệch lạc, đi trái với quan điểm của Đảng trong nội bộ nhân dân, nhằm bảo đảm xã hội đi đúng định hướng  lý luận Mác Lê Nin , tư tưởng HCM. Đặc biệt là ban này vừa kiểm soát về báo chí lẫn tư tưởng chính trị. Cho nên dù là A83 hay A87 tiến hành thì cũng quy về một mối chỉ đạo là ban Tuyên Giáo Trung Ương do Uỷ Viên BCT Đinh Thế Huynh là trưởng ban. Những người bị bắt nêu trên là những người độc lập, có tư tưởng chính kiến, có ảnh hưởng trong xã hội. Việc làm của họ đụng chạm đến đường lối của Ban Tuyên Giáo Trung Ương. Có thể kết luận những cuộc bắt bớ vừa qua là chủ trương trấn áp về mặt tư tưởng bài Trung Quốc, dằn mặt những đảng viên cán bộ có tư tưởng phản đối Trung Quốc. Đây cũng là bước phối hợp để bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú  vào ngày 6 tháng 12 năm 2014 với cử tri có thêm trọng lượng. http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/210571/-giu-doc-lap-chu-quyen--giu-cho...   "Tôi đã nhiều lần nói ta với TQ là láng giềng, phải ăn đời ở kiếp với nhau, xúc đất đổ đi được không? Ta giữ được độc lập chủ quyền, nhưng cũng phải giữ cho được chế độ, bảo đảm cho được Đảng lãnh đạo, môi trường hòa bình ổn định để xây dựng, phát triển đất nước, giữ cho được quan hệ hòa hiếu với các nước, trong đó có TQ", Tổng bí thư nói. "Hay nói cứng chỉ một vế thôi? Việc lợi dụng kích động biểu tình đập phá, hình ảnh VN còn tốt được không? May mà ta đã xử lý kiên quyết. Phải rất bình tĩnh, tỉnh táo, khôn khéo, có hiệu quả, nóng mắt lên là nguy hiểm. Thực tế vừa rồi các nước cũng đánh giá cao cách xử lý của ta, mềm dẻo, khôn khéo, vẫn giữ được quan hệ, và còn phải lâu dài chứ không phải chỉ một trận là xong", ông Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh "yêu nước nhưng phải đúng mức". Tổng bí thư cũng lưu ý rằng các đối tượng xấu rất muốn kích động tình hình trong nước ta, đặc biệt là tư tưởng bài nước này, chống nước kia. ----------------------------------   Mục đích của đợt bắt giữ liên tiếp hai blogger như Lê Hồng Thọ và Nguyễn Quang Lập là nhằm trấn áp những tư tưởng chống đối TQ, đi ngược với đường lối của ĐCS. Bài phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng ngay sau đó đã cho thấy rõ sự việc đằng sau việc bắt hai blogger này là nhằm phục vụ một chiến lược chính trị. Người Buôn Gió
......

Ngày mừng vui, thôi thúc nhất

Ngày 10-12-1948 Liên Hiệp Quốc long trọng thông qua bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, đánh dấu một thắng lợi lịch sử của loài người văn minh, sau khi đánh bại phát xít Đức và quân phiệt Nhật. Điều mỉa mai của lịch sử là phong trào cộng sản thế giới từng tham gia tích cực vào sự nghiệp loại trừ phát xít và quân phiệt lại là lực lượng chà đạp nhân quyền còn tệ hại hơn cả phát xít và quân phiệt. Qua cuộc Chiến tranh lạnh gay go và khốc liệt, nguy cơ cộng sản phi nhân tính mang mặt nạ con người đã bị loại bỏ, với sự sụp đổ của Bức tường Berlin ô nhục, sự tan rã của đế quốc Xô Viết phản nhân loại. Hiện nay cuộc đấu tranh bảo vệ nhân quyền của thế giới văn minh đã được thu lại với phạm vi rất hẹp so với trước, chỉ còn một số nước độc tài ở Châu Phi, Trung Đông và một vài nước cộng sản số gồm Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba và Việt Nam. Qua kinh nghiệm bản thân, nhân dân ta ngày càng cảm nhận sâu sắc rằng chủ nghĩa cộng sản trên thực tiễn là kinh nghiệm chết người của dân tộc, là lầm lẫn khổng lồ của lịch sử Việt Nam, là chế độ chính trị tệ hại hơn cả chế độ thuộc địa và chế độ phong kiến, đặc biệt là về mặt chà đạp quyền sống của con người cũng như chà đạp hiến pháp và luật pháp của đất nước. Điều rất đáng mừng là những chân lý trên đây đã được một bộ phận trí thức, thanh niên, văn nghệ sỹ, nhà báo luật gia, nông dân, nhà kinh doanh vừa và nhỏ nhận ra ngày càng rộng và sâu sắc, để cho Ngày 10-12-2014 năm nay là một ngày thật sự vui mừng, phấn chấn, thôi thúc sự dấn thân cho nhân quyền, cũng là cho nền độc lập trọn vẹn, toàn vẹn lãnh thổ lãnh hải, biển đảo của Tổ quốc, tự mình đứng ra cứu nước, cứu dân. Năm qua là năm trỗi dậy xuất sắc của các lực lượng nhân quyền và dân chủ rất đáng trân trọng tuy còn nhỏ yếu. Các bạn đã làm từ những việc nhỏ đến việc lớn. Hàng vạn bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền được in ra rất đẹp và phân phát khắp nơi. Các cuộc Hội luận về nhân quyền được mở ra rộng khắp, trong phòng họp, trong gia đình, ngòai trời, nơi du ngọan, cắm trại. Các tổ chức xã hội dân sự xuất hiện ngày càng đông. Bản Thông điệp về Nhân quyền năm nay mang chữ ký của 24 thành viên là một cuộc biểu dương lực lượng đáng mừng. Hàng trăm blogger tự do với các mạng thông tin phong phú, kịp thời, với những phóng sự ảnh sinh động được công luận tìm đọc, vượt hẳn hàng trăm tờ báo tẻ nhạt, nhàm chán, bịp bợm của lề phải do ban tuyên huấn chăn dắt một cách luộm thuộm hớ hênh. Một số cây bút ngay thẳng bên lề phải được ngênh đón sang lề trái. Thời báo Việt Nam trên mạng của Hội nhà báo độc lập Việt Nam hằng ngày có vài vạn bạn đọc sớm trở nên món ăn tinh thần không thể thiếu, do tôn trọng sự thật và bạn đọc, kết hợp nghệ thuật báo chí cách tân và khoa học báo chí tinh nhậy, hướng dẫn công luận theo hướng tự tin dân tộc kết hợp với thế giới văn minh, đi từ những công việc bình thường thiết thực nhất. Năm nay các bạn đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ khi một mặt trận đối ngọai đã mở ra rộng lớn và có hiệu quả. Ngay trong nước các bạn đã tiếp xúc, gắn bó với nhiều tổ chức phi chính phủ nước ngoài, nhiều sứ quán, lãnh sự quán, bạn bè thân thiết, nhiều nhà báo quốc tế để cùng phối hợp đấu tranh. Cô Đoan Trang đang học ở Hoa Kỳ, luật sư Cù Huy Hà Vũ, nhà báo Điếu Cày sang Hoa Kỳ làm việc thuận lợi dù cho có bị chống phá kiểu ấu trĩ dại dột từ hai phía.   Không mừng sao được khi chính quyền trong nước tự dấn thân vào thế bị động khi họ cố tìm một thế đứng hão huyền trong Hội đồng Nhân quyền của LHQ, buộc phải hứa xét lại các điều luật trái với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền, như các điều 79, 88, 258 trong Luật Hình sự, buộc luôn tự mình coi như học trò hư có hạnh kiểm xấu để bị phê phán, dạy dỗ, răn đe, bị ra điều kiện để hòng mong nhận vài củ cà rốt trong cơn thiếu thốn. Chúng ta cứ từ từ vững bước mà đi trên đôi chân chúng ta. Hãy vẫy gọi thêm thật nhiều bạn đồng hành. Hãy lập thêm nhiều tổ chức xã hội dân chủ. Những hội chính trị, hội nhà giáo dân chủ, luật gia dân chủ vì một nền tư pháp công minh, nghệ sỹ dân chủ, nhà kinh doanh dân chủ, hội thể thao dân chủ, nhà văn hóa dân chủ, lập quỹ hỗ trợ dân chủ… Ở ngoài nước anh chị em dân chủ khắp nơi cũng đã trưởng thành, dày dạn, tiếp cận các giới cầm quyền và dân sự, vận động nhắm vào hiệu quả thiết thực, hỗ trợ và kết hợp chặt với trong nước. Gặp nhau, người Việt ta hay hỏi nhau : bao giờ chính quyền độc đảng, độc đóan, độc hại, độc ác, cực kỳ phi lý, trái đạo lý, trong nước sụp đổ như ở Liên Xô, Đông Âu? Cộng sản ở ta sẽ biến trước hay sau Cộng sản Trung Quốc?   Thế cùng tất biến. Miễn là người Việt ta cùng giúp nhau thức tỉnh. Một năm 2015 nhiều hứa hẹn sắp mở ra. Chúng ta có cơ sở để vui mừng và hành động từ những việc nhỏ, thiết thực nhất. Nhân quyền và dân chủ là 2 vũ khí mầu nhiệm không gì sánh bằng. Bùi Tín
......

Bi Kịch Cộng sản - Bi kịch Hồng Lê Thọ

Bản án tử hình dành cho Hồ Duy Hải được hoãn lại. Dòng tin này được hàng triệu người Việt nam vui mừng đón nhận vào ngày 4/12/2014. Trước đó nhà báo Huy Đức viết trên trang FB của mình một bài mang tựa đề Cần phải cứu một nền tư pháp, sau gần một tuần lễ công luận đưa vụ án có nhiều nghi vấn này ra bàn luận. Một vụ án mà tang vật được công khai mua từ chợ về để minh họa, dấu vân tay cũng không phải của người bị kêu án. Học sinh tiểu học xếp hàng vào thăm Bảo tàng Quân đội tại Hà Nội vào ngày 07 tháng 11 năm 2014, dưới những tấm áp phích tuyên truyền. AFP photo Minh bạch và Tham nhũng Mọi tình tiết của vụ án đều mờ mờ ảo ảo trong sự không minh bạch, và hơn nữa của một nền tư pháp lệ thuộc vào đảng cầm quyền. Nhà báo Huy Đức viết rằng trong hoàn cảnh chưa thể có tư pháp độc lập trong chế độ một đảng cầm quyền, thì ít nhất các quan tòa cũng nên là những người ngồi nghe các bên biện luận, thay vì làm chuyện kết án cùng với bên công tố, và hơn nữa lại lo ngại vụ án bị xử lại, mất hết những thành tích của họ. Theo cách này, ngành tòa án sẽ có những con số đẹp (án ít bị cải, sửa hơn) nhưng mức oan sai thật - thì nếu không có áp lực kêu oan của gia đình (như trường hợp Hồ Duy Hải); thủ phạm thật không ra đầu thú (như trường hợp Nguyễn Thanh Chấn)... - chiếm tỉ lệ cỡ nào là không ai biết được. Đó là điều mà người ta hay gọi là bệnh thành tích, mà bệnh thành tích mà hoành hành cả trong lĩnh vực tư pháp liên quan đến mạng sống của con người thì quả là tác hại sẽ không lường được. Nếu tin vụ án Hồ Duy Hải được hoãn thi hành được công luận chào đón với không ít hy vọng, thì tin về tình trạng tham nhũng toàn cầu lại làm người Việt nam thất vọng. Tổ chức Minh bạch quốc tế tiếp tục xếp Việt nam  vào hàng kém cỏi nhất thế giới dựa trên chỉ số nhận thức về tham nhũng. Nói nôm na là Việt nam là quốc gia có tham nhũng hàng đầu thế giới. Blogger Hiệu Minh nhìn sang lân bang Singapore, nơi được nhiều người Việt nam xem là cũng có một chế độ độc tài, để nói rằng bên xứ ấy có một nền chính trị trong sạch bậc nhất châu Á. Sự “độc tài” của Singapore thực ra bị nhiều người lầm tưởng vì tính nghiêm khắc của pháp luật ở đảo quốc này. Sinh hoạt chính trị ở đây vẫn có sự cạnh tranh, và ngành tư pháp là độc lập. Mà không phải chỉ có blogger Hiệu Minh mới nhìn sang Singapore, Chủ tịch Trương Tấn Sang cũng cảm thán rằng tại sao đảo quốc ấy bé nhỏ như thế mà sạch sẽ như thế, sạch từ thiên nhiên tới con người! Báo chí chính thống và nhiều trang blog đều trích lại lời ông. Còn Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy viết bài Vì sao tham nhũng? "Việc đồng nhất chính quyền và đảng với nhà nước (thực ra là với sở hữu) đã làm cho nhà nước cộng sản trở thành, có thể nói, nhà nước tự-tham-nhũng, nhất định kèm theo đặc quyền đặc lợi và những kẻ ăn bám." Trong bài viết này  tác giả lại đi tìm hiểu nguyên nhân của tham nhũng, tự hỏi phải chăng nó bắt nguồn từ những khiếm khuyết bất trị của dân tộc hay không! Và trên hành trình đó, bà tìm thấy Milovan Djilas, nhân vật từng đứng hàng thứ hai của đảng cộng sản Nam tư. Đây là đoạn trích nói về chính quyền cộng sản của Djilas: Thói bon chen, xa hoa, hám quyền là không tránh được.[...] Đây là loại tham nhũng đặc biệt: khi quyền lực nằm dưới quyền kiểm soát của một đảng, mà đảng ấy lại là nguồn gốc của tất cả đặc quyền đặc lợi, thì việc “quan tâm đến các chiến hữu”, việc bổ nhiệm họ vào những chức vụ có lợi, việc phân phối phúc lợi các kiểu giữa các đảng viên với nhau phải trở thành việc đương nhiên. Việc đồng nhất chính quyền và đảng với nhà nước (thực ra là với sở hữu) đã làm cho nhà nước cộng sản trở thành, có thể nói, nhà nước tự-tham-nhũng, nhất định kèm theo đặc quyền đặc lợi và những kẻ ăn bám. Và câu trích bên trên dường như đã trả lời câu hỏi mà Tiến sĩ Nguyễn Thị từ Huy đặt ra trong đầu đề Vì sao tham nhũng? Nguyên nhân đó là thể chế chứ không phải là từ tính cách của dân tộc. Những người cộng sản cầm quyền ở Việt nam vẫn liên tục nói đến chuyện chống tham nhũng, và trong mấy năm vừa qua dường như người đứng đầu đảng là ông Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều cố gắng trong cuộc đấu trang giành sự trong sạch cho đảng của ông. Song blogger Hiệu Minh nhận xét rằng: Xem bảng xếp hạng tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế thì hiểu tại sao chương trình nhóm lò của TBT Trọng vẫn đang nghi ngút khói vì củi ẩm. Độc tài như Singapore nhưng tham nhũng thấp thì cũng chấp nhận, nhưng độc tài mà để tham nhũng cao chót vót thì không có gì để biện minh. Chủ tịch Trương Tấn Sang, như đã nói, cũng cảm thán về sự trong sạch của nước Singapore, nơi lý thuyết cộng sản bị cấm đoán một cách nghiêm ngặt nhất thế giới. Không rõ ông đã từng đọc Djilas, người đồng chí một thời ở Quốc tế cộng sản của ông hay chưa? Bi kịch và Quyền lực Cuộc đời Djilas là một bi kịch, từ một người cộng sản trẻ tuổi đầy lý tưởng, lên đến đỉnh cao quyền lực của đảng, ông lại từ bỏ tất cả vinh hoa phú quí đáng ra dành cho những người thuộc “Giai cấp mới” như ông, để trở thành người lên án và phê bình chủ nghĩa cộng sản. Giáo sư Hồng Lê Thọ bị bắt vì điều luật 258 Trong những ngày cuối tháng 11, người ta lại chứng kiến một bi kịch của một người từng ủng hộ hết mình chủ nghĩa cộng sản Việt nam, đó là giáo sư Hồng Lê Thọ, một trí thức Việt kiều hồi hương từ Nhật bản. Ông đã từng tham gia phản chiến chống sự can thiệp của người Mỹ tại miền Nam Việt nam. Hồi năm 2006, ông Thọ viết trên báo Sài gòn Giải phóng của đảng cộng sản về cuộc đấu tranh phản chiến của ông tại Nhật bản trong một chiến dịch 50 ngày đêm ngăn cản không cho xe tăng Mỹ được vận chuyển sang chiến trường Việt nam. Ông Hồng Lê Thọ bị bắt vào cuối tháng 11 với lời buộc tội rằng ông làm mất niềm tin của nhân dân vào nhà nước của đảng cộng sản, đảng phái chính trị mà ông hăng hái ủng hộ vào tuổi thanh niên sôi nổi của mình. Vụ bắt bớ này lại không được báo chí chính thống Việt nam đưa tin mà chỉ có cổng thông tin điện tử của Bộ công an mà thôi. Vì thế trong không khí minh bạch 31 điểm do tổ chức Minh bạch quốc tế đánh giá, nhiều lời đồn đoán được đưa ra: nào là ông Thọ bị bắt vì xưa kia ông chống Mỹ cứu đảng, nay ông chống đảng cứu nước, nào là các phe phái chống nhau ông Thọ đột nhiên thành nạn nhân,… Blogger Kami thì cho rằng:"Bởi hơn ba mươi năm sống trượt dài trên đà tiến bộ loài người, cái mà người Việt Nam đang gánh chịu bây giờ là một xã hội vô hướng, vô hồn, tin vào cái ác cũng như tin vào những giá trị huyễn hoặc." - Blogger Viết từ Sài gòn Việc bắt GS. Hồng Lê Thọ là một toan tính chiến thuật hoàn toàn mang ý nghĩa chính trị, nhằm chuyển đi một thông điệp khẳng định rằng, mọi ý nghĩ cho rằng sẽ có các cải cách mạnh mẽ của phái cấp tiến, kể cả cải cách thể chế như thông điệp đầu năm 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là điều "viển vông. Nhà nghiên cứu biển Đông Đinh Kim Phúc, một người bạn thân thiết của Giáo sưu Thọ thì nghĩ rằng vụ bắt bớ là lời cảnh báo rằng sự phản biện xã hội và chính trị của các trí thức trong nước đã làm phật lòng những người cộng sản có quyền lực. Một tác giả người Anh là Bá tước John Dalberg-Acton nói rằng Quyền lực dẫn đến nhũng lạm, và quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến nhũng lạm tuyệt đối. Blogger Viết từ Sài gòn so sánh thứ quyền lực tuyệt đối của đảng cộng sản Việt nam hiện nay như là khái niệm Số Má của giới giang hồ. Trong lúc giới giang hồ sử dụng đẳng cấp sát máu gọi là Số Má của mình thì các đảng viên cộng sản lại dùng thẻ đảng của mình để trục lợi trong những thương vụ làm ăn. Có những vụ tham nhũng lớn mà các đảng viên dùng thẻ đảng để vay tiền trong ngân hàng rồi chiếm đoạt. Blogger Viết từ Sài gòn đặt ra vấn đề tại sao xã hội hiện nay lại đổ đốn ra như thế: Vì cơ chế đảng trị đã cho các đảng viên quá nhiều thứ, họ như một ông vua, bà chúa trên xứ sở của họ. Lòng tham và sự thoả hiệp của đa phần người dân đã đẩy bản thân đa số này đến chỗ mù quáng, toa rập với cái ác, xem cái ác là một cơ hội cho bản thân. Và cái giá phải trả đã hiện ra trước mắt. Nhưng câu chuyện không phải dừng ở đây, nó cho thấy đất nước đang thật sự lâm nguy bởi lòng người tan rã, niềm tin bị đánh tráo, giá trị phẩm hạnh bị băng hoại đến tận gốc. Bởi hơn ba mươi năm sống trượt dài trên đà tiến bộ loài người, cái mà người Việt Nam đang gánh chịu bây giờ là một xã hội vô hướng, vô hồn, tin vào cái ác cũng như tin vào những giá trị huyễn hoặc. Trở lại vụ bắt giam Giáo sư Thọ, Giáo sư này cũng là một blogger và trước khi bị bắt trang blog Người lót gạch của ông đã đăng một bài mang tên “Vừa hợp tác vừa đấu tranh và … Vương Thúy Kiều.” Bài này của tác giả Hạ Đình Nguyên, một lãnh tụ sinh viên tranh đấu trước 1975, và nay lại thường xuyên có những ý kiến đối kháng với đường lối cai trị của đảng cộng sản. Trong bài viết này tác giả so sánh nước Việt nam với nhân vật Vương Thúy Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, một thân phận yếu ớt nhỏ bé phải tìm sinh lộ bên cạnh kẻ xấu tàn ác và hung tợn. Điều mà nhiều người bàn tán về bài viết này là hình như nó châm chọc câu nói của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trước đó về quan hệ Việt nam Trung quốc rằng vừa Hợp tác vừa đấu tranh. Nhưng ngay trong lời dẫn của bài viết, Hạ Đình Nguyên viết rằng ông không có ý đó. Nhiều người theo dõi bài viết này như nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc cũng nhận xét rằng bài viết không chỉ trích gì cá nhân ông Thủ tướng cả, mà là tâm sự của một kẻ sĩ ưu thời mẫn thế, quan tâm đến an nguy của quốc gia, và sự tồn vong của dân tộc. Mối ưu tư ấy của Hạ Đình Nguyên dẫn đến một nỗi bi quan khi tác giả so sánh nhận xét của Thủ tướng Dũng về mối quan hệ Việt Trung với chủ trương “chống tham nhũng” của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng rằng “ném chuột sợ bị vỡ bình.” Tức là rồi cũng chẳng phá vỡ được bế tắc nào, nước Việt nam và Trung quốc vẫn là hai quốc gia cộng sản cùng ý thức hệ, các quan chức tham nhũng là chuột cần phải diệt, nhưng cũng lại là cái bình quý mà đảng không thể làm vỡ đi. Để kết thúc bài điểm blog này, xin mượn lời blogger Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy khi bà tìm thấy căn nguyên tên gọi là cộng sản của căn bệnh tham nhũng hôm nay, Và điều đó có nghĩa là chế độ này trường tồn thì dân tộc sẽ tiêu vong. Nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Chống tham nhũng ở VN ‘là mị dân’

Anh Đức Gửi tới BBC từ Hà Nội Nhìn lại “Đối thoại về phòng, chống tham nhũng lần thứ 13” ngày 26/11/2014. Với nỗ lực cao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam trong công tác phòng, chống tham nhũng đã đem đến hiệu quả ít nhiều. Lãnh đạo Vinashin nhận án tù và Thủ tướng Dũng từng 'nhận trách nhiệm cá nhân'. Với kết quả chống tham nhũng năm 2014, thu hồi 46,9 tỷ đồng từ 54 vụ tham nhũng trên toàn quốc. Giá trị khiêm tốn trên cũng chỉ tương đương chi phí % đúng giá cho giao nhận và chi phí “ bôi trơn” khác của một dự án xây dựng cơ bản với tổng mức khoảng 500 tỷ đồng. Chống tham nhũng ở Việt Nam ngày càng đi vào bế tắc. Bởi một nghịch lý đó là người thực thi pháp luật chống tham nhũng cũng chính là người dung dưỡng tham nhũng, đã từng phụng sự tham nhũng, đã tham nhũng hoặc vẫn đang trong lợi ích nhóm, đang là hậu duệ, có ân huệ, có quan hệ… với tổ chức, cá nhân tham nhũng. Chống tham nhũng ở Việt Nam bản chất là cuộc chiến tương tàn giữa các tầng lớp đồng chí, dòng họ, ơn nghĩa thừa kế, có quan hệ chằng chịt về kinh tế, đã hoặc đang hoạt động chung lợi ích. Ngoài ra tham nhũng trong chính trị, từ những người làm chính sách trực tiếp hưởng lợi chớp nhoáng, cũng khó mà phát hiện và chống được. Do đó hiệu quả của công cuộc chống tham nhũng cũng chỉ dừng lại ở số ít cá nhân đại diện cho một bộ máy tham nhũng có hệ thống khổng lồ “bị lộ” qua phản ánh từ nước ngoài, qua doanh nghiệp phá sản, qua đấu đá nội bộ mà thôi. Phụng sự tham nhũng   Tham nhũng hiện nay đã là thói quen, là văn hóa, tập quán của người Việt trưởng thành khi bước vào ngưỡng cửa công chức. Việc này làm cho xã hội bị đình trệ phát triển, một nguồn nhân lực lớn của đất nước chỉ mong xây dựng cuộc sống của mình gắn liền với quan niệm phải ổn định, được nhàn hạ, ít động não, làm ra thật nhiều tiền từ những trạng thái làm việc mơ hồ, hơn là tạo ra sản phẩm vật chất lẫn sản phẩm tinh thần có cạnh tranh, có ích cho xã hội. Một tập thể lớn tri thức tham gia vào việc hợp thức hóa rửa tiền từ tham nhũng là công việc bình thường hàng ngày của họ, và họ không có khái niệm phạm tội, họ coi là bình thường việc đang tiếp tay cho tham nhũng. Đã có nhiều quy định của chính phủ về quản lý giao dịch tiền mặt vốn là đặc trưng ở Việt Nam đến nay với mục đích chống rửa tiền, chống khủng bố. Nhưng vẫn tồn tại rất nhiều cửa để chung chi, bằng những con số tiền mặt rất lớn từ các doanh nghiệp phụng sự tham nhũng, và giá trị tham nhũng sẽ hoàn khép chứng từ để hoàn vốn một cách dễ dàng. Hình thức giao dịch tham nhũng bằng tài sản, bằng trao đổi bổ nhiệm chức vụ, mua bán chức quyền và bằng nhiều hình thức tinh vi khác ngoài tiền thì hầu như vẫn đang diễn biến tốt đẹp. Chắc chắn rằng không ai tự kết tội chính mình, dòng họ mình, phe cánh mình, đưa mình vào thế phản ơn, phản thầy một cách tự nguyện. Cho nên công cuộc chống tham nhũng hiện tại cũng chỉ là hình thức xoa dịu lòng dân, hình thành những tổ chức chống tham nhũng không ngoài mục đích đủ thành phần hành pháp, cân bằng quan hệ chính trị nhóm vì lợi ích.   Bầu Kiên yêu cầu giới chức nhà nước ra đối chất nhưng không được đáp ứng đầy đủ.   Tham nhũng ở Việt Nam muôn hình vạn trạng, đang phát triển bình thường: Hiện tại tham nhũng Việt Nam đang phát triển ngày càng tinh vi hơn, nguy hại hơn cho nền kinh tế đang bế tắc về phát triển với nhiều nợ công, nợ xấu. Dễ dàng nhìn thấy tham nhũng phát sinh hàng ngày khắp nơi, mọi chốn. Việc mua sắm tài sản công, vật tư, nguyên liệu, thiết bị, đấu thầu theo quy định cũng dễ dàng thao túng hành vi “tham nhũng nhưng đúng luật” với hình thức cung cấp hồ sơ đấu thầu, chào thầu, quân xanh quân đỏ, chính từ người trực tiếp trúng thầu thực hiện, được bật đèn xanh bởi cả hệ thống điều hành. Luật bất thành văn, thống nhất chia chác tỷ lệ tham nhũng từ trên xuống dưới vẫn đang tiếp diễn. Tham nhũng có giá trị lớn trong xây dựng cơ bản như trước đây thông qua giao nhận các dự án. Trực tiếp tham nhũng bằng cách thu theo tỷ lệ % dự án thì hiện tại biến hóa hơn, có tổ chức hơn. Các công ty mới, lợi ích nhóm mới hình thành có sự hỗ trợ mạnh từ ngân hàng. Mượn năng lực để hợp thức hóa giao nhận làm chủ dự án, chủ đầu tư và lách luật “cấm thầu phụ”, bằng hình thức biến hợp đồng các công ty có năng lực thật sự thành những đội trực thuộc, giao khoán và thu tỷ lệ % cao hơn nhiều. Vì cần việc làm để tồn tại, các doanh nghiệp chuyên nghiệp cũng trở thành nguyên nhân tiếp tay cho tham nhũng và làm giảm đi chất lượng công trình. Người dân hàng ngày nhận hàng hóa từ nước ngoài qua cửa hải quan sân bay cũng được thỏa thuận đóng thuế hai mức giá, tùy thuộc vào việc lấy hóa đơn nộp thuế hay không. Thậm chí tham nhũng của các cơ quan hành pháp, tư pháp phát sinh trên những cá nhân, tổ chức tham nhũng cũng là chuyện không hiếm.   Rất nhiều hình thức tham nhũng khác mà người dân ai cũng biết, liên quan đến cuộc sống của mình. Họ ngoan ngoãn tiếp tay tham nhũng có thể vì lợi ích trước mắt, và ít ai dám nói ra. Những “đồng chí chưa bị lộ” còn lại, không phải là chưa lộ, mà hầu hết đã lộ giữa ban ngày, thể hiện qua khối tài sản không thể biện minh, là thực tế trên cả nước. Bằng cách nào để chống tham nhũng một cách hữu hiệu thật sự? Nhìn lại việc ông Trần Văn Truyền, nguyên Tổng thanh tra Chính Phủ. Chưa kể tham nhũng hay không, thì việc phạm luật trốn thuế thu nhập là điều chắc chắn. Và hầu hết các quan chức ở Việt Nam đều vi phạm luật thuế này. Không riêng gì ông Truyền lúc tại vị, những phát biểu đình đám cho công tác phòng chống tham nhũng của những người đương nhiệm xét cũng chỉ thực hiện theo nhiệm vụ hơn là lương tâm và trách nhiệm. Việt Nam đã từng tồn tại thuế thu nhập bất thường từ thời bao cấp, chủ yếu là từ việc trúng số kiến thiết. Cụ thể hơn theo Nghị định 147/2004/NĐ-CP và Nghị định 100/2008/NĐ-CP quy định thuế suất thu nhập cá nhân (hoặc bất thường) từ 5% đến 40% với giá trị thu nhập tương ứng. Nếu nhìn vào tài sản bề nổi hiện tại, so sánh hồ sơ lưu trữ kê khai và nộp thuế tại các cơ quan thuế thì người dân ít nhiều là những đối tượng trốn thuế thu nhập. Hầu hết quan chức nhà nước lại là đối tượng trốn thuế thu nhập lớn hơn, chưa kể sau năm 2006 đảng viên mới được hợp thức làm kinh tế tư nhân. Hợp thức hóa tài sản VN không có hệ thống tư pháp độc lập và tòa bị xem là 'nghiêm nhưng không minh'   Để hợp thức hóa tài sản, giảm giao dịch tiền mặt cho mục đích thực thi phòng chống tham nhũng hiệu quả, phải chăng nên làm một cuộc cách mạng “công nhận, hợp thức hóa tài sản sở hữu hợp pháp” bằng cách “truy thu thuế” thu nhập cá nhân hiện tại, và nhất là tài sản lớn của quan chức nhà nước. Phải hợp thức một mặt bằng minh bạch tài sản, từ đó làm cơ sở quản lý chống rửa tiền từ tham nhũng và chống thất thu thuế là điều kiện cần bắt buộc. Đây là việc mà hầu hết các nước phát triển đã thực hiện từ lâu, nhằm quản lý thuế nhân sự, chống rửa tiền và phòng chống tham nhũng hiệu quả. Nếu vẫn tồn tại vòng luẩn quẩn, mập mờ về tài sản quá khứ, hiện tại và tương lai thì công cuộc hô hào chống tham nhũng ở Việt Nam phải chăng chỉ là mục đích mị dân. Đẩy mạnh thực chất chống tham nhũng đối với các đối tượng quan chức, khác nào tự tạo nên cuộc chiến huynh đệ tương tàn, thậm chí tự giết chính bản thân mình, một việc làm quá ư trừu tượng. Thực tế hóa việc phòng chống tham nhũng: Việc phòng chống tham nhũng chỉ hữu hiệu khi quán triệt từ tư tưởng, từ chấp pháp, chứ không phải chống tham nhũng mà vẫn cứ chấp nhận tham nhũng từ lách luật, từ những biến hóa chứng từ hợp lý và từ lạm dụng ảnh hưởng chức quyền. Đánh chuột hay giữ bình chỉ thiết thực khi hợp thức hóa, công nhận hình thành tài sản cá nhân hợp pháp của các quan chức thông qua kê khai và truy thu thế thu nhập, làm cơ sở pháp lý. Sau đó được kiểm soát hoạt động, thu nhập quan chức bằng công cụ thuế và dễ dàng giám sát từ toàn dân. Vẫn phải “dùng chuột để diệt chuột”, vẫn duy trì “lách luật đúng quy trình” thay cho các biện pháp “thuốc diệt chuột”, và chuột cũng chính là chủ nhà, thì công cuộc chống tham nhũng bằng tự kê khai tài sản các quan chức ở Việt Nam mãi chỉ là câu chuyện khôi hài. Có định hướng đi theo chủ nghĩa nào đi nữa, thì việc minh bạch tài sản và lành mạnh thu nhập, tuân thủ theo các qui định thuế là điều cần thiết tối thiểu cho một xã hội. Chủ động duy trì một mớ bòng bong tài sản nhập nhằng, thực hiện phòng chống tham nhũng bằng những lý thuyết suông mãi chỉ là mơ mộng viển vông. Anh Đức Theo bbc.co.uk/vietnamese
......

Bài học đầu tiên về luật pháp tôi học ở nước Mỹ

Tôi nhận học bổng Fulbright sang Mỹ học chương trình Master of Laws năm 1999 tại Đại học Tulane ở thành phố New Orleans, bang Louisiana. Trước khi vào Tulane, tôi đến Đại học Columbia ở thành phố New York, học chương trình Orientation (định hướng) về luật và tiếng Anh. Fulbright luôn tạo điều kiện để các sinh viên có cơ hội biết thêm văn hóa tại những vùng khác nhau của nước Mỹ, nên thường người học sẽ đến vài thành phố để dự các khóa giảng. Nhờ vậy tôi được dịp sống tại New York trong hơn hai tháng. Dù thời gian ngắn, nhưng phải nói thật, tôi yêu New York hơn tất cả những nơi khác, vì có lẽ tôi đã dành nhiều thời gian khám phá nó từ các góc cạnh khác nhau. Hồi sống trong khu học xá sinh viên của Đại học Columbia, tôi giữ thói quen đều đặn kiểm tra hộp thư để xem gia đình có gửi thư sang hay không, vì lúc ấy ba mẹ và anh em tôi chưa ai sử dụng email. Sau một lần nói chuyện với gia đình qua điện thoại, tôi ước chừng độ mươi ngày sau thư sẽ đến. Một buổi chiều, linh tính cho biết đã có thư, đi học về, tôi nhanh chân bước vào sảnh ký túc xá, thì thấy người giao thư đã giăng dây xung quanh nơi đặt các hộp thư. Bên trong hàng dây có một tấm biển ghi hai chữ “No entry”, cấm mọi người bước vào, để anh ta tiện sắp xếp bỏ thư. Thông thường công việc đó chỉ mất độ 15 phút, nên tôi lên phòng ngồi chờ. Khoảng hơn một giờ sau tôi bước xuống, vẫn thấy hàng dây còn giăng ngang. Cẩn thận, tôi bước đến hỏi người bảo vệ khu học xá xem người giao thư đã làm xong chưa. Anh này nhún vai bảo không biết. Không thấy người giao thư để hỏi, tôi lại lên phòng ngồi chờ thêm nửa giờ. Sau đó, thấy trời sắp tối, tôi lại đi xuống. Lần này vẫn thấy dây còn giăng xung quanh, tôi ngó trước sau không thấy cả người giao thư lẫn bảo vệ khu học xá, nên tần ngần không biết hỏi ai. Trong lòng nôn nóng nhận thư, tôi liều lĩnh bước qua hàng dây đi vào mở hộp thư của mình. Quả nhiên có thư. Tôi mừng quá, lấy xong bước qua hàng dây đi ra. Vừa lúc đó, anh chàng giao thư người da đen xuất hiện. Thấy tôi vừa cao chân bước qua, anh giận dữ hét lên, “tại sao anh làm như vậy?” Tôi cảm thấy xấu hổ vô cùng, vội phân bua rằng vì đã chờ đợi quá lâu, lại đang cần đọc thư, mà tìm anh ấy không được, nên đành làm đại. Anh ấy tỏ ý thông cảm, không trách nữa, nhưng vẫn nói câu cuối trước khi mỉm cười với tôi: “But, law is law!” (Nhưng, luật là luật). Tôi choáng váng! Tất nhiên, đó không phải là luật pháp gì ghê gớm của nước Mỹ, mà chỉ là luật lệ ước định giữa những người sống trong một cộng đồng dân cư nào đó thôi. Song quả thật, luật là luật, dù cưỡng hành hay không, vẫn không có chuyện thông cảm hay viện cớ này nọ để vi phạm. Dù anh ấy không biết tôi là sinh viên luật, dù anh ấy chỉ là người giao thư bình thường như bao người Mỹ đang làm việc một cách lương thiện trong xã hội, nhưng chỉ một câu nói như thế của anh đã khiến tôi học được nhiều điều. Đó là bài học đầu tiên về luật pháp mà tôi học ở nước Mỹ. Tôi chợt hiểu ra vì sao nước Mỹ hùng mạnh, bởi mỗi công dân của họ đều được giáo dục đủ để biết tuân thủ luật pháp trong những điều nhỏ nhặt nhất. Đó chính là nền tảng của một xã hội văn minh và phát triển. Bài học đầu tiên ấy tôi vẫn còn nhớ đến hôm nay. Người da đen vô danh năm nào vô tình đã trở thành thầy dạy luật đầu tiên của tôi ở Mỹ. Thật ra, không cần vào đại học, không cần những bài giảng cao siêu và khó hiểu, người ta vẫn có thể học được những điều tốt đẹp trong cuộc sống này. Về sau, khi nằm trong tù, đôi lần tôi tự hỏi phải chăng mình đã không thuộc bài học ấy, đến nỗi đã vi phạm luật pháp để vào tù (?!). Song ngay lập tức, không xấu hổ, tôi nhận ra rằng vì lý tưởng xây dựng một xã hội trọng pháp thực sự, người ta cần dũng cảm vi phạm những đạo luật bất công tồn tại lâu trong một xã hội vô pháp. Nguyên tắc nào cũng có những ngoại lệ cao cả là vậy, như lời dạy của thầy tôi ngày xưa, tiến sĩ luật Đào Quang Huy, cựu giáo sư Học viện Quốc gia Hành chánh thời Việt Nam Cộng Hòa. Theo FB LSLeCongDinh
......

MLBVN tiếp xúc với đại diện 6 Đại Sứ Quán tại Hà Nội

Vào sáng ngày 03.12.2014 tại Hà Nội, Mạng Lưới Blogger Việt Nam (MLBVN) đã có cuộc tiếp xúc, làm việc trong 2 giờ với đại diện 6 Đại sứ quán Hoa Kỳ, Thụy Điển, Úc, Phần Lan, Na Uy, Đức tại Đại sứ quán Thụy Điển để tiếp tục thúc đẩy chiến dịch “Chúng tôi muốn biết” và vận động xóa bỏ Điều luật 258. Tham gia cuộc họp sáng nay, về phía đại diện các Đại sứ quán có bà Elenore Kanter - Tham tán chính trị, Phó đại sứ, Trưởng ban Chính trị và Thương mại Đại sứ quán Thụy Điển; bà Rose McConnell - Bí thư Thứ Hai Chính trị/Kinh tế Đại sứ quán Úc; bà Annina Barbosa - Phó đại sứ Phần Lan; bà Jenifer Neidhart de Ortiz - Viên chức chính trị Đại sứ quán Hoa Kỳ; ông Tone Wroldsen - Bí thư thứ hai Đại sứ quán Na Uy; và ông Felix Schwarz - Lãnh sự và Tham tán chính trị Đại sứ quán Đức, cùng với thực tập sinh Ban chính trị & Thương mại Đại sứ quán Thụy Điển là ông Carl Bradshaw Thorell. Đại diện MLBVN là Blogger Trịnh Kim Tiến (Hà Nội), blogger Trịnh Anh Tuấn (Hà Nội), blogger Nguyễn Tiến Nam (Hà Nội), và blogger Nguyễn Hoàng Vi (Sài Gòn). Buổi tiếp xúc này là tiếp nối những nỗ lực của MLBVN sau khi gặp gỡ với ông Kees van Baar - đại sứ Nhân quyền của Hòa Lan và bà Nienke Trooster - tân đại sứ Hòa Lan vào ngày 20.11.2014 (1); tiếp xúc với ông Sigmar Gabriel, Phó thủ tướng Đức - Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Năng lượng, Chủ tịch Đảng Dân chủ Xã hội (SPD) vào ngày 21.11.2014 (2); và gặp ông Charles Sellers - trưởng phòng chính trị, ông Garrett Harkins, bà Betsy Allens của Lãnh sự quán Hoa Kỳ vào ngày 21.11.2014 (3) Việc vận động của MLBVN để làm việc với cùng một lúc đại diện 6 Đại sứ quán cũng xuất phát từ nhu cầu lên tiếng cho trường hợp của Đinh Nguyên Kha sau khi Mẹ của anh là bà Nguyễn Thị Kim Liên thông báo về tình trạng sức khỏe có nguy cơ đe dọa tính mạng của anh trong trại tù K3 Xuyên Mộc, cũng như việc an ninh sử dụng Điều 258 để bắt giữ blogger Người Lót Gạch (4). Các đại diện của MLBVN đã trình bày với đại diện các sứ quán về tình trạng gia tăng bắt bớ, bỏ tù người viết blog, người bất đồng chính kiến cũng như dân oan bằng Điều luật 258 trong thời gian gần đây, điển hình là việc bắt giam anh Ba Sàm - Nguyễn Hữu Vinh và blogger Người Lót Gạch - Hồng Lê Thọ. Liên quan đến Điều 258, MLBVN cũng nhắc lại việc trao Tuyên bố 258 của MLBVN đến những cơ quan của Liên Hiệp Quốc, các Đại sứ quán ở Việt Nam vào cuối năm 2013 đã mang lại kết quả khá tốt trong phiên tòa xử Đinh Nhật Uy, tạo được nhiều quan tâm của Hội Đồng Nhân Quyền LHQ tại Geneve cũng như nhiều quốc gia thành viên về Điều luật 258. Nhân dịp này, MLBVN cũng đã gửi lời cảm ơn các Đại sứ quán trong những nỗ lực vận động ngoại giao với nhà nước Việt Nam cho vấn đề nhân quyền. Tuy nhiên, MLBVN cũng khẳng định rằng việc trả tự do cho vài cá nhân để đáp ứng những thỏa thuận ngoại giao của nhà nước Việt Nam không phải là mục tiêu đấu tranh duy nhất của MLBVN. Quan trọng hơn và cần thiết hơn là MLBVN muốn tranh đấu để xóa bỏ những điều luật mơ hồ mà nhà cầm quyền dùng nó để bỏ tù công dân Việt Nam, điển hình là Điều 258. Trong việc tranh đấu cho Quyền Được Biết và tiếp tục chiến dịch Chúng Tôi Muốn Biết, đại diện MLBVN đã trình bày tổng quát về chiến dịch này và gửi đến đại diện các Đại sứ quán bản Yêu cầu Bạch hóa Hội nghị Thành Đô 1990 (5) sau khi những nỗ lực trao thư yêu cầu cho văn phòng Quốc hội ở Hà Nội và Sài Gòn bị từ chối, thậm chí những người tham gia trao thư bị đánh đập, bắt bớ và cướp đoạt tài sản. Những thông tin về việc các thành viên chủ chốt của MLBVN bị ngăn cản từ nhà, những người đến được Văn phòng Quốc hội thì không được tiếp đón và nhóm dân oan bị đánh đập, bắt bớ và cướp tài sản đã được các đại diện sứ quán ghi nhận và quan tâm. Đặc biệt một đại diện sứ quán sau khi nghe MLBVN trình bày đã hỏi rằng ngoài việc MLBVN yêu cầu chính phủ VN bạch hóa thông tin về những thỏa thuận giữa VN & TQ trong một hội nghị cách đây đã khá lâu, tại sao MLBVN không mở thêm những yêu cầu để đòi hỏi chính phủ Việt Nam bạch hóa những thông tin về những trao đổi gần đây giữa 2 quốc gia như việc Trung cộng khai thác dầu ở Biển Đông. Các đại diện sứ quán chia sẻ rằng họ ủng hộ chiến dịch “Chúng Tôi Muốn Biết” của MLBVN để thúc đẩy “Quyền được biết” của người dân Việt Nam. Đại diện phía Hoa Kỳ qua những trình bày của MLBVN về vấn đề Hội nghị Thành Đô đã đặc biệt quan tâm đến quan hệ ngoại giao Việt-Trung. Đại diện sứ quán Đức nhấn mạnh sự quan tâm của họ đến Quyền Được Biết của người dân VN. Riêng đại diện sứ quán Thụy Điển thì chia sẻ và ghi nhận những nỗ lực hoạt động thúc đẩy nhân quyền của MLBVN trong thời gian qua và đã gửi lời chúc mừng sớm đến MLBVN nhân kỷ niệm 1 năm ngày thành lập MLBVN (10/12/2014). Các đại sứ quán cũng rất quan tâm đến những hoạt động của MLBVN trong ngày Quốc tế nhân quyền sắp tới. MLBVN hy vọng bằng con đường ngoại giao, các chính phủ trên sẽ chuyển bản yêu cầu Bạch hóa Hội nghị Thành Đô đến nhà nước Việt Nam cũng như yêu cầu nhà cầm quyền phải tôn trọng và đáp ứng Quyền Được Biết của người dân. Thông điệp cuối cùng của các Đại sứ quán gửi đến các đại diện MLBVN là họ luôn đặt vấn đề Nhân quyền với phía chính phủ Việt Nam trong các cuộc họp song phương, đa phương hay các kiến nghị cụ thể trong các kỳ kiểm định nhân quyền UPR và họ sẽ quan tâm nhiều hơn về những vụ việc người dân Việt Nam đã và đang bị bắt bớ vì điều luật 258.   Chú thích: (1) http://mangluoiblogger.blogspot.com/2014/11/ai-dien-mlbvn-tiep-xuc-voi-a... (2) http://mangluoiblogger.blogspot.com/2014/11/pho-thu-tuong-uc-gap-go-cac-... (3) http://mangluoiblogger.blogspot.com/2014/11/ai-dien-mang-luoi-blogger-vi... (4) http://mangluoiblogger.blogspot.com/2014/12/ban-len-tieng-cua-mlbvn-ve-t... (5) http://mangluoiblogger.blogspot.com/2014/10/loi-keu-goi-thuc-thi-quyen-u...  
......

Tôi đang mơ giấc mộng dài

Đã 40 năm bài hát Imagine của John Lennon, bài hát ao ước đầy thơ mộng của con người về thế giới không hận thù và sẻ chia lại có dịp nhìn thấy chính mình qua sự kiện xung đột giữa dân chúng và cảnh sát ở Portland, Oregon, Mỹ. Tấm ảnh của John Nguyễn Cuộc biểu tình đòi công bằng cho một thanh niên da đen Michael Brown tại Ferguson, sau khi anh này bị một cảnh sát viên da trắng Darren Wilson bắn chết và được miễn truy tố đã khiến bùng nở hàng loạt các cuộc tuần hành, thậm chí đã xảy ra nhiều cuộc xung đột. Tuy nhiên, vấn đề không phải là vụ án về công bằng cho một người da đen, mà chỉ là vết thương về chủng tộc chưa bao lành vẫn âm ỉ và rách toạc. Nhiều cuộc bạo động đã xảy ra, cảnh sát đã phải dùng đến hơi cay và bắt bớ hàng loạt để mong đem lại bình ổn trong thành phố. Ngày 25/11, trong cuộc biểu tình ở Portland, Oregon, những người tuần hành cũng mang trong mình đủ mọi cảm giác: hận thù, tức giận, chia rẻ, sợ hãi và liều lĩnh… để xuống đường Một cậu bé da đen ôm tấm bảng Free Hugs với dòng nước mắt chảy dài sợ hãi khi thấy đám đông chung quanh mình cũng như những cảnh sát chống bạo động đã trở nên quá căng thẳng. Bất ngờ, một viên cảnh sát chống bạo động khi nhìn thấy hình ảnh đó, đã tiến tới gần và hỏi vì sao em khóc, và sau đó cả hai đứng ôm nhau giữa đám đông. Mọi thứ như bị ngừng lại, xao động trong tất cả mọi người, Khoảng khắc mà sự tức giận hay điên cuồng vụt mất, thay vào đó một cảm giác ấm áp và tự vấn lương tâm. Câu bé da đen Devonte Hart, 12 tuổi và viên trung sĩ cảnh sát Bret Barnum đã làm nên sự kiện độc đáo của ngày hôm đó. Cuộc biểu tình đã dừng lại. Bức ảnh được nhà nhiếp ảnh trẻ người Việt, Johnny Nguyen, 20 tuổi, chụp được khoảng khắc ấy và gửi đến cho tờ The Oregonian, tờ báo được nhiều người quan tâm nhất của bang. Chỉ vài giờ sau khi bài viết tường thuật và bức ảnh của John Nguyễn xuất hiện, đã có hơn 150.000 lượt chia sẻ. Mọi giới truyền thông ở Mỹ đều đưa lại bản tin này như một sự thức tỉnh bất ngờ. Elwood P. Suggins, một cư dân của Oregon nói rằng ông ta tiếc rằng mình không ở trong bang chấm giải Pulitzers để trao giải thưởng của năm cho John Nguyễn và nói rằng mọi người hãy đọc câu chuyện này mà đừng quên cầm sẳn khăn giấy, vì bạn có thể rơi nước mắt sau đó. Chuyện kể rằng khi viên trung sĩ cảnh sát Bret Barnum tiến tới và hỏi Devonte Hart tại sao lại khóc, câu bé nói rằng cậu ta đang sợ hãi trước khung cảnh bạo lực đang diễn ra, và cậu nói rằng mình sợ cảnh sát sẽ dùng bạo lực với những đứa trẻ da đen đang tuần hàng như mình. Viên trung sĩ thở dài và nói “Phải rồi, chú hiểu, chú xin lỗi cháu”. Sau đó Bret Barnum hỏi rằng ông ta có thể ôm thật chặt Devonte Hart không. Johnny Nguyễn kể rằng ngay hình ảnh đó diễn ra, một luồng cảm xúc kỳ lạ dâng lên trong đám đông. Anh nói rằng còn nhìn thấy một thiếu niên khác đang cầm tấm bảng Free Hugs tương tự như Devonte Hart, đứng từ xa nhìn lại với giòng nước mắt lăn dài trên mặt. Câu chuyện này làm chấn động nước Mỹ, cũng như rất nhiều người đã có tuổi trẻ của mình đi qua cuộc chiến Việt Nam, thời kỳ hippy phản chiến. Giữa lúc súng đạn đi tìm con người, một thế hệ hippy đã chọn cách đi tìm sự hoang dại trẻ thơ để rũ bỏ hiện thực quá khắc nghiệt của mình. Và 40 năm trước, có lẽ một niềm tin trẻ thơ pha trộn tuyệt vọng của mình, John Lennon đã viết bài hát bất hủ Imagine, để lại một ước nguyện cho thế giới mai sau. “Nothing to kill or die for And no religion too Imagine all the people living life in peace…” Bài hát 40 tuổi lại được dịp ngân vang trong lòng mọi người. Nó nhắc rằng sẽ một ngày nào đó, sẽ không có ai vì nhân danh một lý tưởng, một nền chính trị nào đó để giết hại đồng loại của mình. Nó rằng cái cuối cùng mà con người tìm kiếm, vượt ra ngoài quyền lực, vượt ra ngoài chiếm đoạt và dối trá, chỉ là sự bình yên trong cuộc sống này. John Lennon không sống đủ dài để thấy giấc mơ của mình ra sao. Nhưng ông đang trao giấc mơ đó cho rất nhiều người còn lại. Giấc mơ về lòng nhân ái sẽ còn dẫn đường cho con người đến tương lai, giấc mơ đó, có tôi và các bạn. ______________ (*) Free Hugs xuất phát từ ngày International Free Hugs Day, theo Wikipedia diễn giải, là một ngày hội được lập bởi nhiều tình nguyện viên tại hơn 80 quốc gia trên thế giới, vào ngày chủ nhật trong tuần thứ 3 của tháng 7. Đây là một dịp để mọi người nhận được những cái ôm thân tình từ những người khác nhằm gửi gắm thông điệp yêu thương, thân thiện giữa mọi người với nhau. (*) tựa đề mượn ý từ một bài hát của nhạc sĩ Phạm Duy   —————– * Thử nghe lại bài Imagien với phần trình bày thật ngắn của nữa nghệ sĩ Ấn Độ Priyanka Chopra?http://www.indiatimes.com/entertainment/celebs/priyanka-chopra-sings-ima... Theo blog nhacsituankhanh.wordpress.com
......

Bài diễn văn của ĐGH Francis tại Nghị Viện và Hội Đồng Âu Châu gây tiếng vang tốt đẹp

(VNC) ĐGH Francis đã dành ngày 25.11.2014 để viếng thăm Nghị Viện và Hội Đồng Âu Châu tại thành phố Strasbourg ở Pháp. Đây là cơ quan lập pháp của Liên hiệp 28 nước Âu Châu với 508 triệu dân cư. Trong diễn văn, ĐTC nhắc lại sự kiện cách đây 26 năm, vào ngày 11.10.1988, ĐGH Gioan Phaolô 2 đã viếng thăm nghị viện Âu Châu, và nói về tình trạng và vai trò của Liên hiệp Âu Châu ngày nay. Bài diễn văn khá dài, chúng tôi xin ghi lại những điểm chính: ĐGH nói: “Ngày nay sự thăng tiến các quyền con người chiếm một vai trò trung tâm và đáng ngưỡng mộ trong sự dấn thân của Liên hiệp Âu Châu. Nhưng vẫn còn có quá nhiều tình trạng trong đó con người bị đối xử như đồ vật, và người ta có thể xếp đặt chương trình khi nào thụ thai, hình thành, lợi ích của con người, và rồi con người có thể bị vứt bỏ đi khi không còn hữu ích nữa, vì họ trở nên yếu nhược, bệnh tật hoặc già nua. Vẫn còn có những tình trạng trong đó con người không được tự do bày tỏ tư tưởng của mình, tuyên xưng niềm tin tôn giáo mà không bị cưỡng bách và giới hạn, khi thiếu khuôn khổ pháp lý rõ ràng hạn chế sự thống trị của võ lực và nêu cao luật pháp trên sự độc đoán của quyền lực, trên sự kỳ thị con người. ĐGH đặt câu hỏi: “Thứ phẩm giá nào con ngừơi có thể tìm được khi mà họ không có lương thực hay điều tối thiểu để sống, và tệ hơn nữa khi họ không có công ăn việc làm xứng với phẩm giá con người?”. Vậy làm sao mang lại hy vọng cho tương lai, mang lại tín thác để tiếp tục theo đuổi lý tưởng cao cả một Âu Châu hiệp nhất và an bình, đầy tính sáng tạo và biến báo, tôn trọng các quyền lợi và nghĩa vụ của mình? ĐGH nhấn mạnh: “Một Âu Châu không còn khả năng cởi mở đối với chiều kích siêu việt của sự sống là một Âu Châu dần dần bị nguy cơ đánh mất tinh thần nhân bản, mất đi vị trí trung tâm của con người. Kitô giáo không những cung cấp một gia sản cơ bản trong việc huấn luyện xã hội văn hóa của đại lục này, nhưng còn nhắm mang lại ngày nay và tương lai một đóng góp cho sự phát triển của Âu Châu. Sự đóng góp này không phải là một nguy hiểm cho đặc tính thế tục của các quốc gia và cho sự độc lập của các tổ chức của Liên hiệp Âu Châu trái lại, làm cho những tổ chức này được thêm phong phú phù hợp với nguyên tắc phụ đới và liên đới với nhau, một thuyết nhân bản qui trọng tâm vào sự tôn trọng phẩm giá con ngừơi.” Ngài nhận xét rằng: “Khẩu hiệu của Liên hiệp Âu Châu 'hiệp nhất trong sự khác biệt', không có nghĩa là đồng nhất về chính trị, kinh tế, văn hóa hay tư tưởng, nhưng chỉ rõ một gia đình các dân tộc, với những tổ chức của Liên Hiệp, biết liên kết lý tưởng hiệp nhất với sự khác biệt của mỗi người, đề cao giá trị của mỗi truyền thống, sự phong phú của các lịch sử và căn cội, giải thoát mình khỏi bao nhiêu lèo lái và ghét bỏ. Đặt con người ở trung tâm trước tiên có nghĩa là để cho con người tự do biểu lộ khuôn mặt và óc sáng tạo của mình trên bình diện cá nhân và dân tộc. Các nguyên tắc liên đới và phụ đới, hiện diện trong việc hình thành Âu Châu giúp chúng ta trong chiều hướng này”. ĐGH cũng nói về vấn đề di dân: “Không thể chấp nhận để cho Địa Trung Hải trở thành một nghĩa trang lớn, vì thế cần phải trình bày rõ ràng căn tính văn hóa của mình và đề ra những luật lệ thích hợp, biết bảo vệ các quyền của công dân Âu Châu và bảo đảm sự tiếp đón người di dân; nhưng cũng cần chấp nhận những chính sách cụ thể giúp các nước xuất cư trong việc phát triển xã hội kinh tế và vượt thắng những xung đột nội bộ, trái lại những chính sách lợi lộc giá tăng và nuôi dưỡng các xung đột.” ĐGH kết luận: “Một lịch sử hai ngàn năm liên kết Âu Châu với Kitô giáo, nhưng lịch sử này phần lớn vẫn còn phải viết lên, để cùng nhau xây dựng một Âu Châu không xoay quanh kinh tế, nhưng quanh sự thánh thiêng của con người, các giá trị bất khả nhượng. Đã đến giờ xây dựng Âu Châu can đảm ấp ủ quá khứ của mình và tin tưởng nhìn về tương lai của mình để sống trọn vẹn và sống hiện tại trong hy vọng. Đã đến lúc từ bỏ ý tưởng một Âu Châu sợ hãi và co cụm vào mình để khơi dậy một Âu Châu nắm vai chính, mang khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, các giá trị nhân bản và cả đức tin. Âu Châu nhìn, bảo vệ, bênh đỡ con người; Âu Châu tiến bước trên trái đất chắc chắn và vững chãi, là điểm tham chiếu quí giá cho toàn thể nhân loại”. Bài diễn văn của ĐGH bị ngắt quãng nhiều lần vì các tràng pháo tay hưởng ứng của các đại biểu và khi ngài vừa dứt lời, mọi người đã đứng lên nồng nhiệt vỗ tay cám ơn. Ông chủ tịch Martin Schulz đã đại diện mọi người cám ơn ĐGH vì bài diễn văn “chỉ đường” của ngài và ông gọi đó cũng là hướng đi trong tương lai của Liên hiệp Âu Châu này.
......

Hải quân Trung Cộng mạnh tới đâu?

Ngân sách quốc phòng nước Mỹ sẽ tăng, vì sang năm Đảng Cộng Hòa sẽ kiểm soát  cả hai viện Quốc Hội. Các công ty sản xuất vũ khí ở Mỹ đang vui mừng. Mừng hơn nữa, một bản báo cáo 600 trang mới nộp Quốc Hội Mỹ đã báo động về khả năng quân sự gia tăng của Trung Quốc, kết luận rằng, “Trong tình trạng Trung Quốc hiện đại hóa quân sự toàn diện và nhanh chóng, cán cân lực lượng so với Hoa Kỳ và đồng minh đang nghiêng về phía Trung Quốc.”   Hàng không mẫu hạm hiện đại nhất thế giới của Mỹ   Bản báo cáo của một ủy ban gồm những cựu nhân viên ngoại giao, tình báo, và các đại diện các doanh nghiệp, cho biết đến năm 2020 nước Mỹ sẽ đưa tới vùng Á Châu Thái Bình Dương 67 chiến thuyền và tàu ngầm, thật nhỏ so với con số 351 của Trung Quốc. Trong năm nay, Trung Quốc đã hai lần thử các hỏa tiễn WU-14, với tốc độ 8,000 dặm (12,800 km) một giờ. Thứ tên lửa này sẽ khiến cho các giàn phòng thủ chống hỏa tiễn của Mỹ kém hiệu năng, có thể vô dụng. Ngoài ra, tham vọng của Bắc Kinh trong không gian ngoài khí quyển sẽ đe dọa các vệ tinh an ninh và tình báo của Mỹ trong năm đến mười năm tới. Bộ Quốc Phòng Mỹ chỉ công bố vào năm 2006 Trung Quốc có 100 bom hạch tâm; nhưng hiện nay con số đó chắc đã tăng hàng chục lần. Từ năm 2010 đến giờ Ngũ Giác Đài cũng không báo cáo thêm về số hỏa tiễn của Trung Quốc. Nhân dịp này, nhật báo Wall Street Journal đã viết bài xã luận khuyến cáo chính phủ Mỹ phải lo đối phó với tình trạng trên. Nhưng tờ báo vốn có khuynh hướng bảo thủ này cũng công nhận bản báo cáo còn thiếu sót; và nhắc nhở rằng các phi cơ, tàu chiến và tàu ngầm của Trung Quốc phẩm chất kém xa tàu Mỹ. Quân đội của họ được huấn luyện ít và thiếu kinh nghiệm chiến trường. Về hải quân, Trung Quốc chỉ có một hàng không mẫu hạm trong khi Mỹ đang có 11 chiếc. Chiếc mẫu hạm Liêu Ninh (Liaoning) dài 300 mét, trọng tải 50,000 tấn của Trung Quốc mua lại của Ukraine vẫn còn đang chạy thử, phải nhiều năm nữa mới thật sự dùng được, đã cho chạy một chuyến đi xa đầu tiên, gặp nhiều trục trặc và thấy còn phải tu bổ thêm nhiều. Bắc Kinh trù tính sẽ chế tạo ba mẫu hạm. Nhưng một mẫu hạm chỉ có hiệu lực khi được điều động trong một hạm đội với các loại tàu chiến khác. Liêu Ninh chưa bao giờ được tập trận trong một hạm đội đầy đủ như khi lâm trận. Trung Quốc đang chế những máy bay chiến đấu theo mẫu Su-33 của Nga, ngang sức với loại F-15 và F-18 của Mỹ. Máy bay J-31 của Trung Quốc sẽ có khả năng “tàng hình,” cũng như Nga cũng đang thử loại PAK-FA tàng hình. Còn chiếc F-35 của Mỹ đã là loại phi cơ tàng hình thế hệ thứ tư. Các nước Á Đông khác phải chạy đua vũ trang đối phó với hải quân Trung Cộng. Các nhà sản xuất vũ khí trên thế giới, nhất là ở Mỹ sẽ còn nhận được nhiều đơn đặt hàng. Việt Nam mua tàu ngầm của Nga và đã được chính quyền Mỹ chấp thuận cung cấp vũ khí có khả năng chiến đấu. Nhật Bản đang cung cấp tàu tuần tiễu duyên hải cho Việt Nam và Philippines. Hai nước Indonesia và Nam Hàn đang hợp tác chế tạo tàu ngầm. Nhưng hai quốc gia phản ứng mạnh nhất là Nhật Bản và Australia. Từ năm 2011, Nhật Bản đã bắt đầu sản xuất loại tàu chiến Izumo, chi phí 1.5 tỷ đô la Mỹ. Trên lý thuyết Izumo chỉ dùng cho trực thăng trong công tác cứu cấp, vì hiến pháp hòa bình của Nhật cấm vũ khí tấn công. Nhưng chiếc Izumo dài 248 mét, trọng tải 27,000 tấn, tuy gọi là chiến hạm (destroyer) nhưng khi cần sẽ được trang bị thêm, nhanh chóng biến thành hàng không mẫu hạm; cho các loại F-35A và F-35B lên xuống. Quân đội Mỹ đang đóng ở Nhật cũng được phép cho F-35 của họ dùng chung. Chiếc Izumo đầu đã hạ thủy năm ngoái, chiếc thứ hai đang tiến hành. Nhật Bản cũng đang mua các máy bay V-22 Ospreys của Boeing, có thể lên xuống trên các tàu thủy này; cùng các máy bay không người lái Global Hawk và hệ thống báo động từ xa. Australia là quốc gia Á Đông thứ hai tăng cường vũ trang trên mặt biển, và đang hợp tác với Nhật Bản phát triển kỹ thuật tàu ngầm mới nhất. Mẫu hạm HMAS Canberra cũng được mô tả cốt dùng cho trực thăng cứu cấp. Vì Australia từng hợp tác với Mỹ trong việc sản xuất F-35 cho nên nếu cần sẽ trang bị thêm để dùng cho F-35 lên xuống. Trước cảnh toàn vùng Đông Á chạy đua vũ trang, chính quyền Cộng Sản Bắc Kinh sẽ phải dè dặt trước khi tỏ thái độ hung hăng hiếu chiến. Nếu Trung Cộng cứ tiếp tục xâm lấn các nước láng giềng, cuộc chạy đua vũ trang sẽ tăng cường độ và tốc độ trong cả vùng Đông Á Châu, lúc đó khả năng kinh tế của Trung Quốc không cho phép Bắc Kinh theo kịp. Mối đe dọa lớn nhất của hải quân Trung Cộng là đội tàu ngầm nguyên tử của Mỹ. Nhiều người trên thế giới không nhìn thấy sức mạnh này, vì chính dân Mỹ cũng không để ý. Tàu ngầm nguyên tử của Mỹ chưa bao giờ lâm chiến. Không chính phủ Mỹ nào tính đến chuyện đổ quân đánh vào nước Tàu, cho nên không cần so sánh lực lượng trên bộ. Trong một cuộc đối đầu trên mặt biển, tàu ngầm của Mỹ sẽ chiếm thế thượng phong. Chúng có khả năng tiêu diệt các chiến hạm cũng như các thương thuyền của Trung Cộng, nếu có chiến tranh giữa hai nước. Mỹ có 74 chiếc tàu ngầm, 60 chiếc được trang bị tấn công bằng hỏa tiễn để đánh chìm tàu địch hoặc bắn lên đất liền, 33 tàu ngầm trang bị đầu đạn nguyên tử. Chỉ cần mỗi chiếc tàu ngầm nguyên tử phóng ra ba thủy lôi, và chỉ cần một nửa số thủy lôi đó bắn trúng đích, tất cả các tàu chiến của Trung Cộng sẽ bị loại. Tầu ngầm có khả năng chạy im lặng dưới mặt biển, bất ngờ tấn công bằng thủy lôi hoặc hỏa tiễn, kể cả hỏa tiễn nguyên tử và hỏa tiễn bay là là ngang mặt đất. Năm 1982, chiếc tàu ngầm Conqueror của hải quân Anh đã đánh đắm chiến hạm General Belgrano, làm tê liệt hạm đội Argentina. Hạm đội Mỹ ở Thái Bình Dương có 33 tàu ngầm, đặt căn cứ ở Tiểu bang Washington, California, Hawaii, và Guam, thường ghé bến ở Nhật Bản và Nam Hàn và lâu lâu đi lên vùng Bắc Cực. Mỗi ngày có 17 chiếc đang hoạt động ngoài biển, trong đó 8 chiếc sẵn sàng ứng chiến ở những vùng có thể giao tranh, tức là gần hải phận Trung Quốc. Loại tàu ngầm Virginia-class đang dần dần thay thế loại tàu cũ Los Angeles-class, được trang bị khả năng tàng hình (stealth) và các máy thăm dò mới. Năm 2012 Quốc Hội Mỹ đã chuẩn y ngân sách cho mỗi năm sản xuất hai tàu ngầm loại này, giá 2.5 tỷ Mỹ kim mỗi chiếc. Loại tàu bí mật nhất gọi tên là Seawolfs, lớn, nhanh và trang bị vũ khí mạnh hơn, hiện có ba chiếc và cả ba đều hoạt động ở Thái Bình Dương. Loại Ohio-class trang bị mỗi chiếc 154 hỏa tiễn có thể bắn ngang. Lực lượng tàu ngầm mới của Mỹ vượt trên tất cả các nước, kể cả Anh quốc (bảy chiếc), Nga (12), mà Trung Cộng thì không thể so sánh được. Với lực lượng hải quân, nhất là tàu ngầm của Mỹ trong vùng Thái Bình Dương, trong 20 năm tới chính quyền Trung Cộng sẽ không thể nghĩ đến chuyện gây hấn với Mỹ. Sau 20 năm thì lúc đó chính nước Trung Hoa cũng sẽ thay đổi. Khả năng kinh tế của Trung Quốc đang chạm tới đỉnh cao nhất, nếu không thay đổi toàn bộ hệ thống tài chánh, xí nghiệp và ngân hàng. Tới năm 2030, Trung Quốc sẽ là nước có tỉ số dân trên 65 tuổi cao nhất thế giới, ngân sách nuôi dưỡng người già sẽ chiếm ưu tiên thay vì ngân sách quân sự. Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên nếu chính quyền Bắc Kinh phải chọn thái độ hòa hoãn đối với Mỹ cũng như với các đồng minh của Mỹ. Có thể chắc chắn là trong 20 năm tới Bắc Kinh không thể tính đến chuyện gây chiến với Nhật, Philippines; sẽ không dám xâm lăng Đài Loan mà họ chắc đã vẽ sẵn kế hoạch. Cả ba nước này đều được chiếc dù Mỹ che chở. Chỉ có Việt Nam thì không, trừ khi có biến chuyển ngoại giao mới.   Theo nguoi-viet.com
......

Tất cả chúng ta đều đang bị đầu độc

Đầu độc từ nguồn thực phẩm Không có gì để bàn cãi ở khía cạnh này, chúng ta đang ăn chất độc, uống chất độc mỗi ngày: rau cỏ phun thuốc dư lượng, thịt động vật bị bơm thuốc tăng trọng, hóa chất bảo quản, thực phẩm biến đổi Gien, trái cây ngâm thuốc nhanh chín, tươi lâu, cafe hóa chất, đồ ăn lề đường cũng hóa chất. Vâng, mọi thứ chúng ta ăn uống mỗi ngày đều có hóa chất độc hại cả, dù to dù nhỏ, dù nhiều hay ít. Và tệ hơn, mọi đồ vật chúng ta sử dụng cũng luôn có chứa một loại hóa chất nào đấy, chất làm mềm, chất tạo hương thơm, chất giữ màu… Gần như không có một loại vật dụng nào được làm ra mà không có ít nhất một vài loại hóa chất. Chúng ta có thể kiểm soát từng chất là vô hại đối với cơ thể khi sử dụng nhưng chúng ta không thể kiếm soát được nếu chúng kết hợp hay phản ứng với nhau tạo ra những chất mới. (xem thêm video Story of Stuff để biết thêm điều này). Không sao, phần lớn mọi người đều quen với điều này và nghĩ không ảnh hưởng gì to lớn lắm đến họ nên không sao cả. Dù cho đó là lý do ngày nay tỷ lệ bệnh nhân mắc các loại ung thư cao đến kỷ lục nhưng cứ không phải mình bị thì chưa sao, chưa bận tâm. Nhưng nếu như đầu độc cơ thể chỉ mang lại tác hại một phần thì có những loại chất độc khác ảnh hưởng bội phần tới chúng ta, tới cuộc sống mỗi người, tới sự phát triển của đất nước và xã hội. Một loại đầu độc cực kỳ nguy hiểm và nhất định phải bị lên án, bị tẩy chay. Đó là sự đầu độc về tâm trí Đầu độc kiến thức   Giáo dục là một trong những việc tối quan trọng của mọi quốc gia, giáo dục giúp tạo nên những thế hệ tuổi trẻ hiểu biết và sáng tạo để xây dựng đất nước, đóng góp cho đời. Chính vì thế kiến thức trong giáo dục như là dưỡng chất quan trọng nhất để nuôi dưỡng những mầm cây. Nhưng nhìn lại nền giáo dục của chúng ta, nhìn lại những kiến thức mà ta đã dạy thì hình như nó không ý nghĩa gì với sự phát triển của mầm cây bao nhiêu cả, nếu không muốn nói là độc hại khôn lường. Kiến thức lỗi thời là một sự thiệt thòi nhưng kiến thức sai lệch lại hoàn toàn là thứ vô cùng nguy hại. Hãy nhìn lại truyện Tấm Cám – câu chuyện cổ tích được chúng ta lan truyền qua bao thế hệ, dạy cho bao lớp trẻ em ngây thơ trong trắng. Trên thế giới này có câu chuyện nào ly kỳ, hấp dẫn và kinh dị đến thế không? Chúng ta được dạy rằng Cám là đứa ác độc còn Tấm thì thật đáng thương, thật dịu hiền và ai cũng mong con cái mình được trở thành cô Tấm: xinh đẹp – hiền lành – chịu thương chịu khó – nhẫn nhục. Ôi trời, Tấm hiền lành ư? Tấm dịu dàng thật sao? Hãy nhìn lại đi. Cô Tấm trong câu chuyện của chúng ta là hiện thân của cái ác, của sự tàn độc, thù hằn và tàn nhẫn mới đúng. Đó là một câu chuyện bi thương đẫm máu, ca ngợi hận thù, ghen ghét, đố kỵ, đầy những tình tiết man rợ và ác độc vô cùng. Có câu chuyện cổ tích nào trên thế giới mà nhân vật nữ chính hiền lành nhu mì lại hết lần này đến lần khác muốn trả thù, muốn hại người bằng những phương pháp thâm độc đến mức ghê rợn như thế: “Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra.” Đỉnh điểm là xui Cám tắm bằng nước sôi để được trắng da như mình, rồi khi Cám chết thì lấy xác chặt ra ướp làm mắm gửi cho mẹ nó ăn, vâng là chặt ra làm mắm. Đó chẳng phải chính là đỉnh cao của sự man rợ và tàn nhẫn sao? Tại sao lại có kiểu người ác độc như vậy được đưa vào truyện cổ tích truyền cho muôn thế hệ mà vẫn tự hào và mong mỏi? Nếu như những hành động của Cám là ác một phần thì rõ ràng Tấm còn ác gấp nhiều lần hơn thế. Vậy mà chúng ta vẫn ca tụng cô ấy ư? Trẻ con có nhất thiết phải học về sự ghen tỵ, đố kỵ, hận thù như thế? Có đáng không?   Rồi một kênh truyền hình lớn như VTV mới đây trong chương trình “Đấu trường sinh tử” sao lại có thể tuyên truyền với đại chúng kiến thức rằng con đỉa khi đốt cháy và nghiền nát thành cám rồi vẫn có thể hồi sinh? Trong khi điều này không phải là sự thật, là phản khoa học, chỉ là một tin rác được lan truyền trên mạng xã hội. Rồi thì những loại kiến thức như đất nước ta rừng vàng biển bạc, nhân dân ta chăm chỉ cần cù, chúng ta luôn xuất khẩu gạo hàng đầu, tiêu điều hạng hai, cafe hạng ba vân vân. Những thông tin kiến thức này đã quá thể lạc hậu, lỗi thời và thậm chí quá cách xa sự thật mà sao vẫn cứ dùng để dạy hoài. Tại sao người ta không dạy những kiến thức hiện đại, rằng Việt Nam là một trong những nước nghèo nàn lạc hậu sống mãi ở thế kỷ 19, rằng tài nguyên của chúng ta đã cạn kiệt rồi, rằng điều quan trọng không phải là xuất khẩu được bao nhiêu nhưng là người dân có đủ gạo để ăn chưa? Rằng thực trạng chúng ta bị tồn dư thạc sĩ tiến sĩ nhiều nhất thế giới, những người cầm bằng xanh đỏ không thể làm được con ốc con vít cho đời. Tại sao cứ chỉ bắt bao lớp trẻ học và tự hào về những ánh hào quang mốc meo của quá khứ, ép chúng phải tư duy giống nhau, phải có cùng một người bà, một người cô, một kiểu sinh hoạt gia đình trong các bài làm văn. Bắt chúng phải sợ lỗi sai, bắt chúng tin rằng bản thân chúng được đánh giá bằng những con số? Đó chính là một sự đầu độc, và đầu độc bằng giáo dục có lẽ là loại đầu độc tệ hại, gây hậu quả ngiêm trọng và tàn ác nhất. Đầu độc thông tin Xã hội hiện tại, chúng ta không chỉ tiêu thụ cơm nước mỗi ngày mà thật ra chúng ta tiêu thụ thông tin còn nhiều hơn. Thông tin chính là loại lương thực nuôi dưỡng trí óc và tâm trí mỗi người nhiều nhất. Thông tin đến từ mọi nguồn, từ ngoài đời thực vào mạng ảo, từ người lạ tới người quen, và kênh quan trọng nhất, kênh truyền thông là kênh mang lại nhiều thông tin nhất cho mọi người. Nhưng hãy nhìn lại cách truyền thông đang làm với thông tin, chúng ta sẽ nhận thấy mình đang bị đầu độc nhiều đến thế nào. Những thông tin sai lệch không được kiểm chứng, những tin rác, tin giật gân, tin sốc, tin động trời, tin hé lộ, tin bật mí…. Mọi loại tin truyền thông mang lại, đều đầu độc chúng ta theo cách nào đó. Nó khiến chúng ta quên đi những mối nguy to lớn quan trọng trước mắt mà tập trung vào những gì chúng muốn: hàng hóa, sản phẩm, trào lưu, ngoại hình, người nổi tiếng, phim ảnh… Những thứ này không hề mang lại điều bổ ích gì cho cuộc sống của chúng ta cả. Vậy mà chúng ta vẫn quan tâm. Truyền thông thật tài giỏi, nó tài giỏi dựa vào sự dễ dãi của độc giả, sự ngu ngốc và háu đói tin tức giật gân của mọi người.   Mới đây tôi đã làm một sự thống kê nhỏ xem tuổi trẻ của chúng ta hiện nay đang quan tâm tới vấn đề gì trong cuộc sống bằng cách liệt kê các tin đăng trên một website nổi tiếng dành cho giới trẻ. Và đây là kết quả:* Ngày 24/11 – bao nhiêu tiền lì xì bưng tráp cho cô dâu nổi tiếng – sao kia mặc hở đẹp hay xấu – 2 chàng trai TQ giảm cân thành hotboy – 1 cậu bé có cái tên lạ – bóc mác những bộ cánh lộng lẫy – thảm đỏ đầy sao hàn sao thổ – chuyện cái thảm chùi chân kết bằng hoa của đám cưới một ng nổi tiếng – chuyện ai đó phớt lờ sự quan tâm của ai đó (tên Hàn không đọc được) ….* Ngày 25/11 – loạt ảnh của cô bé 6 tuổi – “giật mình” 10x xưng hô vợ chồng, kể chuyện yêu nhau trên fb – mỹ nhân Việt người thon gọn, kẻ phát phì – Thật hư câu chuyện trả tiền bê tráp bèo bọt – Nong poy giữa sao hàn – Victoria’s Secret ngày xưa – áo dài Miss World nhái Burberry – Hari Won bất ngờ lôi cuốn vs vẻ gợi cảm – Hari Won (lại HW) những bí mật riêng tư khó tin – những loại mụn k nên nặn – Elsa sẽ yêu vệ thần Rise? – Một bảo mẫu ở Uganda nào đó bạo hành trẻ – tâm thư H.H gửi cho con … * Ngày 27/11 ·                     5 cựu hot-girl làm mẹ vẫn xinh ngất ngây ·                     Cô dâu Y.P xinh đẹp bên chú rể L.T ·                     Mỹ nhân nào sẽ tiếp quản danh hiệu ngọc nữ ·                     Khi cậu ấm cô chiêu làm mẫu thời trang Thôi copy mục tin hot trong ngày luôn cho nhanh ·                     Nghi vấn Chanyeol lộ ảnh mặc áo chíp của phụ nữ ·                     Top phim Hàn lãng mạn nhất mọi thời đại ·                     9 nhan sắc truyền kỳ nổi tiếng của các trường đại học Trung Hoa ·                     5 cách mix-match cực xinh với denim ·                     Thực hư việc uống nước đun sôi để nguội ·                     Nhận biết 4 căn bệnh ung thư phổ biến ·                     Park Shin Hye nào vừa khóc vừa tỏ tình với bác nuôi …. Xin lỗi vì nói ra điều này nhưng thật đáng thất vọng quá, đó là tất cả những gì tuổi trẻ – lứa tuổi tràn đầy năng lượng, nhiệt huyết và thời gian – quan tâm sao? Tất nhiên không phải là tất cả, rằng ngoài kia còn biết bao người đang đọc sách, đang nghiên cứu khoa học, công nông nghiệp, đang cố trồng cây hoa nuôi con cá, đang làm những công tác từ thiện, nhưng hình như số đó không nhiều. Phần còn lại của giới trẻ quan tâm những điều này nhất sao? Đâu rồi những kế hoạch cho cuộc đời, những giá trị của thời gian, những ý tưởng sáng tạo, những thành tựu của tuổi trẻ, những góc nhìn, chính sự? Đâu rồi những kiến thức bổ ích, những thông tin quan trọng về đất nước, về thế giới, về con người? Đó chỉ là một ví dụ nhỏ, nhưng bạn đã thấy chưa, cái cách mà truyền thông lái mọi người theo những thứ tầm thường, những tin tức vớ vẩn. Trong khi tuổi trẻ thế giới sục sôi với những phong trào chính trị, với những phát kiến phát minh, với những chuyến đi trải nghiệm khắp thế giới thì tuổi trẻ Việt Nam lại đang bị ru trong những giai điệu bài hát ngọt ngào nước bạn, những bộ phim ướt át hay những trò game thú vị quên ngày tháng, bị cuốn vào những bộ cánh đẹp đẽ, những phát ngôn gây sốc, những con người nổi tiếng… Nếu như truyền thông làm việc mà nó cần phải làm, phải có trách nhiệm, đó là lan truyền thông tin, là những tin tức giá trị, những kiến thức về cuộc sống thì nhất định thế hệ trẻ nghiện tin tức của chúng ta sẽ thật đáng tự hào. Sẽ không còn những thống kê “nhói đau” kiểu này nữa: 1.                  Có 45/45 em đi học bằng xe đạp. Trong đó: Có 3 em phân biệt được líp và đĩa, có 10 em phân biệt được săm và lốp. Và không có em nào biết sửa xe. 2.                  Có 41/45 em, thường đi qua sông suối. Trong đó, chỉ có 4 em biết bơi, kiểu bơi “chó ngoi nước lụt”. Số còn lại, chỉ biết lặn, kiểu lặn “xuống nước, ba ngày sau mới nổi”. 3.                  Có 45/45 em thường xuyên ăn cơm. Trong đó chỉ có 15 em biết nấu cơm, nhưng trong 15 em biết nấu thì chỉ có 5 em thường xuyên nấu cơm cho gia đình. Có 17/45 em thỉnh thoảng có rửa bát. 4.                  Có 45/45 em nhớ sinh nhật của 3 người bạn thân trở lên. Trong đó, chỉ có 4 em là nhớ ngày sinh của bố mẹ mình. 5.                  Có 45/45 em đọc sách, (nhưng là đọc các sách giáo khoa). Trong đó có 5 em có đọc sách truyện, nhưng lại bị bố mẹ cấm đoán, phải đọc lén. Có 2 em đã đăng kí mượn sách thường xuyên tại tủ sách miễn phí của thầy Trợ, nhưng sau khi bị bố mẹ phát hiện, lại xin thôi. 6.                  Có 45/45 em thường xuyên đi học thêm. Có 45/45 em có khả năng vào ĐH và 45/45 em mong muốn trở thành cán bộ nhà nước.” Vâng, rõ ràng chúng tôi không muốn có một thế hệ cán bộ nhà nước như các em, những người không bao giờ đọc sách, không biết giúp đỡ gia đình, không trải nghiệm, chỉ biết ngồi ăn sẵn như những con thú cưng nuôi trong lồng kiếng như thế. Và tất nhiên, không trách các em được, có trách thì nên trách nền giáo dục đầu độc và một mạng lười truyền thông khổng lồ đã đầu độc các em, như đã đầu độc bao lớp người Việt. Đầu độc tư tưởng Chúng ta còn bị đầu độc bằng những tin vui khủng khiếp, rằng là nước hạnh phúc thứ ba thế giới, mặc cho mọi khía cạnh về đời sống, kinh tế, xã hội, hạ tầng, giao thông vận tải, giáo dục, y tế đều gần như thuộc top những nước tồi tệ nhất. Chúng ta bị đầu độc rằng truyền thống ngàn năm văn hiến thật tốt đẹp, những nét văn hóa chợ cóc, văn hóa xe máy, văn hóa lúa nước, văn hóa làng xã… những thứ này đều là văn hóa và đã là văn hóa thì thật tốt đẹp, cần phải bảo tồn. Chúng ta được đầu độc rằng kinh tế đang phát triển, GDP vẫn tăng đều mặc cho nợ công sắp vỡ tới nơi, mặc cho cách tính GDP chẳng giống một ai trên thế giới cả. Ai đó đã nói, cách tính GDP của chúng ta là lấy tổng chia cho đầu người để ra con số, kiểu như một người chỉ ăn rau, môt người được ăn con gà, nhưng khi chia đều thì ai cũng được ăn cả rau và gà cả, thật tốt đẹp làm sao. Chúng ta được đầu độc rằng chi tiêu và mua sắm là việc tối quan trọng, rằng ngoại hình và vật phẩm xa sỉ là thứ sẽ làm nên con người chúng ta. Chúng ta được đầu độc rằng mối quan hệ Việt Nam và thế giới thật tốt đẹp, chúng ta luôn được yêu thương, luôn được tôn trọng và ai khi nghe đến tên Việt Nam cũng vỡ òa kính nể. Sự thật thì bạn hãy hỏi những người hay đi ra nước ngoài sẽ rõ. Chúng ta được đầu độc rằng Việt Nam giàu có với cơ sở hạ tầng đang được cải thiện chóng mặt, những công trình ngìn tỉ mọc như nấm, nhà văn hóa trăm tỉ, trụ sở phường xã tỉnh lị ủy ban nghìn tỉ, đến cầu cống thậm chí cái nhà vệ sinh cũng phải vài tỉ thì biết Việt Nam mình đang phát triển khủng khiếp thế nào. Đến ông tổng thanh tra luôn than nghèo kể khổ còn có vài ba cái biệt thự bỏ hoang không ai thèm ở, mà dám nói Việt Nam nghèo sao?   Vâng, tất cả chúng ta, ít hay nhiều, đều đang bị đầu độc… Câu hỏi đặt ra là, chúng ta chấp nhận để bản thân mình chịu cảnh này tới khi nào? Phi Tuyết   Nguồn: triethocduongpho.com
......

Blogger Người Lót Gạch cũng lại bị bắt theo điều 258

Cổng thông tin điện tử Bộ công an đưa tin ngày Chủ nhật, 30/11/2014 Giáo sư Hồng Lê Thọ, chủ nhân trang blog Người Lót Gạch, một trí thức kiều bào về nước, vừa bị bắt giam vào khuya ngày 29 tháng 11 theo điều 258 Bộ Luật hình sự Việt Nam. Đây là trường hợp mới nhất tại Việt Nam bị bắt theo điều luật mà lâu nay bị lên án là mơ hồ nhằm trấn áp các tiếng nói phản biện trong nước. Người ‘thoát Trung’ mạnh mẽ Tin tức về việc ‘bắt quả tang’, rồi ‘khám xét nhà khẩn cấp’ và ‘bắt giam’ giáo sư Hồng Lê Thọ, chủ nhân trang blog Người Lót Gạch được blog nguyentandung loan đi sớm nhất. Cổng thông tin của Bộ Công An có thông tin tương tự như trên trang blog nguyentandung. Theo đó cơ quan an ninh điều tra TP. HCM theo tin tố cáo của quần chúng đã tiến hành biện pháp nghiệp vụ của họ đối với ông Hồng Lê Thọ, sinh năm 1949, hiện ngụ tại số 32 Cửu Long, phường 15, quận 10, TP. HCM.   Cơ quan điều tra cho rằng ông Hồng Lê Thọ cho đăng trên mạng các bài viết với nội dung mà cơ quan này cho là ‘có nội dung xấu, thông tin sai lệch, làm giảm uy tín, mất lòng tin trong nhân dân với cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân theo điều 258 Bộ luật hình sự’. Nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, một người biết rõ về giáo sư Hồng Lê Thọ, cho biết những nhận xét của bản thân đối với người vừa bị bắt như sau: Tôi đã quen biết anh Thọ nhiều năm nay và tôi rất có tình cảm với anh Thọ. Tôi cho đó là một người trí thức có tinh thần dân tộc cao, một trong những người đưa ra đường lối ‘thoát Trung’ mạnh mẽ nhất, tách bạch và có chiều sâu nhất. Anh Thọ là một Việt Kiều Nhật, anh rành cả tiếng Pháp và tiếng Anh, trang Người Lót Gạch của anh có thể nói gần như là trang duy nhất ở Việt Nam điểm tin bằng tiếng Pháp và tiếng Anh, cung cấp lượng thông tin bổ ích cho độc giả. Anh cũng là người có kiến thức sâu trong khá nhiều lĩnh vực và có quan hệ với nhóm Việt Studies ở Hoa Kỳ và một số nước Phương Tây. Theo tôi tựu trung lại anh là người có quan điểm rất ôn hòa về chính trị. Không bao giờ có chuyện nói anh vi phạm điều 258, chuyện lợi dụng cái này, lợi dụng cái kia hay vấn đề dân chủ để lật đổ chế độ hay tuyên truyền chống phá chế độ. Thậm chí khi nói chuyện với tôi anh phê phán thẳng một số quan điểm cực đoan; nhưng tôi không biết Nhà nước này bắt anh để làm gì?Nếu không vì một lý do gì đặc biệt và ẩn giấu, người ta phải công khai tất cả mọi chuyện, minh bạch hóa, không thể bắt giữ công dân một cách tùy tiện, mà đặc biệt vẫn sử dụng điều luật 258 mà quốc tế lên án. Nhà báo Phạm Chí Dũng cũng có ý kiến về việc bắt giữ giáo sư Hồng Lê Thọ mà được nói là do những bài viết đăng trên Internet có nội dung xấu, thông tin sai lệch như cơ quan an ninh điều tra nêu ra: Theo tôi khó có thể đánh giá qua những bài viết, những bài đăng lại trên trang Người Lót Gạch để qui ra tội chống phá chính quyền. Thực sự tôi không đọc khá thường xuyên trang Người Lót Gạch vì bận quá nhiều việc; nhưng chúng tôi gặp nhau thường xuyên nói chuyện. Trước khi anh Thọ bị bắt khoảng hai tuần, chúng tôi có gặp nhau uống cà phê, và tôi thấy anh Thọ vẫn ổn, ôn hòa và anh nói về những bài viết, bài đăng lại trên trang Người Lót Gạch thì không có vấn đề gì cả. Đó là theo anh ta nhận định, và tôi cũng nghĩ rằng nếu Nhà nước muốn bắt những người bị coi là bất đồng chính kiến vào thời điểm này thì Nhà nước Việt Nam phải rất cân nhắc về chuyện làm sao họ có đủ lý do, đủ cơ sở, không thể đưa ra những lý do tùy tiện như trước đây, đặc biệt đối với những người như anh Hồng Lê Thọ. Tôi biết trong nhóm trí thức Việt Kiều, nhất là nhóm luôn có mong ngóng, mong đợi đóng góp những ý kiến phản biện để xây dựng kinh tế, xã hội, kể cả góp ý về một số vấn đề chính trị đối với Nhà nước Việt Nam, anh Thọ là người có uy tín và anh luôn đưa ra những gợi ý, những đóng góp mà tôi cho có giá trị. Anh cũng là người mà ở trong nước không phải ít người biết đâu, khá nhiều người biết anh, đặc biệt trong giới dân chủ- nhân quyền. Thành thử uy tín xã hội và năng lực cá nhân của anh Hồng Lê Thọ là vấn đề mà tôi cho rằng khi muốn bắt giữ anh, Nhà nước phải cân nhắc, phải thận trọng nếu không sẽ gặp phản ứng rắc rối và lớn chuyện từ phía Hoa Kỳ và Phương Tây.   Bắt theo tố giác Việc tiến hành khám xét và bắt giữ giáo sư Hồng Lê Thọ, chủ nhân trang blog Người Lót Gạch, còn được nói là theo tin tố giác của quần chúng. Nhà báo Phạm Chí Dũng có ý kiến về điều này:   Về mặt tố giác của quần chúng, đó là một cụm từ chung trong pháp luật và điều tra xét hỏi bên ngành công an, điều đó không có gì sai vì tố giác của quần chúng là một cơ sở để có thể dẫn đến bắt giữ, bắt giam một nhân vật, một đối tượng hình sự nào đó. Tuy nhiên so với những nhân vật bất đồng chính kiến khác trước đây, lần này cơ quan an ninh điều tra lại dựa vào tố giác của quần chúng, đó là một hiện tượng khá bất thường, một cụm từ khá lạ được ứng vào trường hợp này. Tôi biết trong thực tế điều tra, xét hỏi ở Việt Nam, thường người ta áp dụng cơ sở tố giác của quần chúng đối với tội phạm là những trường hợp đối tượng hình sự; chứ không phải những đối tượng hoạt động chính trị, những nhân vật bất đồng chính kiến, hoặc dân chủ, đấu tranh cho nhân quyền. Trường hợp này áp dụng với anh Hồng Lê Thọ, tôi cho là khá lạ. Điều đó cho tôi một chút hy vọng là anh Thọ có thể sẽ không bị bắt lâu. Có thể qua một quá trình điều tra nào đó ngắn hạn, cơ quan Nhà nước: các cơ quan công an, chính quyền cũng sẽ phải thả anh ra.   Vào chiều ngày 27 tháng 11 vừa qua, một nhóm sinh viên tại Hà Nội cũng bị lực lượng chức năng ập vào nhà khám xét, bắt đưa về đồn Công an cũng như tịch thu một số tài liệu về dân chủ, nhân quyền của những sinh viên này. Việc làm đó cũng được nói là do có tố cáo của người dân những sinh viên này tàng trữ chất cháy, chất nổ. Facebooker Lý Quang Sơn phản bác về cơ sở có tố cáo để đột nhập vào phòng trọ của các bạn như sau: Họ viện cớ dùng đơn tố cáo để xâm nhập vào nhà chúng tôi. Tôi nói tôi hoàn toàn có thể dùng đơn tố cáo bất kỳ một quan tham nhũng nào, và ngay ngày mai tôi yêu cầu họ phải xông vào nhà quan tham nhũng đó để điều tra. Tôi thách đố họ làm điều đó, nhưng họ không thể làm được, họ không nói gì. Điều 258 vô lý Việc khám nhà và bắt giữ giáo sư Hồng Lê Thọ, chủ nhân trang blog Người Lót gạch, là trường hợp mới nhất bị bắt giữ theo điều 258 Bộ Luật Hình sự Việt Nam. Điều luật này lâu nay bị nhiều người quan tâm cho rằng mơ hồ và Nhà nước lập ra để dễ bề trấn áp những tiếng nói đối lập, phản biện. Hiện nay có hai trường hợp cũng đang bị truy tố và giam giữ với cáo buộc ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, công dân’ theo điều 258 là blogger Anh Basam Nguyễn Hữu Vinh và người cộng sự Nguyễn thị Minh Thúy. Nguồn: vietnamese/in_depth/1-mr-blog-258-11302014050249.html
......

Trung Quốc không là nước siêu cường

Trung Quốc không là siêu cường quốc và cũng không phải là nước có khả năng thống trị trong vùng. Ngay sau khi các hội nghị Asian ở Bắc Kinh và G20 ở Bisbane (Úc) vào trung tuần tháng 10 vừa chấm dứt, viện nghiên cứu Kokoda Foundation của Úc công bố một bản báo cáo cho rằng Trung Quốc có thể là một cường quốc kinh tế, nhưng nước này sẽ không trở thành một cường quốc bao trùm trong vùng. Khi xem xét các yếu tố trong hướng phát triển của Trung Quốc để có thể trở thành một siêu cường có khả năng chi phối và can thiệp hữu hiệu trên toàn cầu để đạt được các mục tiêu của họ, thì người ta cũng thấy rằng các dự đoán về một nước Trung Hoa có khả năng thống trị châu Á sẽ là quá sớm, nếu không nói là không thực tế. Các tác giả của bản báo cáo vừa kể nhận định về lập luận cho rằng, với sự tăng trưởng kinh tế và khả năng quân sự (hiện nay) Trung Quốc vốn dĩ đã là một cường quốc rồi, là không đứng vững. Những giới hạn của nền kinh tế Trung Quốc, sự thiếu vắng các mối quan hệ song phương chặt chẽ và sự yếu kém về khả năng quân sự, khiến Trung Quốc không trở thành quốc gia tiên tiến (về chính trị và kinh tế) có ảnh hưởng bao trùm trong vùng sớm sủa được. Với mức tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc năm nay khoảng 7%, thấp nhất từ 5 năm qua, tuy là mức tăng trưởng mà nhiều nước phải ghen tị, nhưng theo các chuyên gia thì chính sự sụt giảm năng xuất kinh tế này là dấu hiệu rõ nhất cho thấy Trung Quốc không thể tiếp tục giữ được mức tăng trưởng như đã thấy. Bản báo cáo của viện nghiên cứu Kokoda cũng cho biết, hiệu năng kinh tế của Trung Quốc vào năm 2012 được ước đoán vào khoảng 1/5.5, tức là nếu đầu tư 5.5 đồng thì chỉ cho ra thành phẩm có giá trị 1 đồng. Những diễn tiến và thực tế trong kinh nghiệm phát triển kinh tế của nhiều nước Đông Á trong những năm qua cho thấy, tỷ xuất hiệu năng đó chỉ phản ánh sự phung phí lớn lao cũng như không hiệu quả trong đầu tư kinh tế. Điều này không thể kéo dài mãi được. Kinh tế gia Xiaolu Wang và Yixiao Zhou, đồng tác giả của luận án “’Deepening Reform for China’s Long-term Growth and Development (’Cải Cách Sâu Rộng cho Con Đường Tăng Trưởng và Phát Triển Dài Hạn ở Trung Quốc’) cũng đồng ý với nhận định vừa kể và cho rằng: đối với nền kinh tế trung bình như của Trung Quốc thì hiệu suất đầu tư bị sụt giảm quá nhiều, như đã diễn ra trong 10 năm qua, phản ánh tình trạng kém hiệu năng trên con đường phát triển của Trung Quốc. Hơn thế nữa, Trung Quốc không thể tạo ra được một bước nhảy vọt để từ một nước có thu nhập trung bình lên hàng những quốc gia có thu nhập cao. Gia tăng tiêu chuẩn mức sống của người dân là một đòi hỏi cần thiết để được xếp hạng trong danh sách các quốc gia có ảnh hưởng. Làm như vậy đòi hỏi Trung Quốc phải gia tăng rất lớn cho ngân sách an sinh xã hội, trợ cấp thất nghiệp cũng như y tế đại chúng. Hiện nay ngân sách an sinh xã hội chỉ chiếm khoảng 10.5% và cho y tế 6.1% trong ngân sách của Trung Quốc. Mặc dù quốc phòng chiếm đến 15% ngân sách của Trung Quốc, nhưng theo bản báo cáo của Kokoda Foundation thì Trung Quốc cũng không thể trở thành một siêu cường quân sự cho đến khi nào nước này có khả năng hành động mang tính quyết định trên phạm vi toàn cầu. Thực tế cho thấy hải quân Trung Quốc hiện nay chỉ là hải quân của vùng nước xanh lá cây (tức vùng duyên hải của Trung Quốc và vùng phía bắc biển Đông của Việt Nam), chứ chưa phải là hải quân nước xanh lam, tức viễn dương, để có khả năng hoạt động toàn cầu. Vụ tìm kiếm xác chiếc máy bay MH370 của Mã Lai (bị mất tích vào đầu tháng ba năm 2014) dưới đáy biển phía tây nước Úc và nam Ấn Độ Dương, đã cho thấy khả năng rất giới hạn về khoa học kỹ thuật và đặc biệt là giới hạn về khả năng của hải quân Trung Quốc. Trung Quốc phải mượn cảng Albani (Tây Úc) để làm căn cứ tạm cho tàu bè và máy bay của họ. Nếu so sánh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ thì sự cách biệt về các khả năng nêu trên là “một trời một vực”. Không tính lực lượng hàng không mẫu hạm, thì từ sau thế chiến thứ hai Hoa Kỳ đã thiết lập những căn cứ hải và không quân, cũng như có những thoả thuận với các quốc gia thân hữu để sử dụng những phương tiện đó, rải rác trên khắp thế giới. Trong khi Trung Quốc không có một căn cứ nào như vậy bên ngoài lãnh thổ của họ, ngoại trừ các căn cứ nhỏ trên 3 hòn đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa mà họ lấn chiếm của Việt Nam. Nếu biết rằng tàu bè và máy bay đều chỉ có tầm hoạt động giới hạn, thì mới thấy những căn cứ sửa chữa và tiếp liệu như Hoa Kỳ đã có quan trọng dường nào (nếu không nói là mang tính quyết định). Ngay cả 3 căn cứ của Trung Quốc trên biển Đông vừa nêu, tuy hiển nhiên là sự đe doạ sống còn đối với Việt Nam, nhưng đối với Hoa Kỳ thì lại rất dễ dàng bị vô hiệu hoá bằng một cuộc tấn công từ xa mà Trung Quốc không thể nào chống đỡ được. Dù rằng Trung Quốc đã phát triển những vũ khí có thể gây nguy hiểm cho lực lượng quân sự Mỹ khi tiến gần đến (lãnh thổ) Trung Quốc, nhưng thực tế đã cho thấy Trung Quốc không có khả năng dùng toàn lực để phong toả Đài Loan hoặc để thực hiện được một cuộc tấn công toàn lực đổ bộ xâm chiếm đảo quốc này.   Hệ quả của các cuộc tranh chấp lãnh hải với Nhật Bản và mấy nước lân cận đã khiến Trung Quốc trở thành quốc gia không có bạn bè. Cuộc khảo sát của viện nghiên cứu PEW vào đầu năm nay cho biết, trong số 8 quốc gia Á Châu được khảo sát thì có đến 5 nước ác cảm đối với Trung Quốc. Sự thiếu thiện cảm này làm giảm sút ảnh hưởng của Bắc Kinh cũng như gây trở ngại cho khả năng chi phối các vấn đề trong vùng mà Trung Quốc mong muốn. Ông Varathan, một kinh tế gia cao cấp của ngân hàng Mizuho (Nhật Bản) cũng đồng ý rằng, tuy Trung Quốc vẫn đang cố gắng đổ tiền đầu tư hầu tìm kiếm bạn bè ở trong vùng, nhưng họ không có được uy tín của quyền lực mềm mà một nước có ảnh hưởng cần phải có. - - -   Tài liệu tham khảo: 1. Why China won’t be Asia’s dominant power (https://ca.finance.yahoo.com/news/why-china-wont-asias-dominant-power-05...) 2. Search For Missing Malaysia Jet Reveals China’s Navy Vulnerability (http://www.businessinsider.com/r-search-for-mh370-reveals-a-military-vul...) 3. World Wide Aircraft Carriers (http://www.globalsecurity.org/military/world/carriers.htm) 4. Trung Quốc có đáng sợ hay không? (http://nguoiviettv.com/?p=20088)   Theo Viettan.org
......

Trận chiến ngoại tệ sắp tới

Trong khi đồng Mỹ Kim cứ lên giá liên tục so với các ngoại tệ chính yếu khác thì đồng Yen của nền kinh tế đứng hàng thứ ba thế giới là Nhật Bản lại sụt giá mạnh và còn có thể sụt nữa. Vì sao lại như vậy và hậu quả cho các nền kinh tế khác trên thế giới sẽ là gì? Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu nguyên do và ảnh hưởng của sự chuyển động ấy qua phần phân tích cùa chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Xin quý thính giả theo dõi cách Việt Long nêu vấn đề như sau đây. Thế giới sẽ gặp biến động về ngoại hối Việt Long: Xin kính chào ông Nghĩa. Cách đây một tháng, khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đưa ra một dự báo bi quan về tình hình kinh tế toàn cầu, thì trên diễn đàn này ông nói đến việc Mỹ Kim lên giá so với các ngoại tệ khác và nhấn mạnh là thế giới sẽ gặp nhiều biến động về ngoại hối. Từ mấy ngày qua, người ta lại thấy đồng Yen của Nhật sụt giá mạnh so với tiền Mỹ và nhiều loại ngoại tệ khác. Nhật Bản có sản lượng kinh tế đứng hàng thứ ba của thế giới sau Hoa Kỳ và Trung Quốc và là một quốc gia xuất cảng rất mạnh. Khi tiền Nhật sụt giá như vậy thì ảnh hưởng sẽ ra sao cho các nền kinh tế khác? Chúng tôi nêu vấn đề trong mục đích tìm hiểu về những biến động ngoại hối mà ông đã nhắc đến từ tháng trước.   Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng hôm Thứ Ba 17 vừa qua, Thủ tướng Nhật là ông Shinzo Abe loan báo quyết định giải tán Quốc hội để tổ chức bầu cử sớm vào ngày 14 tháng tới. Việc ấy xảy ra sau khi có thống kê xác nhận kinh tế Nhật lại bị suy trầm nữa trong Quý Ba vừa kết thúc vào Tháng Chín. Trước đó, vào ngày 31 Tháng 10, Ngân hàng Trung ương Nhật cũng quyết định sẽ lại bơm thêm tiền theo phương pháp gọi là "gia tăng mức lưu hoạt có hạn định" hay "quantitative easing" gọi tắt là QE với số lượng cực lớn, dự trù là tương đương với hơn 700 tỷ đô la mỗi năm, cho đến khi kinh tế ra khỏi suy trầm hoặc lạm phát lên tới 2% thì mới ngưng. Khi đồng Yen mất giá thì hàng hóa của Nhật lại trở thành rẻ hơn, tức là dễ xuất khẩu hơn, nên sẽ gây sức ép cho các nền kinh tế sống nhờ xuất khẩu, thí dụ như kinh tế Đức và Trung Quốc. -Nguyễn-Xuân Nghĩa Những biến cố dồn dập ấy giải thích vì sao tiền Nhật mất giá so với các ngoại tệ khác như Mỹ Kim hay đồng Euro của Âu Châu. Nếu nhìn trong dài hạn thì việc đồng Yen mất giá là sự chuyển động dễ hiểu với hậu quả có thể là một trận chiến về ngoại tệ giữa các nền kinh tế lớn trên thế giới khiến nhiều quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, sẽ lâm vào khó khăn trong các năm tới.   Việt Long: Chúng ta lần lượt tìm hiểu hiện tượng này để phần nào thấy trước được biến động ấy. Trước hết, xin ông nói về kinh tế Nhật và những lý do khiến tiền Nhật sẽ còn mất giá nữa. Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nhật Bản có vấn đề trường kỳ là nạn dân số sút giảm với tỷ trọng rất lớn của người cao niên lớn tuổi – mà người ta gọi là nạn lão hóa dân số. Lý do sâu xa này khiến mức tiêu thụ sút giảm và hàng họ mất giá. Trong khi đó, vì mở ra làm ăn với toàn cầu, kinh tế Nhật vẫn có ưu điểm là nơi đầu tư ổn định khiến thiên hạ trút tiền mua đồng Yen để tìm cơ hội kiếm lời trên thị trường Nhật. Kết hợp hai chuyện 1) dân số và tiêu thụ giảm khiến kinh tế bị nạn giảm phát – disinflation – và 2) nội tệ lên giá dẫn tới hiện tượng giá cả trong nước sụt đều làm người dân càng tiết kiệm và đình hoãn chi tiêu để chờ khi giá hạ hơn nữa. Hoàn cảnh éo le ấy khiến các doanh nghiệp Nhật bị điêu đứng. Đầu tư giảm vì mức lời sụt dẫn tới việc cắt lương và mở ra vòng xoáy lẩn quẩn: lương hạ càng đánh sụt mức tiêu thụ và làm kinh tế đình trệ. Sự chuyền động lớn này giải thích vì sao kinh tế Nhật bị suy trầm liên tục từ hai thập niên đã qua. Thế rồi, chiếm đa số áp đảo sau cuộc bầu cử vào cuối năm 2012, Chính quyền của Thủ tướng Abe mới áp dụng chánh sách cải cách táo bạo, được gọi là Abemomics, nhắm vào ba hướng gọi là "ba mũi tên". Thứ nhất là cố tình gây lạm phát qua biện pháp tăng chi để bơm tiền vào kinh tế theo cái ý khuyến khích dân chúng hãy mua ngay đi kẻo mai này hàng lên giá. Thứ hai là cải tiến môi trường kinh doanh để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư bằng cách giảm thuế doanh nghiệp, khi đó thuộc loại cao nhất địa cầu. Thứ ba là cải tổ toàn bộ cơ chế kinh tế, xã hội và chính trị Nhật để tìm sức bật mới.... Việc tăng chi chưa có kết quả thì Ngân hàng Trung ương Nhật áp dụng biện pháp tăng mức lưu hoạt, tức là bơm thêm tiền vào kinh tế, với một số lượng tương đối cao gấp đôi Hoa Kỳ. Vì thế mà tiền Nhật mới mất giá. Khi đồng Yen mất giá thì hàng hóa của Nhật lại trở thành rẻ hơn, tức là dễ xuất khẩu hơn, nên sẽ gây sức ép cho các nền kinh tế sống nhờ xuất khẩu, thí dụ như kinh tế Đức và Trung Quốc.   Việt Long: Xin được hỏi ông một câu là vì biện pháp tăng chi ngân sách, Nhật Bản hiện mắc nợ nhiều nhất, có thể lên tới 250% tổng sản lượng kinh tế. Thưa ông, đấy không là một vấn đề sao?   Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng đấy là một vấn đề, nhất là khi ta nhớ đến khoản tiền lời phải thanh toán, có khi chiếm một tỷ trọng lớn của các khoản chi ngân sách như nếu phân lời đi vay mà lên tới 2% thì tiền lời sẽ lên tới 80% của số tổng thu về thuế khóa. Nhưng, có một thực tế văn hóa và tâm lý mà mình nên chú ý. Khoản công trái rất cao của Nhật có hai đặc tính. Thứ nhất, tuyệt đại đa số là "nội trái", được yết giá bằng đồng Yen, tức là "Nhật nợ Nhật" chứ không nợ ngoại quốc. Thứ hai, chủ nợ của đa số các khoản nợ ấy lại là Ngân hàng Trung ương Nhật, nghĩa là chủ nợ cũng là chủ nhà in giấy bạc và nhờ vậy có quyền quyết định về phân lời cao thấp khi bơm tiền ra. Vì thế, thị trường tài chánh Nhật vẫn ổn định và không bị giao động nặng - trong khi dân Nhật bấm bụng bảo nhau cho nhà nước vay tiền trong tinh thần liên đới gọi là "rau cháo có nhau". Khi Trung Quốc càng tỏ vẻ hung hăng đe dọa quyền lợi của Nhật thì người dân Nhật lại càng chịu đựng và hậu thuẫn chính quyền để cố gắng vượt khó khăn kinh tế. Bây giờ ta mới nói đến chuyện ngoại hối là hối suất đồng Yen....   Nguy cơ suy sụp Việt Long: Như ông vừa trình bày thì có phải chăng là việc tiền Nhật mất giá là một hiện tượng có những lý do sâu xa và lâu dài hay không? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa là câu chuyện còn rắc rối hơn vậy nếu ta nhìn trong trường kỳ. Khoảng 40 năm trước, có lúc tiền Nhật quả thật là quá rẻ mà nhiều người đã quên mất rồi vì phải hơn 300 đồng Yen mới ăn một Mỹ Kim. Khi kinh tế toàn cầu bị tổng suy trầm vào các năm 2008-2009 và tiền Mỹ mất giá thì là lúc đồng Yen lên giá, một đô la chưa ăn được 80 Yen vào năm 2011. Nó chỉ bắt đầu sụt vào cuối năm 2012, rồi dập dình cả năm 2013 qua tới 2014 ở mức trăm đồng ăn một Mỹ Kim. Bây giờ mới sụt mạnh và còn sụt nữa, có thể tới 150 hay thậm chí 200 đồng vào một hai năm tới. Nhưng so với cái giá 300 hay 350 vào những năm 1970-1975 thì vẫn chỉ bằng phân nửa mà thôi.   Việt Long: Thưa về lâu dài thì ý nghĩa sẽ ra sao? Nhìn trong lâu dài thì điều ấy có nghĩa là gì? Là trong khoảng 40 năm, có lúc tiền Nhật tăng giá gấp bốn so với đô la và doanh nghiệp Nhật bị thất thế khi cạnh tranh với doanh nghiệp Hoa Kỳ hay với thiên hạ. Họ phải tìm lợi thế bằng cách khác, chứ không nhờ tiền rẻ mà dễ bán hàng hơn. Một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách cứ tưởng như bất ngờ và ngoài khối công nghiệp hóa. -Nguyễn-Xuân Nghĩa Việt Long: Bây giờ ta mới nhìn qua xứ khác. Thưa ông, đồng Yen mà mất giá như vậy thì hậu quả sẽ là thế nào với các nước khác? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin lấy một thí dụ nổi bật nhất là nền kinh tế đứng sau nước Nhật và cũng lệ thuộc mạnh vào xuất khẩu, đó là kinh tế Đức. Sau đó mới tới Nam Hàn và Trung Quốc. Trong giai đoạn khó khăn sau vụ Tổng suy trầm thì doanh nghiệp Nhật bị mất sức cạnh tranh so với doanh nghiệp Đức, coí thể là mất tới hơn một phần ba trong các năm 2010 đến 2012. Thí dụ như tại Mỹ này thì ta thấy xe hơi của Đức bán chạy hơn xe Nhật. Ngoài lợi thế từ chuyện tiền Nhật lên giá, ta  không quên rằng khi đó Trung Quốc dốc sức đầu tư vào khu vực nội địa là xây dựng hạ tầng cơ sở như cầu đường và gia cư địa ốc hơn là xuất khẩu. Nhờ vậy mà Đức trở thành đầu máy cứu vãn cả khối Euro. Bây giờ, cả hai lợi thế ấy của kinh tế Đức đều hết vì tiền Nhật mất giá và kinh tế Trung Quốc co cụm, mất khả năng nhập khẩu. Khi kinh tế Đức cũng suy trầm như người ta bắt đầu thấy từ tháng trước thì cả Âu Châu sẽ lâm nạn, nhất là khi các nước phải chấp hành chính sách cải tổ hệ thống ngân hàng theo yêu cầu của Hội đồng Ổn định Tài chính. Việt Long: Phải chăng vì vậy mà hồi nãy ông mới nói đến một trận chiến ngoại tệ giữa các quốc gia khi tiền Nhật sụt giá? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Quả thật là Ngân hàng trung ương của Âu Châu có phản ứng bơm thêm tiền khiến đồng Euro sẽ mất giá. Nam Hàn cũng vừa có động thái hạ lãi suất, y như trường hợp của Trung Quốc. Ít ai nói ra cái chữ dễ sợ là một trận chiến về ngoại tệ nhưng sự thật thì xứ nào cũng kích thích kinh tế qua các biện pháp tiền tệ hay tín dụng với hậu quả là làm giảm tỷ giá đồng bạc so với các ngoại tệ khác. Các nước Á châu hiện lâm vào hoàn cảnh đó. Khốn nỗi, người ta không thể xuất khẩu lên cung trăng để phục hồi kinh tế mà phải bán hàng cho nhau. Khi kinh tế trì trệ thì các nước nhập khẩu ít hơn và xứ nào sống nhờ xuất khẩu sẽ bị hại nhất vì dù có làm giảm giá đồng bạc thì cũng chưa thoát hiểm mà còn phải trả hóa đơn cao hơn khi mua hàng xứ khác với đồng tiền mất giá. Đấy cũng là bài toán nan giải cho ngân hàng trung ương của Việt Nam. Một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách cứ tưởng như bất ngờ và ngoài khối công nghiệp hóa, có chín nền kinh tế lớn bị nhiều bất trắc nhất, đó là Trung Quốc, Liên bang Nga, Brazil, Chile, Argentina, Ấn Độ, Indonesia, Turkey và Nam Phi. Ngoại lệ duy nhất vẫn là Hoa Kỳ dù tiền Mỹ lên giá, và hôm qua Thứ Ba 25, bộ Thương mại Hoa Kỳ đã điều chỉnh đà tăng trưởng theo hướng cao hơn. Việt Long: Ông vừa nói đến sự kiện là "một cách chậm rãi, thế giới đang gặp nguy cơ suy sụp nặng một cách bất ngờ". Cách đây hơn một năm, trong dịp phân tích Hội nghị Ban chấp hành Trung ương kỳ bảy tại Hà Nội, ông có nói đến hiện tượng mà các nhà vật lý gọi là "cát truồi", nghĩa là một cách chậm rãi người ta cứ lặng lẽ tích lũy thêm những yếu tố thất quân bình cho tới khi có sự sụp đổ bất ngờ. Phải chăng, chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng đó khi các nước đều cố hạ giá đồng bạc để thoát hiểm mà rốt cuộc lại kéo nhau vào khủng hoảng? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng cái gọi là trật tự kinh tế chính trị của các nước là điều gì đó vô cùng phức tạp vì là kết quả của nhiều động thái khác nhau. Về trường hợp Việt Nam thì tờ World Affairs vừa có bài bút ký khá dài của nhà báo Michael Totten với đề tựa rất lạ, đó là "Phải chăng đã đến ngày tàn của đảng Cộng sản Việt Nam"? Ra khỏi chuyện Việt Nam thì ta nhớ tới kế hoạch Nga bán năng lượng cho Tầu. Họ tưởng khôn khi nhận tiền bằng đồng Nguyên của Tầu thay vì đô la Mỹ. Nào ngờ dầu thô sụt giá và đồng Nguyên sẽ còn mất giá nữa trong trận chiến ngoại hối sắp tới trong khi đô la lên giá. Kết quả là Nga thu về đồng bạc mất giá trong khi vẫn phải trang trải các khoản nhập khẩu khác bằng tiền Mỹ. Tức là Tổng thống Vladimir Putin có thể hoành hành tại Ukraine và cùng Trung Quốc thì coi thường Hoa Kỳ chứ đang bị thiệt cả hai đầu. Những chuyện như vậy đang chậm rãi xảy ra trước mắt chúng ta mà ít ai chịu để ý! Việt Long: Xin cảm tạ ông Nghĩa về lời cảnh báo này. Theo rfa.org/vietnamese
......

"Tự do báo chí ở Việt Nam tệ hơn rất nhiều"!

Giám đốc Mạng lưới báo chí điều tra toàn cầu: “Tự do báo chí ở Việt Nam tệ hơn rất nhiều”Tâm Don- Alex Truong thực hiện   “Mảng báo chí điều tra chỉ có thể phát triển trong một nền báo chí tự do. Hay nói một cách khác, tự do báo chí nuôi dưỡng mảng báo chí điều tra. Không có tự do báo chí sẽ không có báo chí điều tra. Báo chí điều tra là sự thể hiện sinh động sức sống của một nền báo chí có chất lượng”, ông David E. Kaplan- Giám đốc Mạng lưới báo chí điều tra toàn cầu (Global Investigative Journalism Network) đã nói như vậy trong lần gặp gỡ với Việt Nam Thời Báo (VNTB) tại Manila- Philippines. Ông David E. Kaplan Hiểu một cách đơn giản, tự do báo chí đối với ông có nghĩa là gì? Ông David E. Kaplan: Tự do báo chí là việc bạn có thể nói, đăng tải và phát sóng bất cứ gì bạn muốn. Trong một xã hội tự do, mọi người đều có quyền tranh luận với nhiều ý tưởng khác nhau. Tương tự thị trường hàng hóa và dịch vụ, bạn cũng cần một thị trường của những ý tưởng. Theo ông, quốc gia nào có chỉ số tự do báo chí cao nhất? Ông David E. Kaplan: Câu hỏi này tôi không phải là chuyên gia để trả lời, một số tổ chức chuyên theo dõi vấn đề này sẽ biết rõ hơn tôi. Tuy nhiên, theo tôi thấy, thông thường những thứ hạng cao nhất thuộc về các nước Bắc Âu như Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan. Hoa Kỳ và Canada cũng có thứ hạng khá cao. Kể từ khi chủ nghĩa cộng sản chấm dứt ở Liên Xô và Đông Âu, tự do báo chí đã lan rộng trên thế giới. Giờ đây hầu hết các nước đều có tự do báo chí nên nhà báo và những người làm nghề viết khác có thể đăng tải mọi điều họ muốn. Nhưng thật sự thì vẫn còn một số ít quốc gia cho rằng việc kiểm duyệt dư luận là cần thiết. Trong một thế giới đã toàn cầu hóa, để cạnh tranh với các nước khác, bạn cần phải có dòng chảy tự do của thông tin. Nơi nào vẫn chưa gỡ bỏ gọng kìm kiểm soát truyền thông và tự do tư tưởng thì nơi đó sẽ bị tụt lại phía sau. Đó không chỉ là vấn đề nhân quyền mà nó còn là trở ngại cho phát triển kinh tế. Nhận thấy được điều đó nên Liên Hiệp Quốc đã ghi nhận tự do ngôn luận và tự do báo chí là những quyền phổ quát.   Vì sao các tổ chức quốc tế như Phóng Viên Không Biên Giới và Freedom House luôn xếp hạng những quốc gia có thể chế độc tài như Trung Quốc, Cu Ba, Bắc Triều Tiên, Việt Nam có chỉ số tự do báo chí thấp nhất?   Ông David E. Kaplan: Do tư duy lạc hậu của những người lãnh đạo vẫn còn sống trong quá khứ. Việt Nam vốn có tiềm năng vô cùng to lớn. Các bạn là những người rất chăm chỉ, các bạn còn có nguồn tài nguyên thiên nhiên trù phú và một lớp người trẻ muốn hướng đến tương lai. Nhưng các bạn không thể hướng đến tương lai nếu không có tự do thông tin. Chủ trương kiểm soát mọi mặt thông tin trong xã hội đang ngày càng trở nên lỗi thời. Làm thế nào có thể giữ kín mọi bí mật trên Internet? Bạn không thể áp đặt sự kiểm soát lên thông tin khi mà ngày nay nó không còn bị ngăn trở bởi biên giới nữa. Vì vậy, điều quan trọng là bạn đưa được tiếng nói của mình đến với nhiều người. Tất nhiên, chính quyền Việt Nam có quyền trình bày quan điểm của họ, nhưng họ phải biết sống chung với các chỉ trích. Chính quyền cần học cách tiếp nhận các phê phán và chỉ trích như Tổng thống Barack Obama, Tổng thống Brazil hay Tổng thống của Indonesia ngày nay.   Việt Nam rồi sẽ thay đổi, đó không phải là câu hỏi “có hay không” mà là “khi nào” mà thôi. Kiểm soát thông tin chỉ hiệu quả trong thế kỷ 20. Bây giờ là thế kỷ 21, thời đại mà trên Internet thông tin có mọi cách để tìm đến mọi người. Vì vậy, với các nước như trên, khi nào họ mới tính đến viễn cảnh tương lai, bây giờ hay khi đã trễ?   Trong tương lai gần và tương lai xa, chỉ số tự do ở các nước vừa nói trên liệu có được cải thiện không và mức độ cải thiện đến đâu? Ông David E. Kaplan: Từ những bài học lịch sử gần đây, chúng ta thấy mọi chuyện sẽ thay đổi rất nhanh một khi thông tin gần như không thể bị ngăn chặn được nữa. Thanh niên ngày nay lớn lên trong sự tiếp nhận một lượng lớn thông tin từ Internet. Và bạn thử nhìn xem, chính quyền không còn có thể kiểm soát mọi thứ. Từ những thông tin ở cấp lãnh đạo chóp bu cho đến những vấn đề thời sự hằng ngày như y tế, thuốc men, giáo dục, hay tính hiệu quả của chính quyền địa phương. Ở những nước trải qua quá trình hiện đại hóa – Việt Nam đang bắt đầu quá trình này – sẽ xuất hiện một tầng lớp trung lưu. Những người từ tầng lớp này sẽ có những câu hỏi yêu cầu sự trả lời. Họ có quyền đặt câu hỏi. Bạn biết đấy, chẳng hạn như, ‘Vì sao dịch vụ hành khách công cộng lại không hoạt động hiệu quả?’, ‘Vì sao tuyến đường này vẫn chưa được sửa?’, hay ‘Vì sao ngày càng có nhiều công an nhận hối lộ?’. Không thể kìm nén những thắc mắc đó mãi được. Cuối cùng cả hệ thống sẽ thay đổi. Công việc của nhà báo đơn giản là đại diện cho tiếng nói của công chúng. Chúng ta là những người giám sát với nhiệm vụ phản ánh tâm tư và thắc mắc từ xã hội. Vì vậy khi tư duy và tiếng nói của xã hội ngày càng độc lập và mạnh mẽ hơn, báo chí cũng sẽ theo đó phát triển. Thưa ông, ông có quan tâm đến báo chí Việt Nam hay không? Theo ông, Việt Nam có tự do báo chí hay không và Việt Nam cần phải làm gì để có tự do báo chí?   Ông David E. Kaplan: Tôi nghĩ các bạn sẽ là người quyết định phải nên làm gì. Các bạn luôn phải đối mặt với nguy cơ tù tội, sách nhiễu và đàn áp vì những điều các bạn viết ra. Đó là việc rất khó để tôi có thể hiểu được, và tôi không muốn các bạn phải gặp bất kì nguy hiểm nào. Truyền thông chỉ là một phần của xã hội, và xã hội của các bạn đang thay đổi. Vì vậy bên cạnh các nhà báo, có những người khác cũng đang nỗ lực cho cải cách. Đó là thanh niên, sinh viên, giới chuyên môn, tầng lớp trung lưu, những người làm ăn kinh doanh cần sự minh bạch thông tin; đó còn là các quan chức cấp tiến trong chính phủ các bạn. Áp lực thay đổi sẽ đến từ nhiều nơi khi xã hội dần hiện đại hóa. Chúng ta biết rằng để quá trình hiện đại hóa diễn ra thành công, cần hội đủ các điều kiện gồm chính sách thương mại tốt, một nền kinh tế lành mạnh, dịch vụ y tế và giáo dục có chất lượng. Và chúng ta cũng cần có truyền thông độc lập với vai trò là người giám sát – một phần không thể thiếu. Một số quốc gia đang phát triển nhanh chóng là vì họ đã khôn ngoan nhìn thấy rõ điều này. So với các nước trong khu vực Đông Nam Á thì tự do báo chí ở Việt Nam tốt hơn hay tồi tệ hơn? Ông David E. Kaplan: Phải nói là tệ hơn rất nhiều. Việt Nam hiện đang bị đẩy ra rìa, đất nước tách biệt so với các quốc gia còn lại. Myanmar đã bắt đầu hiện đại hóa và dỡ bỏ kiểm duyệt. Indonesia và Philippines giờ là những nước tự do. Thailand đang có dấu hiệu thụt lùi nhưng so với Việt Nam vẫn có sự tự do hơn. Bạn biết không, khi chúng tôi đang trong quá trình chuẩn bị hội thảo này (Hội thảo báo chí điều tra Châu Á lần thứ nhất), một nhà báo Việt Nam vì quá sợ nên đã từ chối có tên trong danh sách diễn giả. Đó là kiểu luật pháp gì khi mà làm một diễn giả trong một hội thảo cũng bị cho là phạm tội? Thật điên rồ.   Việt Nam đang cầm tù rất nhiều nhà báo, blogger do họ có chính kiến khác với nhà cầm quyền. Ông đánh giá như thế nào về hành xử của chính quyền Việt Nam đối với sự bắt giữ này?   Ông David E. Kaplan: Trong ngắn hạn, những hành động này khiến những người cầm quyền cảm thấy an tâm, nhưng về lâu dài đó là sự lãng phí thời gian và phản tác dụng đối với xã hội. Cần có môi trường tự do trao đổi ý tưởng, cần có sự chấp nhận những khác biệt để tranh luận công bằng. Đó là cách một xã hội tiến lên. Thoạt nhìn đó là một không gian hỗn độn nhiều chiều nhưng cuối cùng lại rất hữu ích. Bởi nếu tồn tại tham nhũng, yếu kém, thiếu năng lực hay lãng phí trong quản lý, những vấn đề này sẽ được công khai trước ánh sáng. Và điều đó tốt cho tất cả mọi người từ trên cao xuống thấp. Tóm lại, điều tôi muốn nói là truyền thông tự do và độc lập không chỉ đơn thuần là một quyền con người, nó còn là phần không thể thiếu của quá trình phát triển. Vì vậy, để Việt Nam tiến lên phía trước, song song với kinh tế, đất nước các bạn cũng cần mang lại tự do cho truyền thông báo chí. Nguồn: fvpoc.org
......

Huyền thoại đu dây

Khi người ta nói Việt Nam đang đu dây giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ thì sự ví von ấy hàm ý liều lĩnh, bắt cá hai tay, muốn chơi với cả hai bên mà lại không thật lòng với bên nào. Có nghĩa là cà chớn. Và như thế thì rốt cuộc chẳng được gì. Sẽ trơ trọi, sẽ đơn độc. Và trò “đu dây” ấy sẽ rất nguy hiểm. Nhưng trên thực tế Việt Nam có đu dây không? Người đu dây là một người tự tin, dũng cảm, mạnh mẽ và tài năng. Nhưng đứng trước Trung Quốc và Mỹ thì chính quyền Việt Nam không hề có các tố chất ấy.         -Không tự tin vì mặc cảm nước nhỏ, nghèo nàn, lạc hậu. Trước đây Việt Nam huênh hoang là “đánh thắng ba đế quốc sừng sỏ”. Nay thì tự ti đến nỗi một ông bộ trưởng Tàu sang Việt Nam để “kêu gọi đứa con hoang trở về” mà chính quyền cứ im thin thít. -Không dũng cảm vì nó giết ngư dân mình mà mình còn sợ phạm huý, chỉ dám gọi nó là “tàu lạ”. Nó đổ quân chiếm đảo của mình mà mình lại ra lệnh không được kháng cự để đến nỗi bị nó bắn tan xác 65 chiến sĩ hải quân ở Gạc Ma chỉ trong vòng mấy phút. -Không mạnh mẽ vì vũ khí thời chiến tranh để lại thì đã rỉ sét, vũ khí mới mua thì lèo tèo vài ba cái làm kiểng, và nạn tham nhũng tràn lan, quanh năm lo vơ vét ăn chặn, cắt xén, rút rỉa ngân sách, còn chí khí đâu mà đánh giặc? Thử hỏi một kẻ nhu nhược, tự ti mặc cảm và nghèo rớt mồng tơi như Việt Nam thì nhìn thẳng vào mặt người ta còn không dám, nói chi tới chuyện đu dây. Vì đu dây là “giỡn mặt tử thần”. Việt Nam có bản lãnh gì mà dám đu dây? Và điều quan trọng nhất là từ khi ông Hồ tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp đã khẳng định chỗ đứng của mình là trong vòng tay Trung Quốc rồi. Thắng trận Điện Biên Phủ cũng là nhờ vũ khí Trung Quốc, thắng Mỹ cũng nhờ vũ khí Trung Quốc.   Cho nên miệng thì nói “không có gì quý hơn độc lập tự do” nhưng trong lòng thì đã quyết “đổi độc lập tự do đề nắm cho được chính quyền”. Từ chọn lựa đó mới đẻ ra “Cải Cách Ruộng Đất”. Trong chiến dịch này nhà cầm quyền Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc đến nỗi vì muốn lấy lòng họ mà phải bắn bỏ nhiều nhân sĩ yêu nước từng đem cả tài sản mình ra giúp đỡ kháng chiến.   Năm 1990 ông Linh cùng các đồng chí của ông tại hội nghị Thành Đô đã làm một việc mà bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gọi là: “Bắt đầu một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm”. Năm 2010 liên tiếp nhiều phái đoàn quân sự cấp cao của Việt Nam sang học tập ở Trung Quốc, dấn thêm những bước quan trọng vào sự lệ thuộc quân sự. Rõ ràng là ngay từ những ngày đầu thành lập chế độ, thì Việt Nam đã hành xử như một tỉnh lẻ của Trung Quốc -trừ một giai đoạn ngắn từ năm 1975 đến 1979 có ý muốn thoát Trung và lập tức bị TQ “cho một bài học” bằng cuộc chiến tranh biên giới 1979 –  còn lại, từ trước 1945 đến nay, chính quyền Việt Nam đã một lòng theo Trung Quốc, đã chọn Trung Quốc làm ông chủ, đã nguyện nâng khăn sửa túi cho Trung Quốc, đã khép nép làm “con nuôi” của các vị cha già dân tộc: Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và ngày nay là Tập Cận Bình.   Với một “thân phận” như vậy, liệu Việt Nam có tư cách để “đu dây” qua phía Mỹ không? * Chuyện Việt Nam đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ xem ra chỉ là bịa đặt. Nhưng sao lại có chuyện các vị lãnh đạo cao cấp Việt Nam thăm viếng Hoa Kỳ? Tôi cho rằng các cuộc thăm viếng ấy cũng nằm trong kịch bản của Trung Quốc. Việt Nam muốn vào TPP, muốn mua vũ khí của Mỹ. Cả hai việc ấy cũng chỉ có lợi cho Trung Quốc. Xưa nay phần lớn các hàng xuất khẩu của “Việt Nam” sang Mỹ chỉ là trên giấy tờ, chỉ là nói cho oai, thực ra đó là hàng của Trung Quốc sản xuất tại Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu – tiếng là của Việt Nam – thực ra cũng là kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Việt Nam mua của Nga 2 tàu ngầm Kilo, nhưng Trung Quốc đã mua 20 tàu ngầm kilo giống như vậy. Liệu 2 chiếc có gãi ngứa được 20 chiếc nếu xảy ra chiến tranh không? Nếu câu trả lới là KHÔNG thì mua tàu ngầm để làm gì? Đối với một kẻ nhu nhược, mặc cảm và run rẩy thì có con dao trên tay hay không, cũng giống hệt nhau. Bởi vì vấn đề là anh có dám đâm hay không. Nếu anh không dám đâm thì cầm dao để làm gì? Mua dao để làm gì? * Vậy thì những dư luận cho rằng: -Việt Nam đang đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ. -Mỹ bỏ cấm vận bán vũ khí cho Việt Nam vì vấn đề nhân quyền -Việt Nam mua vũ khi của Nga và Mỹ để đương đầu với Trung Quốc… tất cả đều xạo, vì: 1/ Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Việt Nam luôn khẳng định mối quan hệ trước sau như một với Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Trung Quốc; thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển theo phương châm “16 chữ vàng” và tinh thần “4 tốt”. 2/ Mớ vũ khí Việt Nam mua được quá ít ỏi (tiền đâu mua nhiều?), đối với Trung Quốc chỉ là những đồ chơi. Chưa kể việc Trung Quốc đã xây xong một sân bay quân sự trên đảo Hoàng Sa rồi. Cái sân bay ấy còn lợi hại hơn cả một hàng không mẫu hạm vì nó “đậu” sát bờ biển Việt Nam (chỉ cách Đà Nẵng hơn 300 km) và không thể bị đánh chìm!   3/ Mỹ cũng rất muốn bán vũ khí cho Việt Nam (chế tạo vũ khí là một trong những nền công nghiệp quan trọng của Mỹ). Mỹ đưa vấn đề “nhân quyền” ra để mặc cả với Việt Nam cũng chỉ là màu mè, ra vẻ ta đây quan tâm tới nhân quyền, còn phía Việt Nam thì giữ thể diện cho Mỹ bằng cách thả tượng trưng vài người nổi tiếng. Trên thực tế nếu Việt Nam đếch thả người nào thì Mỹ vẫn bán vũ khí như thường (ngu sao không bán?) 4/ Việt Nam mua vũ khí của Nga, của Mỹ nhưng không xài (vì có dám đánh nhau với Trung Quốc đâu mà xài?). Vậy mua để làm gì? Câu hỏi này làm người ta nghĩ ngay tới vụ Vinashin mua cái “ụ nổi”. Và vô số vụ “mua về đắp mền” khác nữa.   * Chúng ta đang sống trong một thời đại XẠO HẾT CHỖ NÓI. Nga cũng xạo, Mỹ cũng xạo, Trung Cộng cũng xạo và Việt Nam cũng… rứa. “Mười Sáu Chữ Vàng”, “Bốn Tốt” cũng xạo, Mỹ “quan ngại sâu sắc” cũng xạo, Mỹ “bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí” cũng xạo, mà “đu dây” cũng xạo nốt. ĐÀO HIẾU   Nguồn: daohieu.wordpress.com
......

NỢ CÔNG CỦA VIỆT NAM - QUẢ BOM NỔ CHẬM

Đây là phần cuối bài viết của TS kinh tế Trần Diệu Chân viết về hiện tượng nợ công đang đè nặng lên nền kinh tế Việt Nam vốn dĩ sống được nhờ bán tài nguyên (dầu, than đá, gạo, gỗ, ...) và sức lao động rẻ mạt của công nhân - giai cấp lãnh đạo đất nước (sic). Phần này nói về "hệ lụy do vỡ nợ" và đề nghị giải pháp cho vấn đề này. BBT   Định nghĩa “nợ công” Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ Công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay từ người dân hay ngoại quốc để tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách hằng năm. Tuy nhiên, cách tính nợ công của Việt Nam … “không giống ai” khiến tình trạng trầm trọng của nợ công và nguy cơ vỡ nợ của quốc gia không được thẩm định đúng mức. Nợ công của Việt Nam chỉ nói đến nợ của Chính phủ và bộ máy công quyền, chứ không hề tính tới nợ của doanh nghiệp nhà nước, các xí nghiệp công ích và bảo hiểm xã hội mà nhà nước phải chịu trách nhiệm. Do trong định nghĩa nợ công không có các khoản này nên Năm ngoái (2013),   Việt Nam báo cáo nợ công chiếm 54% GDP (Tổng sản lượng Quốc gia), nhưng nếu tính thêm các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước thì lên tới 106% GDP . Còn năm nay, con số đó có thể cao hơn nhiều. Con số 64% của nhà nước chỉ phản ánh một nửa thực tế. Xét về thực chất, nợ công VN đang ở mức “rất nguy hiểm” nếu theo tiêu chuẩn quốc tế.   Khả năng trả nợ của Việt Nam Khả năng trả nợ không chỉ đánh giá bằng tổng số nợ hay tỷ lệ nợ so với GDP mà còn do tiềm lực trả nợ của quốc gia. Nếu so sánh tỷ lệ Nợ Công/GDP , Nhật nợ tới 200%, Mỹ nợ 100% mà không có vấn đề gì. Trong khi đó, Argentina vỡ nợ khi nợ công mới ở mức 54% GDP. Do đó, khi Việt Nam đưa ra tỷ lệ an toàn để khỏi vỡ nợ là 65% của GDP thì đây là điều không thực tế. Điều quan trọng là phải xem tốc độ gia tăng nợ nhanh hay chậm so với tốc độ tăng trưởng của GDP và triển vọng phát triển của nền kinh tế. Nếu tính cả số nợ của doanh nghiệp nhà nước, nợ trái phiếu chính phủ, nợ đọng xây dựng cơ bản thì nợ công của Việt Nam đã vượt trần. (theo báo cáo Quốc hội hoàn thành ngày 28/10/2014) . Nhiều đại biểu QH bày tỏ sự lo lắng trước tình hình nợ công lớn, xu hướng tăng nhanh, rủi ro lớn, và đang ở mức báo động; áp lực trả nợ rất lớn trong khi khả năng trả nợ của nhà nước không cao. Tính trong nhiệm kỳ (2011-2015), chính phủ phải vay và phát hành trái phiếu chính phủ lên tới tổng số 60 tỉ USD. Đặc biệt, năm 2014 Việt Nam đã phải vay trên 3 tỉ Mỹ kim để đảo nợ. Năm 2015, sẽ phải vay hơn 6 tỉ MK để đảo nợ.   Trong dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm cho sự tăng trưởng GDP chậm lại và nguy cơ lạm phát khi phát hành trái phiếu để đảo nợ. Hệ lụy do vỡ nợ Chuyện vỡ nợ công của Việt Nam đang là một đe dọa hiển nhiên theo sự nhận xét của nhiều chuyên gia kinh tế. Nếu quốc gia vỡ nợ, tình trạng kinh tế sẽ khủng hoảng như sau: 1) Thị trường chứng khoán sẽ sụp đổ và điểm tín dụng xuống cấp thê thảm. 2) Mọi cơ chế tài chánh sẽ phải đóng cửa. Tiền mất giá, lạm phát leo thang, trái phiếu và đồng nội tệ sẽ chỉ còn là mớ giấy lộn. Tiền gởi trong ngân hàng sẽ “bốc hơi” vì mất giá trị. 3) Mọi chương trình do chính phủ tài trợ đều ngưng hoạt động (y tế, cảnh sát, an ninh, quốc phòng, giáo dục, cầu, đường, năng lượng v...v...). Quỹ hưu trí tan vỡ, nhà thương, trường học ngưng hoạt động. 4) Các thương vụ đóng cửa và nạn thất nghiệp tràn lan. Mọi mặt hàng khan hiếm kể cả nhu yếu phẩm. Giá cả tăng vọt. Đời sống của người dân sẽ bị đảo lộn hoàn toàn. 5) Nội loạn sẽ xảy ra và không có người để duy trì trật tự công cộng. Nạn đói và cướp bóc sẽ xảy ra. Hiện tượng vô kỷ luật, vô trật tự, vô tổ chức sẽ hoành hành   6) Kẻ giàu có sẽ cuỗm tiền bạc quốc gia và trốn ra ngoại quốc Đó là trong ngắn hạn. Còn dài hạn thì con cháu chúng ta sẽ phải trả nợ - có thể suốt đời. Tiền trả các món nợ đó sẽ cướp đi cơ hội đầu tư để phát triển đất nước. Việt Nam tiếp tục đi giật lùi so với đà phát triển của thế giới, và có thể tiếp tục bị chi phối, khai thác, thao túng bởi những thành phần xấu trong cộng đồng dân tộc cũng như ngoại bang.   Giải pháp cứu cấp Việt Nam Theo Ts Lê Đăng Doanh, một chuyên gia kinh tế trong nước, thì « Việc giải quyết vấn đề nợ công của Việt Nam đòi hỏi phải có những biện pháp cấp bách trước mắt và những biện pháp tái cơ cấu lâu dài, những điều đó đòi hỏi Nhà nước Việt Nam phải trải qua một cuộc cải cách hết sức mạnh mẽ, mạnh mẽ hơn cả kỳ đổi mới cách đây 30 năm » (RFA). Tác giả bài viết này xin đưa ra một số giải pháp cấp thiết và cải cách lâu dài, bao gồm: 1. Thành lập một Ủy Ban Cấp Cứu Nợ Công (UBCCNC) với các chuyên gia yêu nước để nghiên cứu các giải pháp thực tiễn, không phân biệt trong nước hay hải ngoại. UBCCNC hoạt động độc lập với Đảng và Nhà nước, và có toàn quyền giám sát, quyết định và đề nghị giải pháp. 2. Song song, thực hiện 3 yếu tố căn bản cần thiết cho một nền kinh tế lành mạnh, đó là a/thiết lập hệ thống thanh tra độc lập/chuyên nghiệp, và nền tự do truyền thông để bảo đảm « kiểm tra và cân bằng » (check and balances) hầu bài trừ tham nhũng và những hoạt động khuất tất, bảo đảm minh bạch/công khai sổ sách chi thu và các chính sách kinh tế ; b/thiết lập một nền luật pháp nghiêm minh ; c/thiết lập nền chính trị « tam quyền phân lập » để tránh tình trạng « mâu thuẫn lợi ích » (conflict of interest), xóa bỏ chính sách ưu đãi và đặc quyền/đặc lợi. 3. Ngay lập tức, yêu cầu mọi cấp chính quyền « thắt lưng buộc bụng », xong cần nghiên cứu để các khoản chi cho công ích xã hội không bị giảm làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống đã quá khó khăn của người dân hiện nay. Hữu hiệu hóa các chi tiêu và đầu tư cho đúng người, đúng việc.   4. Cắt giảm tối đa hệ thống công an, cảnh sát, dư luận viên hiện nay đang được xử dụng dư thừa và vô ích để theo dõi và hành hung các nhà yêu nước. 5. Cải thiện guồng máy quan liêu, cồng kềnh, kém hiệu năng hiện nay. 6. Thay đổi tư duy về một nền « kinh tế thị trường dưới định hướng xã hội chủ nghĩa». Dẹp bỏ các công ty quốc doanh và tư hữu hóa các hoạt động kinh tế. Cần phải cải tổ nền kinh tế theo nguyên tắc kinh tế thị trường đúng nghĩa, không thể tiếp tục cấu trúc quái thai « KTTT dưới định hướng XHCN » 7. Hợp tác chân thành với các quốc gia dân chủ khắp nơi để thoát khỏi sự khuynh loát/lấn lướt cả về kinh tế lẫn chính trị của Trung Cộng. Để thực hiện được những điều này, lãnh đạo đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam cần cởi bỏ tư duy « thù nghịch » và « nghi ngờ » với bất cứ ai khác chính kiến hoặc cổ võ cho tự do/dân chủ ; cần có tư duy cấp tiến của thế kỷ 21 - cởi mở, chấp nhận mọi khuynh hướng, tôn trọng quyền làm chủ đất nước của người dân, hợp tác để cùng tiến (win-win situation) thay vì lối suy nghĩ lạc hậu « ta-địch, thắng-thua » của thế kỷ trước.   Trần Diệu Chân Tiến sĩ kinh tế Tổng hợp từ nhiều nguồn 22 tháng 11, 2014 ------------- Nguồn tham khảo:   1. http://boxitvn.blogspot.com/…/ba-thang-mat-mot-ti-ola-bao-g… 2. http://www.ijavn.org/…/nguoi-dan-viet-nam-se-ra-sao-khi-nha… 3. http://rfa.org/…/vn-public-debt-quick-outpaced-101520141515… 4. http://tuoitre.vn/…/cu-moi-ba-thang-viet-nam-tra-no-1-ti-usd) 5. http://vietbao.vn/…/That-lung-buoc-bung-de-gi…/196026602/87/ 6. http://vietbao.vn/…/No-cong-cua-Viet-Nam-da-v…/196042780/87/ 7. http://vi.wikipedia.org/w…/N%E1%BB%A3_ch%C3%ADnh_ph%E1%BB%A7
......

Con voi trong phòng

"Việt nam có đầy đủ tiềm năng nhưng tại sao   tụt hậu ngày càng xa sau các nước khác?" - câu trả lời rành rành đó rồi... Đọc trên danluan thấy có đăng lại những thông tin thú vị về đất nước và con người Việt Nam (1). Ở phần cuối bày, tác giả (Kỳ Duyên) đặt câu hỏi "Việt nam có đầy đủ tiềm năng nhưng tại sao tụt hậu ngày càng xa sau các nước khác?" Người phương Tây có thành ngữ "an elephant in the room" (một con voi nó đang ở trong phòng), có nghĩa là có một vấn đề / tình huống / giải pháp / nguyên nhân rất hiển nhiên mà không ai muốn nói về nó. Tôi nghĩ câu "một con voi nó đang ở trong phòng" chính là trả lời cho câu hỏi của nhà báo Kỳ Duyên. Thôi thì cứ nói thẳng ra: "Con voi" đó chính là cái chủ nghĩa làm nền tảng thế chế mà VN đang theo đuổi. Xin trích ra đây những con số chính về dân số và tài nguyên thiên nhiên: (a) Dân số: 93 triệu, đứng hạng 13/243. (b) Diện tích: 331,210 km^2, hạng 61/189. (c) Bờ biển: 3444 km, hạng 33/154. (d) Rừng: 123,000 km^2, hạng 45/192. (e) Đất canh tác: 30,000 km^2, hạng 32/236. Còn về thành quả kinh tế - xã hội – khoa học thì sao? (a) Giáo dục: chỉ số phát triển con người đứng hạng 121/187. (b) Bằng sáng chế: không đáng kể, gần như 0. (c) Ô nhiễm môi trường: đứng hạng 102/124. (d) Thu nhập bình quân đầu người: đứng hạng 123/182. (e) Tham nhũng: hạng 116/177. (f) Phát triển xã hội: hạng 72/76. (g) Tự do ngôn luận: 174/180. (h) Y tế: hạng 160/190. Với những con số về tài nguyên thiên nhiên và dân số chúng ta nghĩ rằng VN đáng lẽ phải là nước giàu có. Chả thế mà ông Lý Quang Diệu chẳng từng nói rằng VN đáng lẽ phải là một "ngôi sao" ở Á châu. Nhưng trong thực tế thì các số liệu trên cho thấy VN là một trong những nước nghèo nhất thế giới, ô nhiễm nặng nề, thiếu tính sáng tạo, tham nhũng vào hàng cao trên thế giới, và thiếu tự do ngôn luận. Có thể nói không ngoa rằng VN là một nước thất bại. Nhưng tại sao thất bại? Tôi nghĩ ai trong chúng ta cũng có một vài câu trả lời. Trước đây, tôi thường hay nghĩ rằng sự thành bại của một quốc gia là do thời cơ, điều kiện tự nhiên, và con người. Những nước như Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore thành công vì hội đủ 3 điều kiện đó. Nhưng mới đọc cuốn “Tại sao các quốc gia thất bại” của Daron Acemoglu và James Robinson (2), trong đó tác giả chứng minh rằng thể chế có ảnh hưởng rất lớn đến thành bại của một quốc gia. Họ lí giải rằng sở dĩ các nước nghèo và lạc hậu là do thể chế chiếm đoạt về chính trị và kinh tế. Tôi nghĩ minh hoạ cho ý này sinh động nhất là trường hợp Bắc Hàn và Nam Hàn. Cũng có thể so sánh Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam trước 1975 thì rất dễ thấy "con voi trong phòng". Đối chiếu lại ở Việt Nam, chúng ta thấy đại đa số người Việt cũng bị tước đoạt như thế. Ngay cả đất đai tưởng là của dân, nhưng thật ra là thuộc "sở hữu của toàn dân"! Các tập đoàn kinh tế chỉ tập trung vào một thiểu số có quyền thế gọi một cách mĩ miều là “nhóm lợi ích”. Đại đa số người Việt không có quyền quyết định chính trị. Do đó, theo lí giải của Acemoglu & Robinson, chúng ta có thể giải thích tại sao Việt Nam cho đến nay vẫn còn nghèo: vấn đề thể chế. Đó chính là "an elephant in the room" mà không ai -- kể cả nhà báo Kỳ Duyên -- muốn nói đến nó . ------------------------ (1) http://www.danluan.org/…/nhung-thong-ke-the-gioi-ve-viet-nam   (2) http://nxbtre.com.vn/tai-sao-cac-quoc-gia-that-bai.12340.49…. Ai chưa đọc cuốn này, nên tìm đọc vì rất hay. Nó giải thích tại sao những nước như VN vẫn còn nghèo và lạc hậu.   Theo facebook.com/drtuannguyen/
......

Phó thủ tướng Đức gặp gỡ giới hoạt động nhân quyền VN tại Sài Gòn

(VNTB) - Lúc 8g tối ngày 21/11/2014 phái đoàn của Phó thủ tướng Sigmar Gabriel đã gặp trao đổi với 6 người bảo vệ nhân quyền VN, gồm Huỳnh Thục Vy, Mẹ Nấm, Lê Quốc Quyết, Nguyễn Trí Dũng, Huỳnh Trọng Hiếu và tôi (Phạm Bá Hải), tại khách sạn Sheraton Saigon. Tháp tùng cùng phái đoàn Đức còn có nhiều quan chức cao cấp chính phủ và Bộ ngoại giao của Đức. Hội nghị thứ 14 doanh nghiệp Đức khu vực Châu Á-Thái Bình Dương (The 14th Asia-Pacific Conference of German Business (APK)) diễn ra tại Sheraton Saigon trong hai ngày 20-21/11. Đức là đối tác lớn nhất của Âu châu đối với VN chiếm 20% tổng thương mại EU-VN. Kim ngạch hai chiều của hai nước đạt gần 8 tỷ đô la Mỹ. Trong vài lời đầu với nhóm hoạt động nhân quyền VN, ông Sigmar nói rằng “Mối bang giao thương mại VN-Đức đang mở rộng, nhưng không thể chỉ nói chuyện với VN bằng kinh tế mà còn có mối quan tâm khác, về nhân quyền”. Với tư cách là Điều phối viên Hội Cựu tù nhân lương tâm (CTNLT), tôi sơ lược tình hình phát triển các tổ chức XHDS độc lập. Hội CTNLT chủ xướng các cuộc họp mặt hằng tháng đã bị ngăn cản quyết liệt suốt mấy tháng qua và tháng rồi đã không thể tổ chức. Bên trong các TNLT bị ngược đãi, kỹ luật, còn đối với những ai đã mãn án thì gặp muôn vàn khó khăn quấy nhiễu, đe dọa, cô lập. Đặc biệt là tình trạng CA AN hành hung tấn công công khai. Toàn bộ tình hành hiện tại vi pham nhân quyền VN đã được ông Tham tán chính trị Nhân quyền ĐSQ Đức Felix Schwawz xác nhận đã nhận được các báo cáo mà tôi đã gửi. Các vụ bạo hành tra tấn nhắm vào người bất đồng chính kiến và giới bảo vệ nhân quyền phải chấm dứt tại VN. Hội CTNLT đã đề xuất thực hiện đồng bộ 3 giải pháp: 1. Tiếp tục đề xuất chính quyền VN lưu tâm tình trạng nguy kịch của các TNLT, kêu gọi thả các trương hợp cụ thể, như ông Sigmar cũng đã nói là ông đã kêu gọi thả TNLT Mai Thị Dung, Tạ Phong Tần, Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đoàn Huy Chương. 2. Cần áp lực VN xóa bỏ Điều 79, 88 và 258. Đây là căn nguồn của các vụ bắt bớ vi phạm nhân quyền. Mở rộng không gian cho người bảo vệ nhân quyền. Nếu Đức không có các biện pháp áp lực thì các vụ kêu gọi thả sẽ chỉ là các vụ đổi chác mà chính quyền VN đã chủ ý để đổi lấy các hiệp ước kinh tế với Đức. 3. Ủng hộ các tổ chức XHDS độc lập VN bằng các phương tiện thích hợp, bao gồm cả việc vận động, huấn luyện, học bổng… Nội dung cuộc gặp gỡ được ông Sigmar đồng ý công bố với tư cách ông là Chủ tịch Đảng dân chủ xã hội Liên bang Đức. Phạm Bá Hải Điều phối viên Hội CTNLT. http://www.ijavn.org/2014/11/pho-thu-tuong-uc-gap-go-gioi-hoat-ong.html  
......

Hà Lan: Luật sư Trần Quốc Hiền gia nhập Hội CTNLT

Chào mừng hội viên Hội CTNLT tại Hà Lan TRẦN QUỐC HIỀN LTS: Anh Trần Quốc Hiền bị bắt ngày 11/1/2007. Trước khi bị bắt anh là giám đốc Công ty Tư vấn luật Sài Gòn. Ngày 15 tháng 5 năm 2007, anh bị đưa ra xét xử ở tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và bị xử phạt 5 năm tù và hai năm quản chế tại địa phương. Dưới đây là bức thư cảm nhận của anh. * Ls Trần Quốc Hiền Trước hiện tình đất nước không có tự do, dân chủ, nhân quyền bị chà đạp, bất công xã hội thì lan tràn, còn công lý thì nằm trong tay kẻ cầm quyền… Chính vì vậy đã có những con người đã dám dấn thân bất chấp hiểm nguy đứng lên để tranh đấu cho một Việt Nam có tự do,dân chủ, quyền làm người được tôn trọng, công bằng xã hội được thực thi… Dưới một chế độ độc tài đảng trị, tất nhiên không có chỗ cho sự đối kháng, phản biện cho dù đó là những hành vi ôn hòa bất bạo động. Chính vì vậy những con người xả thân tranh đấu cho quê hương, đồng loại luôn được chào đón đằng sau những song sắt nhà tù khắc nghiệt, với những bản án nặng nề cướp đi của họ tuổi tác, sự tự do và đôi khi là cướp đi cả mạng sống. Sự tàn nhẫn và độc ác như thế vẫn là chưa đủ thỏa mãn với nhà cầm quyền cộng sản, bởi sau khi ra tù những nhà bất đồng chính kiến, những tù nhân lương tâm lại tiếp tục bị truy đuổi “giết cùng, diệt tận”, người thân của họ bị xách nhiễu khủng bố tinh thần và triệt đường sống bằng cách bao vây kinh tế… Chẳng còn cách nào khác tốt hơn là những nhà tranh đấu, những tù nhân lương tâm đã mãn hạn tù phải cùng gắn kết, tương trợ và bảo vệ lẫn nhau, kể cả những người còn đang trong chốn lao tù,,, Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm đã xuất hiện để gánh vác trọng trách này. Trong thể chế và xã hội cộng sản, một cá nhân hay tổ chức hoạt động bình thường, chân chính đã là khó khăn, huống hồ một tổ chức được thành lập để bảo vệ những tiếng nói đối lập, phản kháng chế độ hay đơn thuần chỉ là những hành động xuất phát từ sự thôi thúc của lương tâm con người. Hoạt động trong hoàn cảnh khó khăn, bị theo dõi, giám sát và bị vây bọc bởi những hành động bạo lực, côn đồ từ nhà cầm quyền, nhưng như một cái cây đứng trước giông bão và thời tiết khắc nghiệt vẫn kịp nảy nở những hoa trái đầu mùa, dù chỉ là khiêm tốn. Những gì mà Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm đã làm được cho những hội viên của mình thời gian qua, là một điều khích lệ và rất đáng biểu dương khí phách dũng cảm và tinh thần tương thân tương ái. “Một cây làm chẳng nên non” hay “nhiều cây chụm lại mới nên rừng”, ban điều hành Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm ý thức được rằng, muốn hội đứng vững để tiếp tục sứ mệnh cao cả của mình thì cần phải thu hút được nhiều nguồn lực và kết nạp nhiều hội viên hơn nữa, không chỉ ở trong nước mà cả những cựu tù nhân lương tâm đang ở hải ngoại. Trên tinh thần đó Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm đã thay đổi điều lệ, để phù hợp với hoàn cảnh hiện nay khi giang cánh tay kết nối với những anh em cựu tù ở hải ngoại. Nhân cơ hội này tôi và một số anh em cựu tù nhân lương tâm ở hải ngoại có thể gia nhập hội trong tinh thần tương thân tương ái, hầu góp phần lên tiếng tranh đấu đòi tự do cho những anh em còn đang bị giam cầm, tù đày, cũng như quan tâm bảo vệ những cựu tù nhân đang sống trong vòng xoáy bạo lực của CSVN, bằng cách trưng bằng chứng và tố cáo những hành động tàn ác mà chính thể Hà Nội đang áp dụng trên những tù nhân lương tâm với các chính phủ dân chủ và cộng đồng quốc tế… Tôi xin gởi đến quý vị trong ban điều hành Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm nhiều sức khỏe, lòng kiên định, sự can trường để dấn thân cho công việc bảo vệ những tù nhân và cựu tù nhân lương tâm trong tinh thần trách nhiệm, nhân bản và đoàn kết. Riêng tôi cũng xin góp một bàn tay nhỏ bé trong khả năng có thể của mình, để cùng đồng hành cùng quý hội trong tương lai. Hà Lan, ngày 19/11/2014. Trần Quốc Hiền. Cựu tù nhân lương tâm. (5 năm tù giam, 2 năm quản chế, 2007) nguồn: fvpoc.org
......

GHI NHANH CUỘC “KHÁCH THĂM” NHÀ CỤ NGUYỄN TRỌNG VĨNH

Chiều 19/11/2014 Hà Nội đã vào cuối thu, lạnh. Tôi tranh thủ đến thăm sức khỏe lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh. Tôi quen biết cụ đã gần 40 năm nay và rất kính trọng và khâm phục cụ về nhân cách, đạo đức cũng như tấm lòng của cụ đối với dân và đất nước. Dù năm nay đã 99 tuổi song cụ vẫn nhanh nhẹn, khỏe mạnh và minh mẫn! Mặc dù hơn tôi 26 tuổi song cụ vẫn coi tôi là một người bạn vong niên thân thiết. Tiếp tôi, ngoài cụ còn có con gái cụ là nhà văn Nguyên Bình và chồng chị là anh Trịnh Văn Trà, một đại tá quân đội đã nghỉ hưu.   Tôi đứng lên chào và xin phép cụ ra về vì đã tâm tình và trò chuyện với cụ hơn một tiếng đồng hồ thì cụ bảo tôi cố nán lại ít phút để dự buổi cụ tiếp đoàn khách của Thành ủy Hà Nội đến thăm cụ.    Năm phút sau khách đến. Dẫn đầu là Ủy viên Thường vụ Thành ủy kiêm chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy cùng 5 quan chức của Đảng, gồm: Một chuyên viên của UBKT Thành ủy; ông Phó bí thư Quận ủy Đống Đa; ông Chủ nhiệm UBKT Quận ủy Đống Đa; bà Bí thư Đảng ủy phường Kim Liên và ông Bí thư chi bộ nơi cụ sinh hoạt Đảng. Đoàn khách đi luôn vào nội dung cuộc viếng thăm: Hỏi cụ có phải là người ký vào Thư ngỏ 61 (toàn văn xem tại đây) không và ai là người chấp bút, thảo ra thư đó? Họ thuyết phục cụ tuyên bố rút tên khỏi danh sách 61 đảng viên ký Thư ngỏ đó vì đã vi phạm vào quy định của Đảng, đặc biệt là "19 điều cấm" mà Đảng không cho đảng viên làm.  Cụ khẳng đinh chính cụ là người ký vào Thư ngỏ 61 đó, và vì cụ nhiều tuổi đảng nhất, 75 năm tuổi đảng, nên anh em xếp cụ lên danh sách đầu tiên. Còn ai là người soạn thảo thư đó thì cụ nói là mọi người ngồi trao đổi với nhau, đều nhất tri và đồng tình những nội dung cấp thiết phải kiến nghị với Lãnh đạo Đảng như nội dung Thư ngỏ đã nêu rõ, còn ai là người chấp bút khởi thảo thì không quan trọng, cụ không đáp ứng câu hỏi này vì cụ cho rằng mọi người ký vào Thư ngỏ thì đều có trách nhiệm như nhau và sẵn sàng đối thoại, tranh luận công khai và dân chủ với lãnh đạo Đảng về những vấn đề mà Thư ngỏ 61 đã nêu lên. Liệu Đảng có đồng ý đối thoại và tranh luận công khai với nhóm 61 đảng viên ký vào Thư ngỏ này không ? Còn về yêu cầu cụ tuyên bố rút tên khỏi danh sách những người ký tên Thư ngỏ này thì cụ nói không, dứt khoát không bao giờ tôi rút theo yêu cầu của các anh!  Còn việc đoàn “đến thăm” kết luận rằng cụ cùng 61 đảng viên ký tên tập thể vào Thư ngỏ là vi phạm qui định của Đảng và "19 điều cấm" không cho đảng viên làm  thì cụ hoàn toàn bác bỏ, cụ nói chính những qui định đó đã triệt tiêu tinh thần dân chủ trong đảng và ngay "19 điều cấm" cũng vi phạm Điều lệ Đảng ! Ông Chủ nhiệm UBKT Thành ủy trách cụ là tại sao cụ không trực tiếp góp ý kiến với Đảng theo con đường mà Đảng đã qui định mà lại tán phát những quan điểm sai trái, làm cho đảng viên và người dân hoang mang, dao động? Cụ trả lời là cụ rất thất vọng vì trong suốt gần 10 năm qua cụ đã kiên trì và chân tình góp ý, đã không dưới 10 lần viết thư tay gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban CHTW Đảng và cả Tổng Bí thư nhưng không lần nào cụ được hồi âm, trả lời! Cụ nói: Đến như cụ 16 năm là Ủy viên Trung ương Đảng (Khoá III), là lão thành cách mạng, có 75 năm tuổi đảng, mà các anh ấy trốn tránh, không thèm trả lời thì thử hỏi những góp ý, kiến nghị của các đảng viên khác các anh ấy coi ra gì? Lãnh đạo Đảng ngày nay chỉ thích nghe những ý kiến xu nịnh, thuận tai của bọn cơ hội, giáo điều, nhưng ngược lại họ coi các ý kiến phản biện và những đóng góp chân tình, xây dựng, tâm huyết và khoa học của rất nhiều nhân sỹ trí thưc và đảng viên là những ý kiến có “động cơ xấu”, thậm chí còn bị chụp mũ là “suy thoái, biến chất” hoặc “bị các thế lực thù địch xúi giục”! Đấy chính là một trong các lý do cụ ký tên vào Thư ngỏ 61 và công khai thư đó cho nhân dân biết sau khi thư đó đã gửi chuyển phát nhanh cho TBT, BCT, BBT và  tất cả gần 200 UVTW Đảng. Ông Chủ nhiệm UBKT Thành ủy trách là việc tán phát Thư ngỏ đó trên mạng là sai trái, làm cho các đảng viên hoang mang, dao đông, không tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó làm ảnh hưởng lớn đến uy tín của Đảng. Nghe đến đây tôi phải xin phép cụ Vĩnh để có đôi lời với ông Chủ nhiệm UBKT Thành ủy. Tôi nói: “Vâng, thưa đồng chí Chủ nhiệm UBKT, tôi nguyên là cán bộ Bộ Công an, đã về nghỉ hưu 11 năm nay và là một trong 61 đảng viên ký tên vào Thư ngỏ 61. Ý kiến đồng chí vừa nói rất đúng. Nếu có ai hoang mang, dao động và không tin vào sự lãnh của Đảng thì người đó chính là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Đồng chí Phú Trọng nói "Đến hết thế kỷ này không biết là đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa?"  Đồng chí TBT không phải nói ở chỗ riêng tư mà phát biểu chính thức trong một buổi thảo luận Tổ đại biểu ở Quốc Hội khóa XIII để góp ý cho Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 2013 tháng10 năm ngoái và đã được VTV, VOA và TTXVN loan tải rộng rãi!  Chính phát biểu bi quan đó của đồng chí TBT làm tôi thực sự dao động, hoang mang và không còn tin vào sự lãnh đạo hiện nay của Đảng nữa, và đây cũng chính là một trong các lý do khiến tôi ký vào Thư ngỏ 61. Lúc nãy tôi  có hỏi về di chúc của Chủ tịch HCM và đồng chi trả lời là di chúc của Bác Hồ rất đúng và tuyệt đối đúng! Vâng, tôi hoàn toàn đồng ý với đồng chí. Di chúc của Bác không căn dặn Đảng ta xây dựng CNXH mà chỉ  dặn Đảng xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, giàu mạnh và xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ văn minh thôi, và trong di chúc không có một từ nào Bác đề cập đến chủ thuyết Marx-Lenine và căn dặn nhân dân và đảng ta phải kiên định con đường này! Vậy tại sao Đảng ta không làm theo di chúc của Bác? Ông Chủ nhiệm UBKT Thành ủy không trả lời trực tiếp mà chuyển sang việc đề cập đến thành tựu lãnh đạo cách mạng của Đảng. Ông gợi lại chuyện 75 năm trước (1939) khi cụ vào Đảng và thoát ly tham gia cách mạng thì đất nước ta còn nghèo lắm, dân ta còn khổ lắm nhưng nhờ sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng nên ngày nay nước ta đã hết nghèo, dân ta đã hết khổ, nay thì nhà nào cũng có ít nhất một xe máy thì làm sao cụ lại nói đường lối của Đảng là sai lầm, cần phải từ bỏ con đường xây dựng CNXH theo mô hình Xô-viết ? Ông ta còn nói rằng Đảng đã và đang kiên định con đường XHCN, mang lại hạnh phúc cho nhân dân, xã hội ta không có người bóc lột người, Đảng không cho phép bọn tư bản bóc lột giá trị thặng dư nhân dân lao động VN, hiện nay nhân dân làm theo sức và hưởng theo lao động, mai này khi tiến lên xây dựng CNCS thì người dân sẽ làm tùy sức và sẽ hưởng thụ theo nhu cầu!  Về đối ngoại, Đảng ta cũng có chính sách khôn khéo và cương quyết với TQ, buộc họ phải rút giàn khoan HD981 khỏi vùng đặc quyền kinh tế của ta trước thời han. Đây rõ ràng là thắng lợi của ta...(!?). Cụ Vĩnh nói: “Nó rút chủ yếu là do sức ép quốc tế. TBT Nguyễn Phú Trọng không hề có một lời nào lên án TQ. Hội nghị TW9 đang họp, cũng không hề có một tuyên bố nào. Rồi đến Quốc Hội họp cũng không ra tuyên bố hoặc nghị quyết lên án TQ, Chính phủ cũng vậy! Sao nay lại tự nhận là do ta đấu tranh kiên quyết , mạnh mẽ nên buộc nó phải rút? TQ không bao giờ từ bỏ dã tâm bành trướng, xâm lược nước ta.Đảng phải hết sức cảnh giác và phải thực sự dựa vào nhân dân và phải đặt lợi ích của đất nước,của dân tộc lên trên lợi ích của Đảng thì mới có thể thắng lợi kể cả trong xây dựng đất nước cũng như bảo vệ Tổ quốc, và đừng có quá nhẹ dạ tin vào 16 chữ vàng và 4 tốt , kẻo sẽ bị lừa và dễ mất nước”! Đại tá Trà dù đã rất kiên nhẫn ngồi nghe từ đầu, song đến đây ông không kìm được, ông nói: “Nghe các đồng chi lập luận, tôi không thể thông! Đồng chí khẳng định VN chỉ có thể chọn mô hình XHCN để xây dựng đất nước, ngoài ra không có con đường nào khác. Thế thì đồng chí giải thích tại sao lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đi hết nước tư bản này đến nước tư bản kia để van nài họ công nhận nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường? Phải chăng điều đó chứng tỏ chính Đảng không tin vào CNXH và thú nhận học thuyết Marx-Lenine là bế tắc?”. Không thấy vị Chủ nhịêm UBKT Thành ủy và các vị khách trả lời, tôi nói: “Cho đến lúc này, ngay cả Hội đồng lý luận Trung ương cũng như các nhà nhà lý luận của Đảng cũng không có ai đưa ra được một định nghĩa có sức thuyết phục thế nào là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Kinh tế thị trường và Chủ nghĩa xã hội không thể tồn tại và giao thoa cùng nhau được! Có cái này thì không có cái kia và ngược lại”. Cụ Vĩnh nghe vị Chủ nhiệm UBKT Thành ủy thuyết giảng, chắc cảm thấy rất mệt, song cụ vẫn vui vẻ nói: “Lúc nãy nghe đồng chí Chủ nhiệm UBKT Thành ủy nói thời tôi vào Đảng và tham gia hoạt động CM đã cách đây 75 năm rồi. Vâng, đồng chí nói đúng. Hồi đó tôi vào đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương sau này đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam, và tôi thấy Đảng tôi chọn lúc đó đều rất trong sáng và thực sự vì dân tộc và đất nước, và nó khác xa  ĐCSVN hiện nay. Mong các đồng chỉ về và phản ảnh trung thực, đầy đủ các ý kiến ta trao đổi hôm nay, và kiểm tra giúp các đơn thư mà tôi đã gửi lãnh đạo Đảng trong hơn 9 năm qua và nhắc họ cố gắng đọc và nghiên cứu. Nếu bố trí gặp trực tiếp tôi thì tốt, nếu không thì cố gắng hồi âm các thư tôi đã gửi. Đoàn “khách” cũng cảm thấy khó có gì để nói thêm nên đứng dậy xin phép ra về. Ông Trưởng đoàn kính chúc cụ mạnh khỏe để tiếp tục đóng góp ý kiến xây dựng Đảng theo đúng quy định để Đảng thực sự trong sạch và vững mạnh. Tôi về đến nhà  là  đã gần 6 giờ chiều, tuy khá mệt song cố gắng ghi lại trung thực nhưng chắc không đầy đủ nội dung cuộc gặp này,kẻo để lâu lại quên. Tôi nghĩ chắc đây chưa phải là cuộc thăm viếng và trao đổi cuối cùng. Và cũng không riêng với cụ Vĩnh, với những khác biệt giữa nhận thức và thực tiễn, giữa quyền hành và dân chủ như thế này, tôi nghĩ rằng những đoàn “khách” như thế này còn “hỏi thăm sức khỏe” nhiều người khác nữa, cho dù có góp ý với lãnh đạo đảng, nhà nước những ý kiến chân thành, xây dựng, nhưng “khác chủ trương, khác ý lãnh đạo”! NĐQ Tác giả gửi BVB lúc 05:05, ngày 20-11-2014 ____________   *Tễu:Cuộc gặp ngày 19.11 là cuộc gặp thứ 2 đối với Tướng Vĩnh trong thời gian 1 tháng trở lại đây. Lần trước, người đến viếng thăm chỉ ở cấp Quận, gồm: Phó Bí thư Quận ủy Đống Đa dẫn đầu và tùy tòng là các cán bộ đảng của Phường Kim Liên, quận Đống Đa. Lần này, nâng cấp lên cấp Thành phố: Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Thành ủy TP Hà Nội Trần Trọng Dực và tùy tòng. Lần sau, chắc là Bí thư Thành ủy và tùy tòng. *Cụ Vĩnh đã 75 năm tuổi đảng. Nhưng đảng đang cân nhắc, dỗ cụ không ý kiến ý cò gì nữa thì sẽ phát huy hiệu 75 năm tuổi đảng. Cụ bảo: Chẳng phát thì tôi cũng 75 năm tuổi đảng, phát hay không là tùy các anh! Theo Blog Bùi Văn Bồng  
......

Ls. Lê Công Định: Thư ngỏ gửi “người khuất mặt khuất mày”,

Hôm nay một vài bạn hữu gửi đến tôi đường dẫn bài viết công kích cá nhân tôi trên báo Nhân Dân. Tác giả tên Vũ Hợp Lân, có lẽ là bút danh của một người không dám lộ diện công khai. Vậy tôi xin mạn phép trò chuyện với “người khuất mặt khuất mày” ở đây. Nội dung chính của bài viết nhằm chỉ trích việc tôi bày tỏ lòng kính trọng đối với các chính khách và quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, cụ thể là cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam. Quả thật, tôi vô cùng kính trọng hai nhân vật lịch sử anh hùng đã ngã xuống vì quốc gia ấy. Nếu so sánh họ với các nguyên thủ và tướng lĩnh ngày nay trước mối đe dọa và hành vi xâm lấn của ngoại bang đối với lãnh thổ mà tổ tiên chúng ta để lại, thì lời ca ngợi của tôi dành cho hai vị e rằng chưa diễn đạt hết niềm cảm phục pha lẫn tiếc thương của tôi. Sự đời vẫn vậy, những người đáng sống thì lại chẳng may qua đời quá sớm! Tướng Nguyễn Khoa Nam lúc quyết định tuẫn tiết, do không làm tròn bổn phận của một quân nhân, ắt hẳn đã không đến nỗi quá “tâm tư” vì không được thăng cấp bậc Trung Tướng trước khi xả thân bảo vệ lãnh thổ mà mình mang trọng trách. Một vị danh tướng không màng đến địa vị và bổng lộc, đã chọn cái chết oai hùng, không đáng để nhiều người trong đó có tôi kính trọng sao? Việc tôi “đứng về phía nào” chẳng lẽ cũng phải xin phép ai? Yêu ghét một con người, một nhân vật lịch sử, lẽ nào cũng phải theo “định hướng”? Luật pháp nào quy định thế? Thưa ông Vũ Hợp Lân, xã hội này có thể còn thiếu tự do, nhưng tôi không cho phép mình mất tự do trong tư tưởng của chính mình, vì tôi là Con Người! Ông có quyền trung thành với ai đó, nên dù vẫn tôn trọng ông, tôi không nhất thiết phải giống ông. Tôi khác. Bày tỏ lòng kính trọng đối với cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, không có nghĩa là muốn tái lập trong tương lai một thể chế của quá khứ. Cũng tương tự, ngưỡng mộ Đức Thánh Trần Hưng Đạo và chiến công vĩ đại của ngài, không đồng nghĩa với ý định thiết lập một vương triều quân chủ đời nhà Trần vào Việt Nam ở thế kỷ 21 này. Và nếu tôi tôn trọng cụ Hồ trong tư cách một nhân vật lịch sử, như tôi vẫn luôn bày tỏ bất kể ai phiền muộn, thì trừ phi tôi bị tâm thần mới có ý mong muốn chế độ mà cụ Hồ thiết lập từ năm 1945 mãi trường tồn cùng với bao vấn nạn tham nhũng và vi phạm nhân quyền thế này! Viết như vậy đã dễ hiểu chưa ông Vũ Hợp Lân? Suy nghĩ theo cách ấy liệu sẽ bị suy diễn là có ý đồ chống và lật đổ chế độ chăng? Thú thật, nếu ông cố tình suy diễn theo hướng đó, thì không việc gì tôi phải e ngại hay sợ ông cả. Dù sao cũng phải cám ơn ông Vũ Hợp Lân đã trích đăng công khai những câu chính trong các bài viết của tôi, vì điều đó vô hình chung quảng bá suy nghĩ của tôi đến một số độc giả mà tôi không có dịp tiếp cận. Chỉ tiếc là tờ báo ông dùng để đăng ít người đọc quá! Tuy nhiên, nói đi cũng phải nói lại, hồi ở tù tôi rất thường đọc báo Nhân Dân, vì không một tờ báo nào khác được phép phổ biến trong khuôn khổ các trại giam ở Việt Nam dù là Thanh Niên hay Tuổi Trẻ của chính nhà nước này. Đọc để mỉm cười vui vẻ, thay vì xem hài kịch vốn không thể có trong tù. Tôi chưa bao giờ tự xưng am tường sử học, vì đó là một lĩnh vực sâu rộng đòi hỏi nhiều năng lực và thời gian nghiên cứu, mà tôi thì chỉ dừng lại ở sự say mê học hỏi từ lịch sử cho riêng mình thôi. Tuy nhiên, có hồ đồ lắm không khi một “người khuất mặt khuất mày” viết vài ba dòng “vỗ mông ngựa” (mượn chữ của tác giả Kim Dung trong tác phẩm “Lộc Đỉnh Ký”) trên một tờ báo chuyên về tuyên truyền, chứ không chuyên ngành sử học, lại nhận định tôi “kém hiểu biết lịch sử” hoặc “xuyên tạc lịch sử”? Để tránh tình trạng chụp mũ bừa bãi vô ích, tôi đề nghị ông Vũ Hợp Lân sớm tổ chức một mục đàm luận công khai và dân chủ với tôi về các vấn đề lịch sử Việt Nam hiện đại trên chính tờ báo Nhân Dân để độc giả rộng đường nhận định. Đây không phải là lời thách thức, mà là việc làm cần thiết để tránh tiếng “cả vú lấp miệng em” vốn thường dành cho những tay bồi bút, và cũng giúp tờ báo của ông nâng lên một tầm cao mới, thu hút thêm nhiều độc giả có đầu óc hơn. Ông đồng ý nhé? Trân trọng, Lê Công Định   nguồn: FB Luật sư Lê Công Định
......

Phải quì rạp cả đoàn cho chúng xem

Trong vài ngày qua, Trung tướng Lê Chiêm, Tư lệnh Quân khu 5, đã công khai phản đối kịch liệt việc giao đèo Hải Vân, một trọng điểm quân sự, cho doanh nghiệp Trung Quốc - để họ lại viện cớ dựng khu biệt lập mới cho "công nhân" từ Tàu kéo sang ở luôn. Đọc tin này, người ta vừa mừng vừa lo! Mừng là trong hàng ngũ tướng lãnh quân đội vẫn còn những người như tướng Lê Chiêm . Nhưng lo vì không biết ông còn giữ chức đó được bao lâu để báo động công luận, trước khi những kẻ muốn bán khu vực này cho Tàu sẽ loại trừ ông và vẫn âm thầm tiến hành kế hoạch, như đã thấy quá nhiều lần tại Nóc nhà Đông Dương, tại các khu vực dọc theo bờ biển miền Trung kể cả khu Cam Ranh, tại các khu vực dọc theo biên giới phía Bắc, và rải khắp các khu vực sâu trong đất nước Việt Nam. Thật vậy, chỉ cần nhìn phái đoàn 13 tướng kéo nhau sau chầu Bắc Kinh mới mấy tuần trước, người ta đủ thấy những người đang tại chức như tướng Lê Chiêm hiếm quí tới đâu. Ngay sau chuyến đi Tàu của Lê Hồng Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư và là đặc sứ của TBT Nguyễn Phú Trọng, để xin Bắc Kinh "cùng khai thác chung Biển Đông", vào cuối tháng 10.2014, một đoàn tướng lãnh quân đội nhân dân Việt Nam hùng hậu chưa từng có nối đuôi nhau qua Tàu. Đoàn này do chính Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh dẫn đầu. Giới phân tích không sao giải thích được lý do tại sao, nhất là ngay sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 được nối tiếp bằng các lời đe doạ lẫn phỉ báng liên tục từ Bắc Kinh, mà Bộ Chính Trị đảng CSVN lại sai Phùng đại tướng kéo một lượt 12 tướng lãnh cao cấp của quân đội từ tham mưu, đến chính trị, biên phòng, hải, lục, không quân lục tục sang Bắc Kinh. Có người đặt câu hỏi có phải để được Tàu huấn luyện gì đó không? Quả đúng là từ năm 2009, mỗi năm, Bộ Quốc phòng Việt Nam có cử hàng trăm cán bộ quân sự qua Tàu gọi là để giao lưu, học hỏi kinh nghiệm quân sự nhưng thực chất là các buổi sinh hoạt tư tưởng để tô đậm "quân Việt Nam phải luôn nhớ ơn quân Trung Quốc”. Tuy nhiên, các khóa đó đều kéo dài ít là nửa tháng và thường diễn ra tại Học viện Chính trị Tây An của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Vì vậy huấn luyện không phải là mục đích của phái đoàn Phùng Quang Thanh, vốn chỉ diễn ra 2 ngày 16 đến 18.10.2014 và chỉ quanh quẩn tại Bắc Kinh. Cũng có người đặt giả thiết phải chăng vì phải trao đổi rất nhiều chi tiết quân sự nên phải kéo theo người trách nhiệm của từng ban ngành quân đội? Cụ thể như tuyên bố của tướng Phùng Quang Thanh với báo chí về mục đích chuyến đi là để "Tăng cường thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa quân đội của hai nước cũng như giữa hai Đảng, nhà nước và nhân dân hai nước. Giữ gìn môi trường ổn định, hoà bình và kiểm soát cho được hoạt động của lực lượng vũ trang hai nước trên biển, không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực và để xảy ra xung đột vũ trang ở trên biển”. Nhưng chính giải thích của tướng Thanh lại làm vấn đề khó hiểu hơn nhiều: - Nếu theo đúng tuyên bố trên thì rõ ràng đây là chuyến đi mang tính ngoại giao, chính trị để xây đắp quan hệ thì tại sao lại cần đến một phái đoàn quân sự, mà lại quân sự hùng hậu tới mức đó? - Nếu chỉ để tránh "xung đột vũ trang ở trên biển" thì tại sao lại cần đến các tướng tư lệnh quân khu 1, 2, 3 vốn chẳng liên hệ gì đến khu vực có xung đột trên biển Đông? Đặc biệt quân khu 1 và 2 không hề có tới 1 mét bờ biển? Đó là chưa kể tại sao lại kéo theo các tướng lo về thông tin, không quân, và chính trị? - Nếu vì lý do phải trao đổi nhiều chi tiết quân sự thì trong thời đại điện toán ngày nay loại việc đó phải do các sĩ quan cấp dưới thực hiện trong một thời gian dài, chứ làm sao các tướng có thể cầm khối dữ kiện theo để tuông ra trong vòng 2 ngày? Các tướng lãnh chỉ có thể đồng ý về các nguyên tắc. Và vì vậy, như trong vô số các cuộc trao đổi quân sự hệ trọng trên thế giới, mỗi bên chỉ cần bộ trưởng quốc phòng và một vài phụ tá là quá đủ. Chẳng ai kéo theo các tướng với trách nhiệm điều hành nội bộ theo cả. Vì vậy, lý do duy nhất của phái đoàn Phùng Quang Thanh và 12 tướng đi Tàu là để đáp ứng đòi hỏi của Bắc Kinh muốn biểu diễn cho toàn dân thiên hạ nói chung và dân chúng Trung Quốc nói riêng thấy rõ sự thần phục của Việt Nam. Rõ ràng Bắc Kinh không đòi 13 lãnh tụ đảng CSVN, hay 13 quan chức thuộc Bộ Ngoại giao sang bái lạy. Nhưng họ đòi buộc phải đúng 13 tướng lãnh ở hàng cao nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam xếp hàng xụp lạy vì như thế mới đủ thuyết phục dân chúng Trung Quốc rằng Tập Cận Bình đã hoàn toàn làm chủ Biển Đông; và có như thế họ mới hy vọng bóp chết hẳn được những tư tưởng "chống Tàu xâm lược" còn sót lại trong quân đội Việt Nam. Điều đó cũng giải thích được tại sao lãnh đạo Bắc Kinh liền cho báo chí Trung Cộng đăng hàng loạt và gọi đây là "chuyến đi cầu hòa" của Việt Nam. Điều đáng nói là chắc chắn giới lãnh đạo đảng, đặc biệt là các tướng lãnh quân đội Việt Nam, đều biết rõ trò cố tình sỉ nhục của Bắc Kinh từ trước ngày lên đường sang Tàu. Nhưng họ đều cúi đầu chấp nhận. Và khi cả giàn lãnh đạo đều đã mang tâm thức chấp nhận như thế thì các trò tuyên bố "đang chuẩn bị hồ sơ kiện Trung Quốc", hay đang mua vũ khí từ nước này nước nọ, hay đang thiết lập quan hệ với Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản,... đều là những màn kịch cực kỳ mắc tiền, dành riêng cho dân tộc Việt Nam. Điều lạ sau cùng trong sự việc này là Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, người vẫn được xem là sứ thần của Bắc Kinh, và Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ, Tổng tham mưu trưởng, đều không có mặt trong đoàn. Họ đủ tinh ranh để biết thoái thác cái sứ mạng đi công khai bái lạy Bắc Kinh. Họ tránh né được chuyến đi ô nhục, bôi bẩn tên tuổi dòng họ nhiều đời. Thật vậy, lịch sử dân tộc mai sau chắc chắn sẽ ghi lại đoàn tướng đi Tàu ngày 16.10.2014 với đầy đủ tên họ của từng thành viên: -                      Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng quốc phòng; -                      Trung tướng Bế Xuân Trường, Phó tổng Tham mưu trưởng; -                      Trung tướng Lương Cường, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; -                      Trung tướng Dương Đức Hòa, Tư lệnh Quân khu 2; -                      Trung tướng Phương Minh Hòa, Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân; -                      Trung tướng Võ Trọng Việt, Tư lệnh Bộ đội Biên phòng; -                      Trung tướng Phạm Hồng Hương, Tư lệnh Quân khu 3; -                      Chuẩn đô đốc Phạm Hoài Nam, Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân chủng Hải quân; -                      Thiếu tướng Phan Văn Tường, Phó tư lệnh Quân khu 1; -                      Trung tướng Vũ Văn Hiển, Chánh Văn phòng Bộ Quốc phòng; -                      Thiếu tướng Vũ Anh Văn, Tư lệnh Binh chủng Thông tin liên lạc; -                      Thiếu tướng Vũ Chiến Thắng, Cục trưởng Cục Đối ngoại - Bộ Quốc phòng và -                      Thiếu tướng Ngô Quang Liên, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng.
......

Trung Quốc trấn đèo Hải Vân: Trách nhiệm Thủ tướng

Thừa Thiên-Huế đẩy quả bóng trách nhiệm cho Thủ tướng về việc cho phép nhà đầu tư Trung Quốc khai thác 200 ha đất ở vị trí chiến lược trên đèo Hải Vân.   Nhà phản biện độc lập TS Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS cho rằng, cho dù Thủ tướng chịu trách nhiệm vì đã phê duyệt qui hoạch, thì nay cũng là lúc phải thu hồi ngay lập tức giấy chứng nhận đầu tư cấp cho doanh nghiệp Trung Quốc, trao quyền cho họ thực hiện dự án nghỉ dưỡng nằm ở vị trí chiến lược, có thể khống chế vịnh Đà Nẵng và chia cắt đất nước.   Từ Hà Nội TS Nguyễn Quang A nhấn mạnh: “Chắc chắn phải như vậy nếu ông ấy đã ký thì phải có trách nhiệm, về việc không nhìn ra thì có thể có nhiều lý do, một lý do là do sơ xuất vì sơ xuất là chuyện con người. Nếu mà là sơ xuất thì có thể bỏ qua mà chỉ có thể đánh giá là năng lực hơi kém. Còn nếu không phải là sơ xuất mà biết mà vẫn làm như thế thì trách nhiệm càng nặng hơn.”   Phát biểu gay gắt của TS Nguyễn Quang A được ghi nhận tiếp sau thông tin: ngày 14/11/2014 ông Nguyễn Văn Cao, Chủ tịch tỉnh Thừa Thiên-Huế khẳng định với VnExpress rằng Thừa Thiên-Huế làm đúng qui định của Nhà nước. Suốt hai tuần qua trên báo chí, Thừa Thiên-Huế đã lập luận rằng, dự án 200 ha ở mũi cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân vươn xa nhất ra biển Đà Nẵng là nằm trong Qui hoạch chung về xây dựng Khu kinh tế Chân Mây – Lăng Cô thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế đến hết năm 2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1771 ngày 5/12/2008.   Chính quyền Thừa Thiên - Huế không trả lời dư luận về việc Dự án mũi Cửa Khẻm giao cho nhà đầu tư Trung Quốc nằm ở vị trí chiến lược khống chế vùng trời, vùng núi, vùng biển Đà Nẵng và nếu xảy ra chiến tranh sẽ chia đôi Việt Nam ở vĩ tuyến 16. Chính quyền Thừa Thiên-Huế chỉ biện giải về khu vực tranh chấp địa giới giữa Thừa Thiên - Huế và Đà Nẵng. Theo các chuyên gia địa phương nào quản lý mũi Cửa Khẻm không phải là điều quan trọng, cốt lõi ở đây Thừa Thiên-Huế đã bỏ qua vấn đề an ninh quốc phòng trao quyền khai thác 200 ha cho nhà đầu tư nước ngoài trong vòng 50 năm, mà cụ thể là doanh nghiệp Trung Quốc. Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc hiện nghỉ hưu ở Hà Nội đã phản ứng mạnh mẽ về điều ông là góp phần làm tăng nguy cơ mất nước. Ông nói:   “Những chỗ tốt đẹp có vị trí chiến lược lại cứ bán cứ để cho Trung Quốc làm dự án trong khi mình có thể làm được, như thế là các anh ấy không suy nghĩ và chỉ thấy có tiền thôi. Tôi cho là chỉ thấy có tiền, nhiều tỉnh cũng thế thôi nghĩa là chỉ thấy có tiền mà không thấy cái nguy hiểm cho đất nước.”   Từ đầu tháng 11, chính quyền Đà Nẵng kiến nghị Thủ tướng rút giấy phép đầu tư mà Thừa Thiên-Huế cấp cho Công ty Thế Diệu của Trung Quốc từ năm 2013 để xây dựng một quần thể nghỉ dưỡng du lịch chiếm 200 ha ở mũi Cửa Khẻm, nơi núi Hải Vân vươn ra xa nhất trên biển Đà Nẵng. Hai lý do Đà Nẵng đưa ra là vị trí chiến lược ảnh hưởng an ninh quốc phòng và dự án nằm trên vùng tranh chấp địa giới giữa hai địa phương. Ngày 17/11/2014, Trung tướng Lê Chiêm, Tư lệnh Quân khu 5 được VnExpress trích lời khẳng định đèo Hải Vân là khu vực trọng điểm quân sự  cấp độ 1 được Chính phủ quy định. Đất tại khu vực này muốn  làm bất cứ việc gì phải báo cáo và được sự nhất trí của Bộ Quốc Phòng để xin ý kiến của Thủ tướng. Tướng Chiêm nhấn mạnh, Thừa Thiên - Huế tự động cho doanh nghiệp nước ngoài vào xây dựng khu nghỉ dưỡng là “dứt khoát không được”. Chuyện thu hồi giấy phép Đáp câu hỏi của chúng tôi là chính quyền Việt Nam có vẻ không chú ý tới yếu tố an ninh quốc phòng khi kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế và để đến khi dư luận lên tiếng lúc đó mới tính chuyện sửa sai. Nhà phản biện TS Nguyễn Quang A nhận định:   “Tôi nghĩ cũng không hẳn hoàn toàn như vậy. Nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam rất quan tâm tới vấn đề an ninh quốc gia, người ta có những qui trình rất chặt chẽ về những chuyện như vậy. Nhưng thực tế người ta có thể lách những qui trình ấy một cách rất ngoạn mục, hoàn toàn do ý định của người ta mà thôi. Ngay cả việc hủy một dự án, bất kỳ dự án nào cũng có hàng trăm điều kiện mà tôi tin là không có nhà đầu tư nào không vi phạm đến khoảng 30% các điều kiện qui định trong giấy phép. Nếu người ta muốn thì có thể dẫn chiếu bất kể một cái lỗi nào đấy của nhà đầu tư và người ta có thể hủy cái giấy phép ấy mà chẳng cần phải đền bù gì cả, bởi vì ông đã vi phạm qui định.”   Việt Nam có chính sách trải thảm đỏ mời gọi đầu tư để phát triển kinh tế, người Trung Quốc chọn được nhiều vị trí mà dư luận cho là nhạy cảm về an ninh quốc phòng là vì nhờ các mánh lới đặc biệt. Làm thế nào để giảm bớt tình trạng nguy hiểm này. TS Nguyễn Quang A trả lời câu hỏi này: “Nếu chúng ta kỳ vọng vào những người cánh hẩu với Trung Quốc để người ta bớt đi thì không bao giờ cả, số người như thế ở Việt Nam không phải là ít. Chỉ có mỗi một cách như vừa rồi là dư luận của công chúng, của các giới khác nhau, kể cả những người đương quyền mà còn thực sự lo lắng cho vận mệnh đất nước. Những người ấy, các thế lực ấy phải lên tiếng và chỉ có như thế mới có thể chặn được những sự móc ngoặc với những thế lực nước ngoài mà để làm tổn hại đến đất nước mà thôi.”  Được biết, Tỉnh Thừa Thiên-Huế đã cấp giấy chứng nhận đầu tư và giao 200 ha đất ở mũi Cửa Khẻm cho Công ty Trung Quốc Thế Diệu từ tháng 10/2013 với thời hạn 50 năm. Thế Diệu đã giải ngân 80 tỷ để khởi sự thực hiện dự án khu nghỉ dưỡng du lịch có tổng vốn đầu tư 250 triệu USD. Tại Cửa Khẻm nơi núi Hải Vân vươn ra biển xa nhất, nhà đầu tư Trung Quốc sẽ xây dựng khu nghỉ mát tiêu chuẩn 5 sao với 450 phòng, một trung tâm hội nghị quốc tế 2.000 chỗ ngồi, khu nhà nghỉ dưỡng năm tầng với 220 căn hộ cao cấp, 350 biệt thự và khu du lịch, nhà hàng bãi tắm. Dự án này được triển khai theo ba giai đoạn từ 2013 đến 2023, Thế Diệu đã xây dựng trụ sở điều hành dự án tại khu vực Cửa Khẻm. Còn tỉnh Thừa Thiên-Huế cho biết đã chi 50 tỷ đồng mở con đường 5 km vào Cửa Khẻm. Cho tới ngày 17/11/2014 chưa có thông tin về việc thu hồi giấy phép dự án đầu tư trên núi Hải Vân của doanh nghiệp Trung Quốc. Nhưng báo chí phản ứng dư luận hết sức gay gắt đòi dừng ngay dự án vì ảnh hưởng an ninh quốc phòng, đặc biệt có yếu tố Trung Quốc. Theo ý kiến chuyên gia một quyết định hợp lòng dân là điều Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ phải tính tới trong giai đoạn này. Nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Việt Nam công lý giống như anh hề?

Bìa cuốn sách luật vừa phát hành có in biểu tượng hình một người đàn ông mặc… "quần nhỏ" đứng trên quả cầu lửa, hai tay cầm hai cán cân "công lý", với khuôn mặt cắt ghép giống hệt diễn viên hài (anh hề) Công Lý. Mặc dầu phản ảnh đúng xã hội hiện nay, nhưng vẫn bị thu hồi theo lệnh vừa ban ra sáng nay 17-11-2014, Theo ông Chu Văn Hòa, Cục trưởng Cục Xuất bản,  thú nhận "để xảy ra sự cố dở khóc dở cười này của NXB Lao Động- Xã Hội như thế này thể hiện sự yếu kém của công tác biên tập." Ông cho biết, trong ngày mai, 18/11 phía Cục Xuất bản sẽ ra văn bản kết luận xử lý về vụ việc này.! Theo FB Chau Kelley, mặc là sự cố nhưng phản ảnh đúng "TỰ DO" CẦM CÁN CÂN CÔNG LÝ dưới chế độ XHCN hiện nay. Trong khi " ...ở xứ "tư bản giãy chết" Mỹ thì người ta dùng biểu tượng của nữ thần công lý thời La Mã bịt hai mắt lại bằng khăn quàng để chỉ sự công bình dựa trên lý lẽ để xử lý chứ không mở mắt nhìn xem ai là tội nhân để thiên vị, với 1 tay bà cầm thanh kiếm biểu tượng cho việc thi hành công lý dựa theo cán cân pháp luật đã phán xét một cách công bình trong tay còn lại... thì ở xứ "thiên đàng xhcn" cộng sản dùng một thằng...  ... hai con mắt mở thao láo để nhìn xem hàng hối lộ là thứ gì hầu biết tay nào nghiêng về bên đâu... đó là biểu tượng "công lý và luật pháp" của đảng CSVN…". Cũng theo FB Chau Kelly, "Màn 'bôi nhọ đảng và chính quyền' này chắc chắn là không phải do 'bè lũ phản động' làm ra..?! hình tượng cái thằng "đĩ đực' đại diện cho biểu tượng 'công lý và pháp luật' trên bìa của quyển sách 'BỘ LUẬT DÂN SỰ VÀ VĂN BẢN HƯỚNG DẪN THI HÀNH 2014' của nhà nước CHXNCHVN, 'Độc Lập - Tự Do - Tự Sướng' sản xuất ra là do chính Nhà Xuất Bản Lao Động - Xã Hội mới vừa in ấn đàng hoàng...     Chỉ tội cho anh diễn viên hài Công Lý. Cá nhân anh cho biết, việc tự ý dùng hình ảnh anh để như vậy là có phần "phản cảm".
......

Múa Đôi Hoa Mỹ

Tại Thượng đỉnh APEC vừa qua ở Bắc Kinh, lãnh đạo Hoa Kỳ và Trung Quốc đạt một thỏa thuận được các con vẹt Dân Chủ và bọn "ôm cây", các nhóm bảo vệ môi sinh, đánh giá là mang ý nghĩa thời đại: hai bên đồng ý về nhu cầu tiết giảm khí thải để bảo vệ địa cầu khỏi nạn nhiệt hoá trong thế kỷ này. Giới bình luận đểu cáng thì nói rằng "vào chi tiết mới ra chuyện độc", nhưng ít ra Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình đã có dịp cười toe trước ống kính về một thành quả biểu kiến. Còn lại là sự trống vắng.   Bài này bàn về chuyện lấp đầy khoảng trống đó. Ngay từ nhiệm kỳ đầu, vào đầu Tháng Giêng 2009, Chính quyền Obama đã đánh giá sai quan hệ Mỹ-Hoa, khi Ngoại trưởng tân nhậm Hillary Clinton tới Bắc Kinh khẳng định rằng không để chuyện nhân quyền chi phối việc làm ăn giữa hai nước. Nhân đó bà kêu gọi các đấng con trời tiếp tục mua trái phiếu Mỹ, tức là tiếp tục cho Mỹ vay tiền. Clinton chẳng hiểu rằng Bắc Kinh có tiền mà không gửi qua Mỹ thì làm gì cho đồng tiền khỏi mất giá? Hai năm sau, cũng qua ngòi bút Clinton và ý kiến của ban tham mưu trong Bộ Ngoại giao, Chính quyền Obama nói đến việc "chuyển trục" về Đông Á, làm các nước Á Châu nức lòng tin tưởng. Nhưng Chú Cuội chỉ múa với Chị Hằng được một con trăng, màn chuyển trục hay "pivot" được sửa thành "tái quân bình". Rồi để đó từ năm 2012. Không, trước đà bành trướng của Bắc Kinh khiến các nước Á Châu lo ngại, năm 2012, Chính quyền Obama còn mời Trung Quốc tham dự cuộc thao dượt quân sự RIMPAC với 22 quốc gia trong vành cung Á châu Thái bình dương, lần đầu tiên kể từ năm 1971. Cũng hợp lý thôi: không mời em vào chơi để phơi của quý thì làm sao biết của quý của em nó quý đến cỡ nào! Hãy nói về chuyện sinh tử hơn vậy. Từ hai chục năm nay, qua bốn nhiệm kỳ của hai Tổng thống cả Dân Chủ lẫn Cộng Hoà, lãnh đạo Hoa Kỳ đều theo đuổi một chánh sách có tính chất lưỡng đảng - và hai mặt. Mặt tích cực là nên kết ước với Trung Quốc, cứ hợp tác làm ăn để cường quốc mới nổi này trở thành đối tác biết điều và cùng Hoa Kỳ gánh vác thiên hạ sự từ hai bờ biển Thái bình. Nhưng đồng thời cũng phải có ý phòng thủ nếu Bắc Kinh lại chẳng biết điều mà chơi bạo. Đó là mặt kia. Chánh sách đó từ thời Bill Clinton mới cho Trung Quốc quy chế "tối huệ quốc" rồi được Quốc hội Cộng Hoà nâng cấp thành "quan hệ mậu dịch bình thường và thường trực" để mở đường cho Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO từ cuối năm 2001 và vươn lên thành một thế lực kinh tế trong vùng. Nhưng cũng Chính quyền Clinton vào Tháng Ba năm 1996 đã gửi hai hàng không mẫu hạm vào Eo biển Đài Loan khi Bắc Kinh bắn hỏa tiễn qua đầu đảo quốc này trong lúc dân chúng lần đầu tiên đi bầu Tổng thống theo thể thức phổ thông đầu phiếu. Xin nhắc lại: lần đầu tiên trong lịch sử mấy ngàn năm mà dân Tầu trực tiếp đi bầu lãnh tụ nhưng Bắc Kinh lại không ưa một tiền lệ nguy hiểm như vậy và tìm cách phá bĩnh nên mới phóng hỏa tiễn qua không phận Đài Loan để hăm dọa. Cho tới khi Mỹ gửi chiến hạm vào làm nguội cái hỏa khí trên đầu Thiên tử đỏ! Ngay từ đây rồi, một viên tướng của Bắc Kinh đã giở giọng hỗn khi hỏi một nhà ngoại giao Mỹ: quý quốc có thể hy sinh Los Angeles hay San Francisco để bảo vệ Đài Loan không? Lối suy nghĩ ấy cho thấy rằng hai chục năm sau là ngày nay, Hoa Kỳ cần duyệt lại chánh sách hai mặt kết ước và phòng thủ với Trung Quốc. Vì phần kết ước thì có lợi cho Trung Quốc, khía cạnh phòng thủ có tính chất dương cương thì chưa có tác dụng thuyết phục. Hai chục năm sau, lãnh đạo Bắc Kinh không biết điều hơn. Bên trong còn tập trung quyền lực và gia tăng chà đạp nhân quyền. Với bên ngoài thì uy hiếp lân bang, trong khi không che giấu tham vọng quân sự là kiểm soát vùng Tây Thái bình dương được gọi là "quyền lợi cốt lõi" Lý luận ngoại giao thì đầy chất mị dân: "Á châu là của người Á" - không phải của Mỹ. Mà người Á ở đây là "thiên hạ" ngàn đời dưới sự lãnh đạo của Thiên triều. Về mặt quân sự đang tiến hành thì đó là chiến lược ngăn cản chiến hạm  Hoa Kỳ đi vào vùng biển mà Trung Quốc gọi là của mình. Sự thật này đã càng tỏ lộ trong nhiệm kỳ hai của Tổng thống George W. Bush, khi Mỹ lún sâu vào trận chiến chống khủng bố toàn cầu và bận rộn với hai chiến trường nóng là Afghanistan và Iraq. Vì vậy, người ta chờ đợi là qua triều đại Obama, từ đầu năm 2009, lãnh đạo Hoa Kỳ phải có chánh sách mới. Quả nhiên là mới - và lạ. Hoa Kỳ tiếp tục kết ước và còn ra sức hòa dịu với Bắc Kinh để Tổng thống rộng tay cải tạo nước Mỹ ở bên trong. Khi Trung Quốc tỏ vẻ hung hăng thì Obama nói đến việc chuyển trục cho bảnh, rồi cho cái trục xoay trong chân không. Khi Ngoại trưởng Cliton tới Bắc Kinh mời chào trái phiếu của Mỹ thì cũng là lúc ngân sách Hoa Kỳ bị bội chi tới đáy. Vài năm sau, khi Hoa Kỳ hăm dọa sẽ đưa 60% phương tiện hải quân vào biển Thái bình thì cũng là lúc ngân sách quốc phòng bị cắt. Chẳng ai ngạc nhiên là Bắc Kinh nhân dịp mở rộng khu vực kiểm soát phòng không ADIZ, thè cái lưỡi bò đòi liếm lung tung và tung phương tiện vào không gian điện toán để xục xạo bí mật an ninh và kinh tế của Hoa Kỳ. Sáu năm vừa qua đã thấy quan hệ Mỹ-Hoa trở nên tồi tệ hơn và nước Mỹ mất dần sự khả tín. Đồng minh không tin mà đối thủ cũng chẳng sợ. Nhưng may là Hoa Kỳ có nền dân chủ và sau khi mua hớ những lời hứa nhảm thì dân Mỹ cũng có thể sửa sai bằng lá phiếu. Trong cuộc bầu cử tuần qua, họ mạnh tay trao lại quyền kiểm soát cho đảng Cộng Hoà tại Quốc hội. Và trong hai năm tới, Hành pháp Obama rơi vào cảnh "vịt què".... Hiến pháp Hoa Kỳ giới hạn quyền Tổng thống bằng các định chế bên trong như Quốc hội hay Tối cao Pháp viện. Khi lâm vào thế yếu và muốn để lại danh tiếng cho đời thì một Tổng thống Mỹ vịt què chỉ có thể tìm kiếm thành quả về đối ngoại - qua một bản hiệp định về khí hậu chẳng hạn! Nhưng với đảng Cộng Hoà đa số tại Thượng viện, quyền phê chuẩn hay nhượng bộ cũng lọt khỏi tay đảng Dân Chủ. Và sau cuộc bầu cử 2014, dân Mỹ còn có tổng tuyển cử vào năm 2016. Trong hai năm tới, phe Cộng Hoà sẽ rà soát và xiết lại những nhượng bộ đã qua và vì viễn ảnh bầu cử Tổng thống năm 2016, phải vạch ra một đối sách khác với Trung Quốc. Hai năm đó cũng là giai đoạn khó khăn cho lãnh tụ Tập Cận Bình khi phải cải cách kinh tế ở nhà, với đà tăng trưởng giảm sút chưa từng thấy từ mấy chục năm nay, trong khi đồng Mỹ kim cứ vùn vụt lên giá. Bối cảnh đó khiến chúng ta lần lượt xét lại việc Trung Quốc và Hoa Kỳ tái lập cái thế quân bình trên vùng biển Thái bình dương trước sự thẩm xét của các nước Á châu. Và chỉ nên coi dự án cải thiện khí hậu như một điệu vũ cho vui. Một cảnh múa đôi huê dạng. Theo blog dainamax tribune
......

Lực lượng nào sẽ làm thay đổi Việt Nam?

Rất nhiều người có chung một nỗi băn khoăn: Bao giờ thì Việt Nam được dân chủ hoá? Để trả lời câu hỏi ấy, hầu như ai cũng biết một cuộc cách mạng dân chủ ở Việt Nam chỉ có thể xảy ra với một trong hai tình huống: Một, từ trên xuống; và hai, từ dưới lên. Dân chủ hoá từ trên xuống là một cuộc cách mạng lý tưởng nhất bởi nó nhanh nhất và ít bị trả giá nhất: Đó là các cuộc cách mạng đã diễn ra tại Liên Xô và Đông Âu vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, khi giới lãnh đạo ý thức là không thể kéo dài nguyên trạng và chấp nhận thay đổi chế độ ngay cả khi biết với sự thay đổi ấy họ sẽ mất tất cả quyền lực. Theo tôi, một cuộc cách mạng loại này rất khó xảy ra ở Việt Nam. Có hai lý do chính. Thứ nhất, ở Việt Nam không có, và sẽ không có một nhà lãnh đạo nào, dù sáng suốt đến đâu, có quyền lực để tự mình quyết định những sự thay đổi lớn lao liên quan đến số phận của cả chế độ. Kết cấu quyền lực ở Việt Nam khác hẳn ở các quốc gia cộng sản khác trước đây cũng như hiện nay: Ở các nước ấy, chủ tịch đảng cũng đồng thời là chủ tịch nước. Khi nắm trong tay cả hai chức vụ ấy, người ta dễ dàng trở thành kẻ quyết định cuối cùng. Ở Việt Nam, ngược lại, người lãnh đạo đảng và người lãnh đạo nhà nước và chính phủ khác nhau, do đó, không ai thực sự có quyền quyết định những vấn đề lớn cả. Tất cả đều phải thông qua ý kiến tập thể, ít nhất của Bộ Chính trị. Để cả tập thể ấy thống nhất với nhau về việc thay đổi chế độ để dân chủ hoá là một không tưởng. Thứ hai, chắc chắn Trung Quốc sẽ không thể chấp nhận Việt Nam được dân chủ hoá trước. Khi thấy Việt Nam có dấu hiệu rục rịch từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, chắc chắn Trung Quốc sẽ can thiệp ngay. Trong tình hình hiện nay, khi Việt Nam bị lệ thuộc vào Trung Quốc trong rất nhiều lãnh vực, từ kinh tế đến chính trị, những sự can thiệp ấy rất dễ thực hiện. Bởi vậy, triển vọng lớn nhất của xu hướng dân chủ hoá ở Việt Nam là từ dưới lên. Tuy nhiên, ở đây lại có một vấn đề lớn: Lực lượng nào sẽ đảm nhiệm công việc thay đổi theo chiều hướng dân chủ ấy? Để trả lời câu hỏi ấy, các nhà bình luận chính trị và xã hội có thói quen nhìn vấn đề từ góc độ kinh tế - xã hội với những thành phần giai cấp khác nhau. Trước hết, đông đảo nhất ở Việt Nam là các nông dân. Trong nhiều năm qua, những kẻ bị áp bức và bóc lột nhiều nhất ở Việt Nam cũng là các nông dân. Những cuộc biểu tình đông đảo và gây chú ý trong dư luận nhất cũng gắn liền với nông dân. Lý do dễ hiểu: một trong những yếu tố quan trọng nhất bị giới lãnh đạo Việt Nam khai thác để làm giàu và phân phối lợi nhuận để mua chuộc sự trung thành của các đảng viên chính là đất đai. Việc cướp đất ấy dẫn đến sự bất mãn của nông dân ở nhiều địa phương khác nhau. Lâu nay, rải rác đây đó, có các cuộc biểu tình của nông dân nhằm chống lại lệnh cưỡng chế của chính quyền. Nhưng những sự bất mãn và các cuộc biểu tình ấy có thể dẫn đến việc làm thay đổi chế độ hay không? Câu trả lời hầu như chắc chắn: Không. Lý do đầu tiên là hầu hết nông dân thường chỉ nghĩ đến những cái lợi cụ thể trước mắt: khi chính quyền cướp đất của mình thì mình vùng lên tranh đấu, nhưng khi chính quyền cướp đất của người khác thì người ta dễ khoanh tay đứng ngó, hoặc, khi tình hình căng thẳng quá, chính quyền chỉ cần nhân nhượng một tí, họ cũng dễ dàng thoả mãn và từ bỏ mọi toan tính chống đối. Lý do thứ hai là tuy nông dân chiếm một phần lớn dân số nhưng họ bị cô lập về phương diện địa lý: làng này xuống đường tranh đấu, làng khách chưa chắc đã biết. Từ việc cô lập về địa lý dẫn đến sự cô lập về truyền thông và hậu quả là không có nhiều người biết. Điều này dẫn đến hai hậu quả khác: Một, ít người ủng hộ; và hai, khó phát triển thành những cuộc xuống đường rầm rộ để có thể uy hiếp được chính quyền. Còn lực lượng công nhân? Ở Việt Nam, giai cấp công nhân càng ngày càng lớn và đời sống kinh tế của họ cũng gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, sự bất mãn của họ, nếu có, thường nhắm vào chủ nhân của xí nghiệp hơn là vào chính quyền. Chủ nhân của các công ty lớn lại thường gắn liền với người ngoại quốc, do đó, thù hận của họ cũng hướng ra bên ngoài. Đó là lý do tại sao cho đến nay, hầu hết các cuộc đình công hay biểu tình thường diễn ra trong các xí nghiệp và công ty do người ngoại quốc làm chủ. Giới thanh niên và trí thức Việt Nam hiện nay có thể được xem là thành phần “tiến bộ” nhất: Nhiều người trong họ thấy được những sự bất lực và bế tắc của nhà cầm quyền cũng như có khát vọng được tự do. Tuy nhiên, “nhiều” không có nghĩa là đa số. Khác với ở Ai Cập và các quốc gia Trung Đông trong cách mạng mùa xuân đầu năm 2011, nơi tỉ lệ thanh niên, dù đã tốt nghiệp đại học, thất nghiệp rất cao, ở Việt Nam, về phương diện kinh tế, thanh niên không đến nổi quá khó khăn, do đó, rất khó hy vọng họ sẽ kết tập lại thành một trận chung để đấu tranh cho dân chủ. Một thành phần khác có khả năng đương đầu với chính quyền là các tôn giáo. Ở tôn giáo nào cũng có những người phản kháng, nổi bật nhất là Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo và Công giáo. Hai tôn giáo đầu chỉ giới hạn ở các tỉnh phía Nam; Phật giáo thì bị quá phân tán; chỉ có Công giáo là tương đối thống nhất, và do đó, khá mạnh, nhưng dù mạnh đến mấy thì, một mặt, Công giáo cũng chỉ chiếm khoảng 10 phần trăm dân số; mặt khác, do chỉ là một thiểu số, họ khó trở thành những nhà lãnh đạo cho phong trào dân chủ trong cả nước. Nói tóm lại, từ góc độ kinh tế và xã hội, sẽ không có lực lượng nào đủ sức để chống lại chính quyền, thậm chí, gây sức ép để chính quyền phải thay đổi chế độ. Một vấn đề có thể được đặt ra: Tại sao tất cả các thành phần trên không thể kết hợp lại với nhau để thành một lực lượng duy nhất và mạnh mẽ? Dĩ nhiên, điều đó có thể xảy ra, và trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, đó là niềm hy vọng duy nhất để có dân chủ. Có điều: khi nào, và với điều kiện nào, tất cả các thành phần trên có thể đứng lại được với nhau? Câu trả lời: Tinh thần dân tộc hay chủ nghĩa quốc gia (nationalism). Người Việt Nam, bất kể thành phần kinh tế, xã hội và tôn giáo, sẽ đoàn kết lại khi đất nước bị uy hiếp và khi chính quyền bất lực, thậm chí, đầu hàng trước những sự uy hiếp ấy. Tất cả những sự uy hiếp ấy chỉ đến từ một nguồn: Trung Quốc. Nói cách khác, theo tôi, lực lượng đấu tranh cho dân chủ tại Việt Nam chỉ đoàn kết và trở thành mạnh mẽ khi Trung Quốc gia tăng mức độ lấn chiếm biển đảo và khi chính quyền Việt Nam càng lộ rõ bản chất nhu nhược của họ trong thế trận đối đầu với tham vọng bành trướng ấy. Nguồn: voatiengviet.com
......

Vẫn nghĩ chỉ mình biết đi dây

Nói về chuyện đi dây tôi nhớ đến nỗi trăn trở của thi sĩ Phùng Quán “người làm xiếc đi dây rất khó/nhưng không khó bằng nhà văn/đi trọn đời trên con đường chân thật”. Để đối diện với chính mình Phùng Quán đã phải trăn trở nhiều như thế, trong khi đó cầm chịch một đất nước, trước con mắt của 90 triệu dân và thế giới, lãnh đạo VN cứ thản nhiên tự hào: chỉ mình biết đi dây! Thử nhìn vào màn xiệc mới cùng các hiện tượng xoay chiều trái ngược một cách khó hiểu của nhiều quan chức Việt Nam gần đây: Đầu tiên là ông thứ trưởng Bộ Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh, trước giờ ông vẫn là cái “loa” cho Trung Quốc, từ các chính sách quyết giữ toàn vẹn lãnh thổ bằng tình hữu nghị 16 chữ vàng, 4 tốt, giữ nước bằng chính sách ba không cho đến những tuyên bố kiểu như: “Nếu Việt Nam cần sự ủng hộ, đồng cảm, hợp tác và phát triển thì còn có ai hơn một nước Trung Quốc xã hội chủ nghĩa láng giềng…”. Vậy mà, ông Trung Tướng thân Tàu, kẻ vẫn giữ nhiệm vụ lãnh chỉ thị trực tiếp từ Bắc Kinh đem về cho Trung ương Đảng CSVN thi hành trong nhiều năm qua, bỗng dưng, đùng một cái ông chuyển sang vai liên lạc, giao dịch với Hàn Quốc và Hoa Kỳ.     Trong khi đó, Tướng Phùng Quang Thanh sau nhiều năm giữ vai "tướng dữ" đi mua sắm vũ khí chống Tàu khắp nơi, nay lại chuyển qua vai "tướng hiền", với câu tuyên bố thắm thiết nghĩa tình tại Sangri-La rằng các biến động tại Biển Đông chỉ là chuyện nhỏ trong gia đình; rồi gần đây ông kéo nguyên một giàn 12 tướng lãnh cực kỳ hoành tráng sang Tàu xụp lạy. Điều nhức nhối là trong lúc tướng Thanh đang xum xoe một điều bạn, hai điều bạn, và rằng sang thăm được “bạn” đón tiếp rất nhiệt tình, trọng thị, thì báo chí “bạn” lại vẫn giữ nguyên cái giọng điệu xấc láo khinh thường lãnh đạo VN như mọi khi. Tội nghiệp, báo chí công cụ nhà nước ta vừa phải nhận lệnh thổi tối đa tin tức 13 tướng lãnh sang thăm Tàu cũng cố “tình hữu nghị”, vừa phải hằn học chửi rủa báo chí Trung Quốc là “xuyên tạc” khi dám gọi chuyến đi này là "chuyến đi cầu hòa". Cũng cần nói thêm là trước chuyến đi làm lễ “phụng bái” của phái đoàn tướng lãnh này, ông Lê Hồng Anh, nhân vật quyền lực thứ 5 trong Bộ Chính Trị cũng đã chính thức sang Bắc Kinh để bày tỏ niềm mong ước xin được “cùng khai thác Biển Đông”. Rồi mới đây nhất là tướng Trần Đại Quang, Bộ trưởng Bộ công an đã dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao của bộ sang bái kiến Trung Quốc. Như thế là đề huề, hai tướng lĩnh đứng đầu hai lực lượng vũ trang trụ cột của nước nhà đã liên tiếp sang viếng thăm Trung Quốc chỉ trong vòng một tháng. Riêng ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng, sau bao nhiêu năm ông hãnh diện ra mặt là người được Ban Tuyên Giáo Trung Ương đảng CSTQ đào tạo, và theo sát mọi kế sách của Bắc kinh như kiểu "Kinh Tế Thị Trường theo định hướng XHCH", thì nay ông lại lu loa tuyên bố rằng ta đã chiến thắng Bắc Kinh tại biển Đông. Nhưng dĩ nhiên chỉ nói nho nhỏ với một nhóm cử tri nho nhỏ ở Hà Nội. Lạ lùng hơn nữa là cả làng báo lề phải cũng được lệnh đăng rình rang các tuyên bố của tướng Đỗ Bá Tỵ, Ông Tỵ cảnh báo rằng dù đã rút giàn khoan ra khỏi thềm lục địa VN, nhưng Bắc Kinh sẽ không từ bỏ mộng xâm lấn Biển Đông. Các bài báo công cụ trên còn liệt kê tràn lan các bằng chứng về ý đồ thâm hiểm của Bắc Kinh qua các việc cho xây phi trường, trại lính trên các đảo; cử các quan chức lớn của họ ra tham quang; cho di dân Trung Quốc ra sinh sống dài hạn tại đây; tổ chức các đoàn du lịch; v.v… Với bằng ấy các động thái, làm sao hiểu được căn nguyên của 2 hiện tượng trái chiều này? Không lẽ Bộ Chính Trị đã nứt làm hai? Quân Đội đã rời thành 2 mảng không còn ai bảo ai được? hay Ban Tuyên Giáo đã bó tay, không còn ra lệnh được cho làng báo công cụ, và để xảy ra tình trạng ai muốn đăng gì thì đăng? Phân tích đi phân tích lại, rốt cuộc chỉ có câu trả lời hợp lý nhất là: giới lãnh đạo đảng vẫn nghĩ chỉ mình là khôn; chỉ có mình mới biết thủ thuật đi dây; chơi với cả 2 phía và bịt mắt cả 2 phía; hay lấy phía này để bẩy hay mặc cả với phía kia; ... như thời chiến tranh. Nhưng cũng thật khó hiểu tại sao lãnh đạo Hà Nội vẫn tin họ bịt mắt được Bắc Kinh khi trọn vẹn ý định đi dây đó đã được viết ra rành rọt trên các trang mạng chính thức lẫn bán chính thức của Bắc Kinh, đặc biệt là tờ Bưu Điện Nam Hoa, kèm theo với các lời cảnh cáo thẳng thừng về hệ quả. Các trang mạng này còn vạch ra luôn cả các ý định di dây với Ấn Độ rất gần đây của Hà Nội.   Và cũng thật khó hiểu, tại sao lãnh đạo Hà Nội tin rằng họ vẫn có thể tiếp tục bịt mắt dân tộc Việt Nam với những động tác: quì lạy lí nhí ở Bắc Kinh rồi về đứng phán nẩy lửa ở Hà Nội. Dù người có trí nhớ yếu cũng không quên được các màn xảo trá gần đây như: theo sau các bản tin mua tàu ngầm, tên lửa là các tuyên bố thề hứa không bao giờ dùng quân sự với Bắc Kinh, các thề hứa không bao giờ tham gia các liên minh chống lại Bắc Kinh. Cũng vậy, theo sau các thông báo "Đang chuẩn bị hồ sơ kiện Trung Quốc về Biển Đông" là các bản tin Quốc Hội nhất định không ra thông báo chính thức nào để phản đối Bắc Kinh đưa giàn khoan vào thềm lục địa Việt Nam; rồi sau đó là các bản tin đăng chuyến đi của đại diện Bộ Chính Trị CSVN Lê Hồng Anh sang Tàu xin được cùng "khai thác chung tại Biển Đông" và các chuyến triều kiến của quân đội và công an VN như đã nêu trên. Và vô số các sự việc tương tự. Rõ ràng trong thời đại thông tin với tốc độ ánh sáng ngày nay, giới lãnh đạo Hà Nội vẫn chỉ biết và chỉ muốn dùng lại các thủ thuật của 50 năm trước. Họ đang nhắm mắt mà lại tưởng nhân dân và thế giới đều đang bị bịt mắt. Rõ ràng cảnh đi dây ngày nay là trò xiếc chưa diễn đã nhàm. Bằng chứng lớn nhất là chẳng có ai thèm xem, dù đó là người Tàu, người Tây, hay người Việt.
......

Á Châu trước hai viễn kiến Đông Tây

Trong thượng đỉnh APEC của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Á Châu Thái Bình Dương năm nay các nước Á Châu thấy hai cường quốc ở hai bờ Thái Bình Dương đề nghị hai viễn kiến có vẻ tương đồng mà lại đối nghịch. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về những lợi hại của hai đề nghị này cho các nước Á Châu. Xin quý vị theo dõi cách Vũ Hoàng đặt câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Barack Obama (trái) tại Hội nghị thượng đỉnh APEC 2014 ở Bắc Kinh, Trung Quốc ngày 10 tháng 11 năm 2014.AFP PHOTO Kinh tế hay an ninh, chính trị? Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nghĩa. Thưa ông, đằng sau ngôn từ ngoại giao của lãnh đạo 21 quốc gia trong khu vực Á Châu Thái Bình Dương khi họ gặp nhau tại Hội nghị cấp cao là Thượng đỉnh APEC ở Bắc Kinh, mọi người đều thấy các nước Á Châu đang được hai cường quốc ở hai bờ Đông Tây của Thái Bình Dương là Hoa Kỳ và Trung Quốc mời chào vào hai dự án hội nhập kinh tế. Kỳ này, xin đề nghị ông phân tích cho hai đề nghị có vẻ là kinh tế đó mà thực chất vẫn liên hệ đến cả lĩnh vực an ninh và chính trị của các nước trong khu vực. Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng về bối cảnh sâu xa thì ta cần nhớ lại vài sự kiện trước khi đi vào hai viễn kiến Mỹ-Tầu được Hoa Kỳ và Trung Quốc chiêu dụ các nước châu Á. Trước hết, các nước đều có thể đồng ý với nhau rằng tự do thương mại theo quy luật thị trường là có lợi cho đôi bên trong việc giao dịch mua bán và đầu tư với nhau. Tuy nhiên, đi vào áp dụng thì từng nước phải đồng ý về quy tắc tự do đồng đều qua tiến trình đàm phán. Lý tưởng tự do mậu dịch toàn cầu dẫn tới sự hình thành của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO mà về sau cả Trung Quốc và Việt Nam đều gia nhập. Nhưng thực tế của thương thảo về quyền lợi và tương nhượng chung khiến vòng đàm phán gọi là Doha của WTO, được đề xướng từ Tháng 10 năm 2001, vẫn bế tắc sau 13 năm. Vì thế, các nước mới tìm qua ngả thương thuyết tay đôi hay giữa từng nhóm quốc gia trong từng khu vực với nhau rồi mở dần cho các nước khác tham dự. Vũ Hoàng: Thưa ông có phải đấy là bối cảnh của sự ra đời của sáng kiến TPP không? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa từ 10 năm trước, vào năm 2005, một nhóm nhỏ các nước có vị trí địa dư nằm trong vành cung Á Châu Thái Bình Dương đồng ý quy tắc tự do buôn bán theo chủ trương giảm thuế suất nhập nội và hạn ngạch xuất nhập khẩu đến tối đa để có một khu vực tự do mậu dịch. Sau đó, từ năm 2008, Hoa Kỳ là quốc gia có thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới mới tham dự và mở rộng sáng kiến này. Về nội dung thì có tính chất hội nhập cao hơn để các thành viên trở thành đối tác về kinh tế lẫn chiến lược. Về phạm vi thì mời nhiều nước khác cùng tham gia, quan trọng nhất chính là Nhật Bản, mà quan trọng hơn nữa là không mời Trung Quốc. Tinh thần hợp tác ở đây là ngần ấy thành viên lớn nhỏ phải cùng đồng ý với một quyết định thì mới có giá trị. Sau mấy chục vòng đàm phán, Hiệp định TPP chưa thành hình như Chính quyền Barack Obama đã yêu cầu từ hai năm trước. Một phần cũng do phản ứng bảo hộ mậu dịch ngay trong nội bộ nước Mỹ, xuất phát từ cánh tả của đảng Dân Chủ. Phần kia là phản ứng bảo vệ của Nhật, khi họ cân nhắc sự lợi hại của việc mua bán xe hơi với nhập khẩu nông sản và lương thực chẳng hạn. Thực tế thì các nước, và nhất là nhiều thành phần tại Mỹ, cứ chú ý đến chuyện áo cơm mắm muối mà quên hẳn khía cạnh chiến lược kia là sự bành trướng của Trung Quốc. Vũ Hoàng: Trong khi đó, Trung Quốc chẳng ngồi yên mà cũng đã có nỗ lực mở rộng hợp tác với các nước nên ngày nay lãnh đạo Bắc Kinh mới đề nghị một lộ trình hội nhập để thành lập một khu vực tự do mậu dịch trong vùng Á Châu Thái Bình Dương. Thưa ông, diễn tiến việc đó là như thế nào? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin được nhắc lại rằng khi ba bốn nước sơ khởi, là Chile, Singapore và New Zealand rồi Brunei, đàm phán việc hợp tác và dẫn tới sự hình thành của sáng kiến TPP thì từ năm 2004, Nhật cũng có đề nghị tương tự là lập ra một khu vực tự do mậu dịch cấp vùng. Nhưng chính Trung Quốc mới thúc đẩy sáng kiến đó với 10 nước trong Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á là ASEAN để tiến tới sự hình thành của diễn đàn ASEAN + 3 là thêm Trung Quốc, Nhật Bản và Nam Hàn. Tiếp theo thì họ mở ra diễn đàn ASEAN + 6 là mời thêm Ấn Độ, Úc và New Zealand. Sáng kiến ASEAN + 6 là nền tảng của đề nghị gọi là Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện trong Khu vực, gọi tắt là RCEP, được đưa ra lần đầu vào năm 2012 tại Thượng đỉnh của các nước ASEAN ở Cambodia, với triển vọng thành hình vào năm 2015. Sáng kiến RCEP do Trung Quốc đưa ra mới là nguyên ủy của dự án đàm phán về Hiệp định FTAAP gọi là Thương mại Tự do Á Châu Thái Bình Dương mà Chủ tịch Tập Cận Bình vừa nhắc lại và vẽ ra lộ trình sẽ cùng các nước hoàn tất vào năm 2025, là 10 năm sau tiêu chí của Hiệp định Đối tác Toàn diện RCEP... Vũ Hoàng: Khi ông nhắc đến hội nghị cấp cao của ASEAN tại Phnom Penh vào năm 2012 đó thì thính giả của chúng ta cũng nhớ đến việc quốc gia đăng cai tổ chức hội nghị này vào năm đó là xứ Cam Bốt đã bác bỏ việc các nước Đông Nam Á đề cập tới hồ sơ an ninh tại Biển Đông để khỏi gây mâu thuẫn với Trung Quốc. Có phải như vậy không? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ông nhớ sự kiện đó là chí lý vì mọi đồng tiền đều có hai mặt. Mọi dự án hợp tác hay hội nhập kinh tế đều bao gồm cả khía cạnh an ninh vì các thành viên buôn bán với nhau đều có xu hướng là đối tác kinh tế sẽ dễ là đồng minh về an ninh và chiến lược. Nếu Hoa Kỳ mở ra sáng kiến TPP mà không có Trung Quốc thì Bắc Kinh cũng có sáng kiến FTAAP giữa 16 quốc gia sản xuất ra 40% sản lượng của thế giới mà không có Hoa Kỳ. Mục tiêu của Mỹ và TQ? Vũ Hoàng: Nhìn cách khác và chúng ta trở lại chủ điểm của chương trình, phải chăng các nước Á Châu được Hoa Kỳ và Trung Quốc mời vào hai kế hoạch hợp tác kinh tế khác biệt và thậm chí đối nghịch nữa? Hai cường quốc này nhắm vào những mục tiêu gì và các nước Á Châu nên cân nhắc ra sao trước sự mời chào của Hoa Kỳ và Trung Quốc? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khi nhắc lại diễn tiến từ chục năm trước thì ta thấy ra hai viễn kiến gần như hai cực đối nghịch của Mỹ và Tầu ở hai đầu Thái Bình Dương. Các nước Á Châu phải cân nhắc nhiều mặt lợi hại về kinh tế lẫn an ninh trong viễn ảnh năm mười năm tới chứ không thể chỉ nghĩ đến chuyện mua bán với ai thì có lợi! Nói về mục tiêu của từng cường quốc Mỹ Hoa khi chiêu dụ các nước Á Châu, tôi nghĩ rằng ta nên thấy ra vài khác biệt sau đây . Hoa Kỳ tôn trọng quy tắc tự do kinh tế và coi trọng quy luật thị trường, với hệ thống luật lệ rõ ràng và là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới dù kinh tế không lệ thuộc vào ngoại thương như Trung Quốc. Đấy là một ưu thế khách quan. Trung Quốc có dân số cao nhất và lần đầu tiên trong lịch sử xứ này, lệ thuộc rất nhiều vào việc trao đổi buôn bán với thiên hạ để phát triển xứ sở. Nhờ vậy, các nước có thể tìm ra mối lợi khi làm ăn với thị trường Hoa Lục mà không thể quên chủ ý "phân công lao động" của Bắc Kinh, đó là bảo đảm nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu cho một xứ đói ăn, khát dầu và đang cần tiếp nhận hoặc thậm chí ăn cắp công nghệ cao của thế giới.   Vũ Hoàng: Ông có thể nào nêu vài thí dụ về chú ý này của Bắc Kinh không? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Lãnh đạo Bắc Kinh ve vãn một quốc gia có nhiều tài nguyên khoáng sản như Úc, thậm chí đã từng gây sức ép với doanh nghiệp Úc như vụ Rio Tinto năm kia, để bảo đảm nguồn cung cấp lâu dài với giá rẻ. Trong khi đó họ cũng ráo riết tìm cách ký kết hiệp định tự do mậu dịch với Nam Hàn, là xứ không có tài nguyên mà đầy chất xám và sản phẩm công nghệ cao. Mục tiêu kinh tế là để tranh thủ hai quốc gia có các sản phẩm và dịch vụ mà Bắc Kinh rất cần. Nhưng mục tiêu an ninh thì cũng để trấn an nước Úc khỏi lo sợ và hợp tác quân sự với Hoa Kỳ hoặc tham gia bảo vệ an toàn trên vùng biển Đông Nam Á là cửa ngõ thông thương của nước Úc. Với Nam Hàn thì mục tiêu an ninh cũng là kéo Nam Hàn về phía mình hầu giảm thiểu ảnh hưởng của một cường quốc kinh tế và quân sự mà họ e ngại nhất tại Đông Á là Nhật Bản. Vũ Hoàng: Vì thời lượng có hạn, chúng ta phải đi vào đoạn kết. Ông nghĩ sao về sự chọn lựa của các nước Á Châu trước hai viễn kiến hay dụng ý đó của Hoa Kỳ và Trung Quốc? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Đầu tiên, tôi xin nhắc lại rằng các nước Châu Á cần cái nhìn dài hạn và toàn diện về quyền lợi và sự an toàn trước sức hút của hai cực ở hai bờ Thái Bình Dương. Thứ hai, Trung Quốc có rất nhiều nhược điểm nội tại về kinh tế và xã hội cho nên nay mai có thể bị khủng hoảng và đấy là vấn đề cho Đông Á. Thứ ba, Trung Quốc ít tôn trọng cam kết và luật lệ mà cũng chẳng che giấu mục tiêu chiến lược về quân sự trên vùng biển từ Thái Bình Dương qua tới Ấn Độ dương. Trong khi đó, Hoa Kỳ là siêu cường ở xa, chẳng có tham vọng thôn tính mấy xứ Đông Nam hay Đông Bắc Á, nhưng có khả năng bảo vệ quân sự trên vùng biển và trong vài chục năm tới vẫn là lực đối trọng trước đà bành trướng của Trung Quốc tại Đông Á. Sau cùng, Hoa Kỳ là một xứ dân chủ, lãnh đạo phải quan tâm đến dư luận và có thể bị thay thế qua bầu cử công khai minh bạch nên khó thi hành loại âm mưu mờ ám và cứ phải công khai hóa tiến trình quyết định của mình, thí dụ như qua từng đợt đàm phán về Hiệp định Xuyên Thái Bình Dương. Vũ Hoàng: Câu hỏi cuối, thưa ông, khi nhắc đến chuyện bầu cử tại Mỹ vừa qua, các nước Á Châu nên kết luận ra sao và so sánh thế nào với Trung Quốc? Nguyễn-Xuân Nghĩa: Đảng Cộng Hoà thắng lớn tại Quốc hội sẽ giải tỏa cản trở của xu hướng bảo hộ mậu dịch trong đảng Dân Chủ nên tạo cơ hội cho ông Obama khai thông nhiều chướng ngại mậu dịch, nhất là với Nhật Bản trong dự án TPP. Vì vậy, Hiệp định TPP sớm có hy vọng thành hình trước Hiệp định FTAAP của Tầu. Thứ hai, đảng Cộng Hòa có xu hướng nghi ngờ Trung Quốc về an ninh nên sẽ gây sức ép với Chính quyền Obama để có những quyết định chuyển trục thật về Đông Á thay vì cứ nói vu vơ mà chẳng làm gì kể từ ba năm qua. Sau cùng, nếu so sánh thì lãnh đạo mới của Trung Quốc cứ nói tới giấc mộng Trung Hoa mà thực tế vẫn củng cố quyền lực và bành trướng ảnh hưởng ra ngoài. Kế hoạch mà ông Tập Cận Bình gọi là xây dựng lại "Con Đường Tơ Lụa" mở rộng trên đại lục và đại dương, từ Indonesia qua Ấn Độ vào Trung Á, có hàm ý quân sự để xác định lại sức mạnh của Trung Quốc tại Đông Á. Vì thế viễn kiến của Bắc Kinh có thể là ác mộng Châu Á. Vũ Hoàng: Xin cảm tạ ông Nghĩa về cuộc trao đổi này. Nguồn: rfa.org/vietnamese
......

Thấy Gì Ở Hội Nghị APEC Bắc Kinh 2014

Theo thứ tự, năm 2014 đến phiên Trung quốc tổ chức Hội nghị Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Lúc đầu chính quyền Trung quốc dự định sẽ tổ chức hội nghị này tại Hồng Kông, nhưng từ đầu năm 2014 đến nay công cuộc đấu tranh đòi bầu cử tự do của người dân Hồng Kông ngày càng mạnh nên nhà cầm quyền Trung quốc quyết định dời địa điểm tổ chức sang Bắc Kinh vì không muốn cho các nguyên thủ quốc gia tham dự hội nghị thấy cảnh người dân Hồng Kông biểu tình.   Chọn Bắc Kinh để tổ chức cũng gặp phải một trở ngại vì không khí ở đó đang bị ô nhiễm nặng bởi khói bụi PM2.5, thế nhưng đành phải chịu vì không một thành phố lớn nào ở Hoa lục có được bầu không khí trong lành. Để cho bầu không khí giảm thiểu ô nhiễm, chính quyền thủ đô Bắc Kinh đã phải ra lịnh hạn chế lượng xe ô tô lưu thông trong thành phố bằng cách áp dụng biện pháp xe mang bảng số chẵn không được lưu thông vào ngày chẵn và ngược lại. Họ cũng ra lịnh cấm không cho 375 công xưởng quá cũ nằm trong thủ đô hoạt động. Hơn 2.390 hãng xưởng ở những vùng phụ cận Bắc Kinh cũng cùng chung số phận, và khoảng 2.450 công trình xây dựng phải tạm ngưng thi công. Tất cả sẽ được hoạt động trở lại sau khi hội nghị APEC kết thúc. Hiển nhiên các chủ hãng xưởng, chủ các công trình xây cất cũng như nhân viên bất mãn ra mặt vì bị thiệt hại quá lớn mà chẳng được bồi thường gì. Tại Trung quốc, người ra lịnh không có trách nhiệm và cũng không cần biết đến các thiệt hại do lịnh gây ra cho dân chúng. Những hội nghị lớn thường là nơi để lãnh đạo các quốc gia đến gặp nhau bàn về một đường lối chung hay để điều chỉnh một số trục trặc hơn là bàn về chi tiết vì phần này sẽ có các cấp dưới lo. Việc các lãnh đạo gặp nhau bắt tay cũng là phần rất quan trọng của các hội nghị lớn vì qua đó người ta sẽ thấy sự thân thiện hay đang có vấn đề căng thẳng giữa quốc gia này và quốc gia khác. Ngay cả cách thức bắt tay cũng thường cho thấy chỉ dấu về quan hệ giữa 2 nước. Kế đến, việc sắp xếp chổ đứng để chụp hình cũng rất quan trọng. Qua đó người ta thấy nước chủ nhà trọng vọng nguyên thủ quốc gia nào. Ai cũng biết Hoa Kỳ là cường quốc số một của thế giới thế mà chổ đứng chụp hình của Tổng thống Obama ở rìa phải, cạnh nữ Tổng thống Hàn quốc, trong khi Tổng thống Nga, ông Pitin đứng giữa cạnh ông Tập Cận Bình. Điều này cho thấy rõ Trung quốc và Hoa Kỳ có vấn đề cho dù ông Tập và ông Obama vẫn tươi cười bắt tay nhau. Truyền thông quốc tế, đặc biệt Trung quốc và Nhật Bản, chú mục nhiều vào cái bắt tay giữa Chủ tịch Trung quốc và Thủ tướng Nhật.Trong khi ông Abe bắt tay với một nụ cười ngoại giao thì ông Tập lại lạnh lùng nhìn chổ khác không muốn nhìn mặt. Truyền thông Trung quốc khi đưa hình ảnh này lên báo đài đều thòng thêm một câu bình luận rằng vì ở vị thế chủ nhà nên Chủ tịch Tập Cận Bình buộc phải bắt tay chứ chẳng thích thú gì, ngày nào mà Tokyo còn tuyên bố quần đảo Điếu Ngư thuộc chủ quyền của Nhật là ngày đó không thể nói chuyện được với họ. Truyền thông Nhật thì cho rằng chuyện hội đàm song phương giữa Nhật Bản và Trung quốc là lợì ích chung cho cả hai quốc gia chứ đâu phải riêng gì cho Nhật nên đâu cần phải nhượng bộ, mà nhượng bộ sao được khi mà quần đảo Senkaku thuộc chủ quyền bất khả xâm phạm của Nhật Bản. Thái độ lạnh lùng của ông Tập Cận Bình được giới bình luận Nhật xem là thiếu hiểu biết về ngoại giao. Với các chỉ dấu đó, rõ ràng tình hình ngoại giao căng thẳng giữa Nhật và Trung quốc đang tăng chứ không giảm. Thêm một vấn đề khác, một ngày trước khi hội nghị APEC diễn ra, các phái đoàn của 12 quốc gia đứng đầu là Mỹ-Úc-Nhật gặp nhau ở Bắc Kinh để bàn về Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (gọi tắt là TPP), điều này đã làm cho Bắc Kinh khó chịu đến nổi phải cho phát ngôn viên Hồng Lỗi họp báo nói rằng: "Hiệp định TPP cũng quan trọng, nhưng quý phái đoàn đến đây nên chú tâm vào hội nghị APEC, chứ không phải đến đây để bàn về TPP". Theo các nguồn từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì Tổng thống Obama đã đặt vấn đề nhân quyền và chuyện biểu tình đòi tự do bầu cử của người dân Hồng Kông trong cuộc hội đàm song phương với Trung quốc. Ngược lại, các nguồn từ Trung Quốc cho biết ông Obama đã nêu các chuyện đó, nhưng ông Tập Cận Bình trả lời đó là chuyện nội bộ của Trung quốc, Hoa Kỳ không nên nhúng tay vào. Ngoài ra ông Tập còn cho rằng chiến lược xoay trục sang Châu Á-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ cũng cho thấy Washington muốn xen vào chuyện nội bộ của các nước trong vùng. Giới bình luận tại Nhật đánh giá cao việc Tổng thống Obama đặt vấn đề nhân quyền trong cuộc hội đàm tay đôi với ông Tập Cận Bình, nhưng mong mỏi phía Hoa Kỳ cũng có hành động đi kèm, đặc biệt trong 2 năm cuối trong nhiệm kỳ của ông Obama.
......

Những cái chết từ “quan hệ”

Chắc chắn, những người đi tìm việc ở Việt Nam ai cũng thuộc nằm lòng câu nói: “Nhất quan hệ, nhì tiền tệ, chót bét là trí tuệ.” Nhưng tôi nghĩ, câu nói ấy không chỉ đúng với những người đi xin việc, những cử nhân vừa mới tốt nghiệp mà còn đúng với rất nhiều mặt khác trong xã hội Việt Nam chúng ta. Đặc biệt là ở “mặt trận” kinh tế, nơi mà mối quan hệ được xem như chiếc “chìa khóa vạn năng” có thể mở được nhiều kho báu trù phú và màu mỡ. Nhưng đôi lúc nó cũng chính là mồ chôn của những chủ nhân chiếc chìa khoá ấy. Qua những “con hổ” lớn vừa bị xẻo thịt và đưa lên lò nướng, chúng ta đã thấy rằng, những kẻ đi lên bằng “quan hệ” cuối cùng cũng sụp đổ vì chính nó, thậm chí còn bị nó bóp chết và giết thịt.   Sau một thời gian dài được nuôi dưỡng, chăm sóc và vỗ béo. Gần đây, nhiều Đại gia lớn đã lần lượt được đưa lên bàn mổ và xẻo thịt. Có thể nói, đây là cuộc thanh trừng ác liệt nhất trong lịch sử nền kinh thương của Việt Nam. Nó có thể gây ra sự đổ vỡ không gì có thể ngăn cản nỗi. Bầu Kiên Ba tháng trước, thị trường chứng khoán đã được một phen chao đảo khi Đại gia Bầu Kiên bị kê đầu vào máy chém. Cách đây vài tuần, một ông lớn sở hữu hàng ngàn tỷ là Minh Châu Bắc Ninh cũng vừa bị làm thịt. Tuần trước, báo giới đã tốn khá nhiều giấy mực khi Đại gia Hà Văn Thắm bất ngờ bị “úp sọt”. Mới đây nhất là nguyên giám đốc sổ số miền Nam. Và trước đó là Dương Chí Dũng, Bình Vinashin…toàn những con Hổ đầu đàn của nền kinh tế. Theo tin mới nhất tôi vừa được biết từ một tờ báo giáo dục là tỷ phú Phạm Nhật Vượng, ông chủ của Vincom, Royal City, Time City… cũng chuẩn bị được “nhận nhiệm vụ”. Đó là tiếng chuông cảnh báo cho người đàn ông giàu nhất Việt Nam hãy tắm rửa sẵn sàng để “lên bàn mổ”, đó là lý do gần đây Vingroup đang bán đỗ, bán tháo nhiều dự án trọng điểm. Tiến sĩ Alan Phan đã từng nói, lý do các nhà thầu và doanh nghiệp Trung Quốc thường trúng “quả lớn” ở Việt Nam là vì họ có “vốn quan hệ” rất lớn, là những bậc thầy về “kỹ năng” luồn lách cửa sau. Trong một cơ chế XIN CHO ở xứ sở này thì những doanh nhân có “năng khiếu” như người Trung Quốc cũng sẽ luôn thắng lớn trên nhiều mặt trận. Điều khiến dân tình tò mò và khó hiểu là tại sao các vị “nô bộc” của dân lại để cho nhiều doanh nghiệp tư nhân mở chui sàn vàng cho kinh doanh 3-4 năm sau mới bắt? Vì sao để Hà Văn Thắm thâu tóm hàng loạt tài sản quốc gia từ kem Tràng Tiền, ngân hàng Bảo Việt, Ocean bank…rồi mới bắt? Vì sao Bình Vinashin đến thời “cuốn chiếu” rồi mà ba Dũng vẫn bơm thêm 750 triệu đô la vay của nước ngoài để “ném vào” mặc cho các chuyên gia và nhà cố vấn ra sức can ngăn? Nguyên nhân là ngân khố quốc gia đang trong tình trạng thủng đáy. Phải đi vay về để ăn và đảo nợ. Khi nợ đã quá cao (gần 50% GDP) lâm vào bí bách đành quay lại “giết thịt” những con Hổ béo để lấy tiền nuôi bộ máy đang bần cùng, túng quẩn, nuôi đội ngũ công chức đang ngày một phềnh to. Chẳng có dân nào nuôi nỗi bộ máy cồng kềnh,  tham nhũng, lãng phí, ăn hại như vậy cả. Quản lý  90 triệu dân, tài sản GDP mỗi năm hơn 200 tỷ USD mà cần đến 2,8 triệu công chức, nhân viên. Trong khi đó, nước Mỹ với 310 triệu dân, GDP 17.500 tỷ USD, có mặt ở mọi điểm nóng trên toàn thế giới, chỉ cần 2,1 triệu người làm quản lý. Túng quẩn, bí bách. Thịt, thịt và thịt, thịt từ cao xuống thấp, từ “con” to đến “con” nhỏ. Đầu tiên là các đại gia ngân hàng, tiếp theo là bất động sản, rồi đến tập đoàn nhà nước – những kẻ ăn hại và phá phách, sau cùng là những “con” gầy hơn, là sân sau của các đại gia và những ông quan lớn. Tất tần tật, những kẻ được “nuôi” bằng quan hệ giờ cũng sẽ bị thịt bằng “quan hệ”. Đó là sự trớ trêu và nghiệt ngã mà chẳng bên nào mong muốn. Chẳng ai ngờ rằng, khi “kết nối” được với “kho báu”, khi đã đào sâu vét đầy thì bất ngờ bị “sập hầm” và vùi chôn luôn dưới ấy. Những cái chết nhục nhã bị dân tình phỉ nhổ, nguyền rủa và xâu xé. Chưa rõ hệ quả của cuộc thanh trừng này là gì. Nền kinh thương của đất nước có lật sang được trang mới hay không. Nhưng với một cuộc truy quét sâu rộng như vậy thì “lợi phẩm” thu về phải tính bằng con số chục tỷ đô. Một khoản đủ lớn để trám vào lỗ thủng sâu hoáy của cái đảy ngân sách. Và thị trường chứng khoán cũng khó tránh khỏi một phen nghiêng ngã và chao đảo. Người Việt có câu: “Một người làm quan cả họ được nhờ.” Chính vì suy nghĩ ấy nên “văn hoá” quan hệ luôn được “lên ngôi” cao nhất. Bên cạnh mỗi ông quan luôn tấp nập nhiều thành phần ký sinh đang bám chặt như bầy đĩa đói. Điều chua xót nhất ở xứ sở chúng ta là những người tạo dựng tài sản thực sự cho quốc gia lại thường bị trù dập, hạch sách và hãm hại, thường thua thiệt trước những kẻ ăn không ngồi rồi, những kẻ dối láo, chụp giật, manh mún, thủ đoạn, bòn vét… Nhưng ở đời nhân quả là bất biến, có mấy ai dám khẳng định rằng, chơi với “voi” thì không bị voi dẫm chết. Nguyễn Văn Thương Theo triethocduongpho.com
......

Bàn về dân trí

Từ đầu thế kỷ trước, Phan Chu Trinh đã nói đến công cuộc “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” cho Việt Nam. Đến hôm nay và có thể là một thời gian dài sau này, riêng chuyện dân trí chắc sẽ còn tốn nhiều thời gian và giấy mực của chúng ta. Không ít lần, bộ máy tuyên truyền của nhà cầm quyền cộng sản rêu rao rằng: Việt Nam dân trí chưa cao để có thể có dân chủ; vì vậy, Đảng và Nhà nước cộng sản cần cai trị thêm, chờ khi nào dân trí đủ cao thì họ sẽ tự động thay đổi hệ thống chính trị và dân chủ hóa. Thời gian chờ đợi này có thể là năm mươi năm hoặc  một trăm năm? Đây chắc chắn không phải chỉ  là lời chống chế cho sự cầm quyền bất xứng, không chính đáng và dai dẳng của Đảng cộng sản lên hơn chín chục triệu dân Việt Nam; mà nó có thể còn là suy nghĩ chân thành và thiện chí của nhiều người có học Việt Nam. Chưa có dân trí cao thì chưa thể có dân chủ?!   Và với nền giáo dục ngăn cản tự do, sáng tạo và đang ngày càng lụn bại như tại Việt Nam thì còn lâu trình độ tri thức của người dân Việt Nam mới có thể sánh kịp các quốc gia như Hàn Quốc, Đài Loan, thậm chí là Thái Lan…Vậy thì Đảng cộng sản sẽ tiếp tục ở đây, ngay trên đầu chúng ta trong một vòng định mệnh luẩn quẩn: độc tài -> dân trí thấp, dân trí thấp -> độc tài?! Tất nhiên, tri thức là điều kiện không thể thiếu để phát triển đất nước một cách toàn diện và vững chắc. Chính tri thức cũng là yếu tố củng cố nền dân chủ. Tri thức giúp người dân tiếp cận thông tin nhanh chóng, am hiểu luật pháp và có những phản ứng hữu hiệu cho các chính sách quốc gia hoặc những thực hành chính trị của nhà cầm quyền. Tri thức và sự sáng tạo cũng là yếu tố thúc đẩy sự phát triển kinh tế, sự hòa nhập của quốc gia vào cộng đồng quốc tế trong mọi lĩnh vực để người dân được sống ngày một thịnh vượng và có uy tín trên trường quốc tế hơn. Không ai có thể phủ nhận vai trò của trình độ tri thức đối với tiền đồ một quốc gia. Nhưng chúng ta đang nói đến dân trí. Dân trí phải chăng đơn giản chỉ là trình độ tri thức của người dân, là chỉ số có thể đo lường được thông qua con số người có bằng cấp cao, tốt nghiệp những đại học danh tiếng? Chúng ta hãy cùng nhau dành thời gian để suy nghĩ về mệnh đề: “Dân thấp thấp thì chưa thể có Dân chủ”. Ấn Độ năm 1947 khi giành được độc lập, dân trí có cao hơn Việt Nam bây giờ không? Miến Điện hay Cambodia đã bắt đầu con đường dân chủ hóa có dân trí cao hơn Việt Nam không? Nếu các bạn lưỡng lự, thì chúng ta có thể cần nhiều thời gian hơn nữa trước khi đưa ra bất cứ khẳng định một cách khoa học nào về chuyện Dân trí - Dân chủ. Theo thiển ý của người viết bài này, dân trí không chết cứng trong cái nội hàm “tri thức”. Dân trí là một tập hợp những điều kiện thuộc về não trạng và văn hóa nhiều hơn là tri thức. Dân trí cao không phải là tỷ lệ cao những người có học và có bằng cấp cao mà là các yếu tố thuộc về nhận thức (chứ không phải tri thức) có thể chi phối hành động và phản ứng của người dân trong mối quan hệ của họ với nhau và của họ với chính quyền. Ví dụ, những người có học hành nhiều chưa chắc là những người có hành xử văn hóa. Trong cách dùng thông dụng do những người cộng sản hiện nay áp đặt, người có bằng cấp cao thì được gọi là người có trình độ văn hóa cao. Nhưng thực tế, những hành xử văn hóa không phụ thuộc nhiều vào việc người ta có học nhiều hay không, mà phụ thuộc vào nền tảng đạo đức từ môi trường gia đình - xã hội, những quy tắc hành xử phổ biến trong xã hội và nhận thức của chính người đó về các giá trị công bằng, bác ái, tự do và công lý;  để rồi từ đó có nhận thức đạo đức cơ bản và hành xử luân lý tương ứng. Một người đàn anh đáng kính của tôi từng chia sẻ: Dân trí là chỉ số để đo (và luôn tỷ lệ nghịch với)  mức độ thờ phụng quyền lực các loại. Người dân thờ phượng quyền lực chính trị, trí thức thờ phượng một trí thức tên tuổi khác… Người viết tạm thời đưa ra vài đặc điểm dưới dây mà tôi xem như là biểu hiện của một nền dân trí cao:   - Người dân và đặc biệt là giới trí thức không/ ít sợ hãi và tôn sùng quyền lực, dù đó là quyền lực chính trị, kinh tế, học thuật hay tôn giáo. Người dân không xem những người cầm quyền chính trị là những người có vị thế ưu thắng tuyệt đối và bất khả xâm phạm. Đối với họ, các vị trí lãnh đạo quốc gia là có thể thay đổi được, dựa trên ý chí của chính người dân; và các vấn đề to lớn của quốc gia không phải là sân chơi riêng của những người ở “tầng lớp trên”. - Giới trí thức không/ ít khao khát quyền lực chính trị. Họ không xem việc nắm quyền chính trị hoặc hưởng lợi nhờ quyền lực chính trị là mục tiêu hoặc là biểu hiện thành công của sự nghiệp mình. Tất nhiên tham chính và lãnh đạo quốc gia không phải là điều xấu nhưng đó không phải là cách duy nhất khiến một người có được vinh quang, sự khen ngợi và công ích xứng đáng. Trí thức đặt mình vào một vị thế còn quan trọng hơn, đó là giám sát chính trị, đề nghị chính sách quốc gia và phục vụ người dân. - Người dân có khả năng giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống hằng ngày và các mối quan hệ với cộng đồng thông qua các hoạt động tự lập và tự quản, không viện đến sự xử lý của chính quyền nếu chưa cần thiết. Những sự phụ thuộc nhỏ lẻ vào chính quyền cho thấy ở họ tâm lý lệ thuộc thực chất còn lớn hơn nhiều. - Người dân có xu hướng tôn trọng hạnh phúc và tự do của từng cá nhân con người; đề cao tự do và phẩm giá con người với tư cách từng cá nhân cụ thể; dù trân quý những hy sinh của cá nhân cho cộng đồng nhưng không coi sự hy sinh của cá nhân cho tập thể là giá trị luân lý bắt buộc. - Người dân có xu hướng giải quyết vấn đề bằng phương pháp hòa bình và tinh thần khoan dung, không đề cao vũ lực và không/ít bị kích động bởi khuynh hướng bạo lực. Và họ có khả năng đề kháng tương đối đối với những hô hào mị dân về chủ nghĩ dân tộc cực đoan. - Người dân có ý thức về lợi ích của sự hợp tác và có khả năng xây dựng đồng thuận một cách lành mạnh và tuân thủ luật pháp để hợp tác với nhau trong việc giải quyết các vấn đề cộng đồng và quốc gia. Nếu mệnh lệnh tùy tiện và độc đoán là đặc trưng của những xã hội bán khai  từ thời xa xưa của nhân loại thì khả năng tạo đồng thuận và hợp tác là kỹ thuật đặc biệt của những cộng đồng văn minh của thế giới hôm nay. - Người dân giữ được sự bình tĩnh tương đối, khả năng hành động tương hỗ và sự thượng tôn luật pháp khi cộng đồng hoặc quốc gia lâm vào những tình huống khẩn cấp như thiên tai, chiến tranh, tội phạm. Họ có khả năng ứng phó một cách khoa học, lý tính trong những trượng hợp đó. - Người dân có khả năng tư duy và phán đoán độc lập, không/ ít tôn sùng biểu tượng, không đeo bám cứng nhắc những giáo điều hay chủ thuyết nhất định. Bởi theo logic tâm lý, khi người dân quá tôn sùng biểu tượng thì  trong tâm lý của họ không có điều gì khác hơn ngoài việc người ta cũng muốn trở thành biểu tượng nếu có cơ hội. Tâm lý tôn sùng biểu tượng càng mạnh thì sự hãnh tiến khi nắm được địa vị ưu thắng càng lớn. Đây cũng có thể được xem là một khía cạnh của sự thờ phượng quyền lực. Sau khi xem xét xong những điều trên đây, chúng ta gần như có thể trả lời được câu hỏi: Vì sao ngày càng có nhiều sinh viên Việt Nam đi du học nước ngoài nhưng hầu như có rất ít người trong số những con người bằng cấp đầy mình ấy có đủ can đảm để dấn thân cho dân chủ và đóng góp cho cộng đồng xã hội.Những người kiến thức sâu rộng ấy cũng vô cùng sợ hãi và thiếu trách nhiệm giống như bao người thất học khác, vì kiến thức không giúp họ trở nên can đảm, bớt lệ thuộc quyền lực và sốt sắng nhận lãnh trách nhiệm cộng đồng. Bởi vậy nhiều con cái các gia đình cán bộ cộng sản cấp địa phương cũng như cấp quốc gia du học và trở về, nhưng cái họ đang và sẽ trở thành không phải là điều gì khác hơn ngoài những “ông bà độc tài con”. Vấn đề là ở chỗ nhận thức về chính trị - xã hội và kỹ thuật tổ chức cuộc sống chung trong một cộng đồng văn minh chứ không phải là việc có nhiều bằng cấp hay không. Như tôi đã từng chia sẻ, giải thể một chế độ độc tài để bắt đầu con đường dân chủ hóa tuy khó nhưng còn dễ hơn rất nhiều so với công cuộc xây dựng dân chủ hậu độc tài. Và tri thức, khi đó sẽ đóng vài trò rất quan trọng; nhưng  nếu chúng ta không thể bắt đầu ngay bây giờ thì ngày mai chẳng có gì xảy ra cả. Ngay chính trình độ tri thức của người dân cũng ngày càng thoái hóa dưới chế độ độc tài chứ chưa nói là nó có cơ hội để đóng góp xây dựng dân chủ hay không. Bởi vì chính dân chủ và sự tự do hiến định trong một nền dân chủ xứng đáng cũng góp phần quyết định nâng cao trình độ tri thức của người dân. Trong một buổi nói chuyện dành riêng cho Hội PNNQVN, ông Ngô Nhân Dụng đã chia sẻ: Bạn không thể nói tôi không biết bơi vì vậy tôi không dám xuống nước. Vì nếu bạn không xuống nước, bạn sẽ không bao giờ biết bơi cả. Và cũng xin dùng lời hữu lý trên để kết thúc bài viết này trong tâm tình mong muốn tiếp thu nhiều chia sẻ hữu ích hơn từ các bạn trẻ Việt Nam. Buôn Hồ, 7/11/2014 H.T.V Theo FB HuynhThucVy
......

Chính giới Thụy Sĩ tranh đấu cho Đặng Xuân Diệu (Schweizer Politiker engagieren für Blogger Dang Xuan Dieu)

Sáng ngày 10 tháng 11, 2014, một phái đoàn gồm dân biểu và chính giới Thụy Sĩ đã đến tòa lãnh sự Việt Nam tại Genève/Thuy Sĩ để trao cho bà lãnh sự Đỗ Hà Thảo một Thỉnh Nguyện Thư gửi Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng về trường hợp tù nhân lương tâm (TNLT) Đặng Xuân Diệu bị cầm tù trong hoàn cảnh khắc nghiệt với tình trạng sức khỏe của anh đang gặp nguy cơ.Am 10. November 2014 „besuchte“ eine Delegation Schweizer Politiker das Konsulat von Vietnam in Genf / Schweiz. Die Politiker überreichten dem Konsul Do Ha Thao eine Petition, gerichtet an Premierminister Nguyen Tan Dung, zugunsten des Gefangenen des Gewissens Dang Xuan Dieu, der unter widrigsten Umständen eingesperrt ist und sich in erster Lebensgefahr befindet. Từ trái sang phải: Ông Michel Rossetti, cựu thành viên Hội đồng quản trị, cựu thị trưởng thành phố Genève; bà Anne-Marie von Arx-Vernon, Dân biểu Quốc Hội tiểu bang Genève; ông Rolin Wavre, nghị viên thị xã Pregny-Chambesy tiểu bang Genève; ông Jean-Marc Comte, thành viên Hội đồng quản trị và đương kim thị trưởng thành phố Grand-Saconnex tiểu bang Genève. Die Schweizerdelegation: von links nach rechts, Herr Michel Rosseti, Frau Anne-Marie von Arx-Vernon, Herr Rolin Wavre (mit dem Foto von Dang Xuan Dieu) und Herr Jean-Marc Comte. Phái đoàn được dẫn đầu bởi bà Anne-Marie von Arx-Vernon, Dân biểu Quốc Hội tiểu bang Genève; ông Michel Rossetti, cựu thành viên Hội đồng quản trị và cựu thị trưởng thành phố Genève; ông Jean-Marc Comte, thành viên Hội đồng quản trị và đương kim thị trưởng thành phố Grand-Saconnex, tiểu bang Genève; và ông Rolin Wavre, nghị viên thị xã Pregny-Chambesy, tiểu bang Genève.Die Delegation wurde von Frau Anne-Marie von Arx-Vernon, der Abgeordneten das Kantons Genf, Herrn Michel Rossetti, einem ehemaligen Mitglied des Verwaltungsrates und ehemaligen Bürgermeister von Genf, Herrn Jean-Marc Comte, Chef des Verwaltungsrates und amtierendem Bürgermeister von Grand-Saconnex, Kanton Genf und Herrn Rolin Wavre, Genfer Stadtrat und Frau Pregny-Chambésy, Genfer Stadträtin. Thỉnh Nguyện Thư yêu cầu ông Nguyễn Tấn Dũng quan tâm đến điều kiện giam giữ khắc nghiệt của anh Đặng Xuân Diệu và yêu cầu ông can thiệp để anh được khám bệnh và được chữa trị như mọi tù nhân.Die Unterzeichner der Petition beklagten ganz besonders über die unmenschlichen Haftbedingungen, unter denen der Blogger Dang Xuan Dieu leidet. Sie baten Premier Nguyen Tan Dung um Hafterleichterung sowie die Gewährung der notwendigen, medizinischen Untersuchungen für Herrn Dang Xuan Dieu. Theo bà Anne-Marie von Arx Vernon, trường hợp TNLT Đặng Xuân Diệu là một trường hợp nhân đạo nên bà xin ông Nguyễn Tấn Dũng cho phép một phái đoàn Thuy Sĩ đến viếng thăm anh trong trại giam. Bà cũng yêu cầu trường hợp anh Đặng Xuân Diệu được duyệt xét lại dựa theo Hiệp ước quốc tế và các quyên dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký.Laut Anne-Marie von Arx-Vernon ist die Behandlung des Gefangenen des Gewissens Dang Xuan Dieu ein scherwiegender Verstoß gegen internationale Verpflichtungen Vietnams gemäß den von Vietnam unterzeichneten Abkommen über bürgerliche und politische Rechte. Die Mitglieder der Delegation wollen Herrn Dang Xuan Dieu im Gefängnis besuchen und fragen nach einem Visum. Bà Anne-Marie von Arx-Vernon cho biết là bà lãnh sự Đỗ Hà Thảo có hứa sẽ chuyển Thỉnh Nguyện Thư đến ông Nguyễn Tấn Dũng. Ông Michel Rossetti chia sẻ là ông luôn sát cánh cùng người Việt đấu tranh cho một nền tự do dân chủ tại Việt Nam. Ông Jean-Marc Comte nói ông hân hạnh tham gia ký tên Thỉnh Nguyện Thư và mong anh Đặng Xuân Diệu sớm được nhà cầm quyền thả. Ông Rolin Wavre yêu cầu Việt Nam cần phải tôn trọng nhiều hơn các công ước quốc tế mà Viet Nam đã ký kết.Frau Anne-Marie von Arx-Vernon verpflichtete den Konsul Do Ha Thao, die Petition an Vietnams Premier weiterzuleiten. Herr Michel Rossetti teilte mit, dass er immer Seite auf der Seite der Kämpfer für demokratische Freiheiten in Vietnam steht. Herr Jean-Marc Comte sagte, er sei geehrt, die Petition unterzeichnen zu dürfen und wünscht sich die baldige Freilassung von Herrn Dang Xuan Dieu. Herr Rolin Wavre ermahnte Vietnam zu mehr Respekt gegenüber  internationalen Verträgen, die Vietnam selbst unterzeichnet hatte. Als Mitglied des Menschenrechtsrates der UNO steht Vietnam in der besonderen Verpflichtung zur Einhaltung der Menschenrechte gegenüber seinen kritischen Bürgern. Trước đây vài năm, bà Anne-Marie von Arx Vernon cũng đã có 2 lần viết thư đến tòa lãnh sự Việt Nam để can thiệp cho trường hợp nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa (nhưng toà lãnh sự không có hồi âm).In den letzten Jahren hatte Frau Anne-Marie von Arx Vernon schon zweimal an das Konsulat Vietnams in Genf geschrieben, um Hafterleichterung für den Schriftsteller Nguyen Xuan Nghia zu ersuchen. Vom Konsulat erhielt sie keine Antwort. Được biết bà Anne-Marie von Arx Vernon và ông Rolin Wavre đã có lần đến Việt Nam thăm gia đình các nhà dân chủ bị cầm tù.Frau Anne-Marie Arx-Vernon und Herr Rolin Wavre hatten Familien von inhaftierten Dissidenten besucht. Übersetzung aus dem Vietnamesischen von Dr. Thanh Nguyen-BremQuelle: http://diendanctm.blogspot.de/2014/11/chinh-gioi-thuy-si-tranh-au-cho-an... (Text in Vietnamsisch)    
......

Di sản Đông Đức 25 năm sau ngày thống nhất

Hai mươi lăm năm sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, nước Đức Thống Nhất, cùng với ngân khoản khổng lồ để tái thiết những vùng trước kia ở bên kia bức màn sắt của nước Đức lên tới một ngàn năm trăm tỷ Euros, khoảng 2000 tỷ mỹ kim, hai miền của nước Đức nay vẫn còn nhiều khác biệt từ kinh tế đến con người. Một bản tin của AFP vào cuối tháng 10 vừa qua (1) cho biết như vậy. Ngân khoản to lớn vừa kể (ước tính cho đến nay) là khoản tiền thuế phụ trội 5.5% có tên gọi là thuế “đoàn kết” (solidarity tax) mà người dân Tây Đức phải đóng thêm từ năm 1991 cho đến năm 2019 để tái thiết lại Đông Đức sống dở chết dở sau bao nhiêu kế hoạch ngũ niên của nhà nước cộng sản Đông Đức.   Một bản tin khác của AFP tháng trước đó (2) thuật lại một số chi tiết trong bản báo cáo hàng năm, đánh giá về việc tái thiết Đông Đức để chuẩn bị cho dịp kỷ niệm 25 năm nước Đức thống nhất năm nay, tuy có đưa ra hình ảnh tích cực hơn của Đông Đức sau 25 năm nước Đức thống nhất, nhưng vẫn cho thấy những nét ảm đạm của “di sản Đông Đức”. Bản báo cáo vừa kể của bà Iris Gleicke, đại diện của những tiểu bang “mới” cho biết, mặc dù việc tái thiết 5 tiểu bang thuộc Đông Đức cũ đã đạt được nhiều tiến triển và hài lòng về “bức tranh tổng thể”, cũng như đã thành công phần lớn trong việc hội nhập của người dân Đông Đức, nhưng vẫn còn một khoảng cách đáng kể giữa hai miền trong lãnh vực kinh tế và công ăn việc làm. Mặc dù lợi tức bình quân đầu người của người dân Đông Đức nay đã tăng gấp đôi so với lúc bức tường Bá Linh vừa sụp đổ vào năm 1990, nhưng lợi tức này nay vẫn chỉ bằng khoảng 2/3 lợi tức bình quân của người dân Tây Đức, trong khi đó thì sự thịnh vượng của Tây Đức gần gấp đôi Đông Đức. Bản báo cáo này còn cho biết, từ năm 1995 đến năm 2013 nền kinh tế ở Đông Đức tăng trưởng 20%, cùng thời gian đó kinh tế Tây Đức Tăng trưởng 27%. Theo bản báo cáo thì con số ít ỏi các công ty lớn di chuyển sang Đông Đức là yếu tố quan trọng làm cho năng suất lao động của người dân vùng này thấp kém, điều này cũng khiến sự hội nhập của người dân Đông Đức trong mấy năm vừa qua chậm lại. Mặt khác, nền công kỹ nghệ ở Đông Đức sau năm 1990 chỉ gồm những công ty loại trung bình và nhỏ. Không có một công ty nào có tên niêm yết trên thị trường chứng khoán DAX của Đức đặt trụ sở của họ ở phía Đông Đức. Các công ty đa quốc gia đặt trụ sở ở phía Tây Đức vì điều kiện làm việc tốt hơn, họ cũng trả lương cao hơn, và nhờ thế họ mới giữ được lực lượng lao động có tay nghề và năng suất cao.   Theo các con số chính thức thì tỷ lệ thất nghiệp ở phần đất Đông Đức là 10.3%, dù rằng trong năm 2013 Đông Đức đã hạ được tỷ lệ thất nghiệp xuống mức thấp nhất kể từ khi nước Đức thống nhất đến nay; trong khi tỷ lệ đó ở Tây Đức chỉ khoảng 6%. Mười năm trước đây tỷ lệ thất nghiệp ở Đông Đức lên đến 18.4%, gấp đôi ở Tây Đức. Một báo cáo khác của viện nghiên cứu kinh tế Ifo công bố gần đây cũng cho thấy một hình ảnh tương tự. Theo một cuộc thăm dò vào cuối tháng 9 thì có đến 75% “Ossis”, tức những người ở Đông Đức cũ như ở Đức vẫn gọi họ, thấy nước Đức thống nhất là sự kiện tích cực, trong khi đó chỉ có 48% "Wessis" (người ở phía Tây Đức) cảm nhận tương tự. Nhiều người dân Đông Đức thuộc thế hệ già cả vẫn nuối tiếc hệ thống y tế và giáo dục “bao cấp” thời cộng sản. Nhìn chung thì ai cũng phải thừa nhận những nguyên nhân, sự khác biệt và yếu kém của nền kinh tế Đông Đức cũ dưới chế độ cộng sản. Nó để lại một di sản nặng nề và tồi tàn cho nước Đức sau khi thống nhất. “Việc tái thiết (Đông Đức) vẫn chưa xong, rõ ràng là như vậy. Tuy nhiên đã thấy ánh sáng ở cuối đường hầm”. Ông Michael Burda, kinh tế gia ở đại học Humboldt, Berlin, đã nhận xét như vậy khi nhìn lại chặng đường 1/4 thế kỷ bức tường Berlin sụp đổ, nước Đức thống nhất.   --- (1) Theo ước đoán của giáo sư Thomas Lenk, đại học tài chánh công Leipzig (public finance at Leipzig University), 25 years on, Germany's east-west divide still palpable (http://news.yahoo.com/25-years-germanys-east-west-divide-still-palpable-...) (2) Eastern Germany still lags 25 years after Berlin Wall's fall, (http://news.yahoo.com/eastern-germany-still-lags-25-years-berlin-walls-2...)   Theo FB CTM
......

Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam?

Đề tài này có thể rất tế nhị. Nếu là người Việt mà nói “tôi không tự hào là người Việt” thì chắc chắn sẽ bị “ném đá” như Hồi giáo ném đá những người ngoại tình. Một cuốn sách có tựa đề là “Tôi tự hào là người Việt Nam” mới xuất bản và đã bán hết 10000 cuốn đủ để nói đề tài này làm ấm lòng rất nhiều người như thế nào. Tôi chưa đọc quyển sách đó, nhưng đọc phần nhận xét của báo chí thì thấy hình như hàm lượng tri thức không cao (1). Đọc qua bài tường thuật một hội thảo cùng chủ đề cũng chỉ thấy những phát biểu chung chung. Vậy chúng ta có lí do gì để tự hào là người Việt Nam? Tôi nghĩ thành thật mà nói, chúng ta không có nhiều lí do. Khi tôi hỏi về câu này, nhiều người có học và suy nghĩ nói thẳng rằng họ không tự hào là người Việt Nam. Ở đây, tôi thử đóng vai một “devil advocate” về đề tài này. Điều gì làm cho người ta tự hào là thành viên của một cộng đồng dân tộc? Nói đến tự hào dân tộc, có lẽ người Nhật có lòng tự hào cao nhất nhì thế giới. Năm 2008, kết quả điều tra xã hội ở Nhật cho thấy 93% người Nhật tự hào là người Nhật (2), và tỉ lệ này cao hơn Mĩ (85%). Con số này ở Nhật năm 1986 là 91%. Khi được hỏi điều gì làm cho họ tự hào là người Nhật thì 72% trả lời là yếu tố lịch sử, truyền thống và văn hoá, 43% trả lời là phong cảnh thiên nhiên. Ngoài ra, 28% chọn sự ổn định xã hội và an toàn, và 28% khác chọn đặc tính dân tộc làm cho họ tự hào. Người Nhật quá tự hào đến nỗi họ không nhận trợ giúp trong cơn bão Fukushima. Riêng tôi muốn bổ sung những yếu tố trên và nghĩ đến 6 yếu tố sau đây: truyền thống và văn hoá, kinh tế, giáo dục & khoa học, xã hội ổn định, phong cảnh thiên nhiên, và trách nhiệm với cộng đồng thế giới. Phải nói ngay rằng xét đến 6 yếu tố này thì chúng ta rất khó mà tự hào là người Việt. Truyền thống và văn hoá nghèo nàn & thiếu bản sắc tích cực Thật khó chỉ ra một nét văn hoá đặc thù nào mang tính Việt Nam. Hỏi một người Việt Nam bình thường chỉ ra một nét văn hoá định hình Việt Nam, chắc chắn người đó sẽ lúng túng. Điều này dễ hiểu vì chúng ta khởi đầu từ một nền văn minh nông nghiệp (lúa nước) nhưng lại chịu ảnh hưởng bởi văn hoá Tàu cả ngàn năm. Hệ quả của sự ảnh hưởng đó để lại cho VN những đặc điểm mà chúng ta đều có thể nhận ra như tính vọng ngoại, chuộng bạo lực, tính vị kỉ, tính khoa trương bề ngoài và thiếu thực chất bên trong, v.v. Một nhà văn hoá xuất sắc là Đào Duy Anh từng nhận xét về người Việt Nam (trong “Việt Nam văn hoá sử cương”) như sau: “Về trí tuệ thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay ít thấy có người trí tuệ lỗi lạc phi thường; sức ký ức thì phát đạt lắm, mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, thích văn chương phù hoa hơn là thực học; Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt cho nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng, mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm; Sức làm việc khó nhọc, nhất là người ở miền Bắc, thì ít dân tộc bì kịp; Cảm giác hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục; Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng; Hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài, ưa thích hư danh; Thích chơi bời cờ bạc; Não sáng tác thì ít, nhưng mà bắt chước, thích ứng và dung hòa thì rất tài; Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo, song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo“. Nói tóm lại những đặc tính về người Việt trên đây chẳng làm cho chúng ta tự hào. Những nét văn hoá đó càng lộ ra khi người Việt bắt đầu hội nhập quốc tế hay định cư ở nước ngoài. Chúng ta đã từng đọc và nghe những câu chuyện người Việt ăn cắp trong các siêu thị ở Nhật, Singapore, Úc, v.v. Chúng ta cũng từng nghe biết người Việt hám ăn và phung phí ra sao. Nhiều người biện minh rằng đó chỉ là số ít và chỉ tập trung vào một nhóm người ít học. Nhưng biện minh đó không thuyết phục, khi chúng ta biết rằng những người Việt ăn cắp ở nước ngoài là những người có học, là quan chức đang làm việc trong cơ quan công quyền, thậm chí đang hành nghề giảng dạy về đạo đức sống! Chúng ta cũng biết rằng sự hám ăn của người Việt nổi tiếng đến nỗi nhà hàng Thái Lan và Nhật phải để những tấm biển viết bằng tiếng Việt cảnh cáo. Phải nhìn nhận những thực tế đó, chứ không nên trốn tránh. Ngay cả người Việt định cư ở nước ngoài cả vài chục năm vẫn giữ những bản sắc chẳng có gì đáng tự hào. Ở Úc, người Việt là một sắc dân có nhiều thanh thiếu niên ngồi tù. Cộng đồng người Việt ở Mĩ được xem là khá thành công, nhưng thực tế vẫn cho thấy đó là một cộng đồng nghèo và họ thường sống co cụm với nhau và thiếu khả năng hội nhập như cộng đồng người Nhật, Phi Luật Tân hay Hàn Quốc. Vì sống co cụm với nhau nên chúng ta dễ thấy bản sắc văn hoá của người Việt được duy trì như thế nào. Hãy đến những khu thương mại của người Việt ở Sydney, Orange county, San Jose, chúng ta dễ dàng thấy đó là những khu tấp nập buôn bán, nhưng nhìn kĩ thì sẽ thấy sự dơ bẩn, ồn ào, mất trật tự, và chen chúc chật hẹp. Nhìn kĩ hơn, chúng ta sẽ thấy hàng quán người Việt chỉ là ăn uống chứ không có những sinh hoạt mang tính văn hoá nào cả. Về chính trị, VN cũng chẳng có gì đáng tự hào. Nền tảng chính trị VN trước đây (ở miền Bắc) và sau này (cả nước) lệ thuộc vào Tàu và Liên Xô. VN vẫn theo một chủ nghĩa lỗi thời và đã hết sức sống, một chủ nghĩa mà nơi khai sinh ra nó đã khai tử nó hơn 20 năm trước đây. Người Việt chẳng phát kiến được một chủ thuyết chính trị nào, mà chỉ rập khuôn theo chủ nghĩa Mao – Stalin. Không thể nào tự hào khi mà chính quyền ra rả mỗi ngày bảo người dân phải làm gì và giảng giải rằng yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội! Người Úc tự hào vì họ có nền chính trị dân chủ, mà trong đó người dân có tự do thực hiện hoài bảo của mình, và chính phủ không lên lớp dạy bảo người dân phải làm gì hay làm ra sao. Người Mĩ tự hào vì họ có một nền dân chủ ổn định và hào hiệp giúp đỡ nhiều nước khác trên thế giới. Người Việt chúng ta khó mà tự hào như người Úc hay người Mĩ về tiêu chí chính trị. Nhiều người Việt Nam rất tự hào rằng VN đã đánh thắng các đế quốc sừng sỏ nhất như Tàu, Pháp, và Mĩ. Chiến tranh là giải pháp của người thích cơ bắp chứ đâu phải là biện pháp của người thông minh. Vả lại, chiến tranh nhân danh chủ nghĩa và đánh thuê hay đánh dùm cho kẻ khác thì càng chẳng có gì để tự hào. Nhưng để thắng Pháp, thắng Mĩ, thì hàng triệu người Việt phải hi sinh, và đất nước nghèo mạt cho đến ngày hôm nay. Đằng sau những cái vinh quang chiến thắng là biết bao sai lầm và tội ác đã bị che dấu. Người Thái Lan tự hào vì họ tránh được chiến tranh và giữ được hoà bình. Người Nhật chấp nhận đầu hàng trong cuộc chiến quân sự nhưng lại thắng trên trận chiến kinh tế, và họ tự hào điều đó. Tôi nghĩ nếu VN tránh được chiến tranh mới là điều đáng tự hào, chứ chiến tranh –- bất kể thắng hay thua –- thì chẳng có gì đáng tự hào. Làm người hùng vài phút để sau này mang tật suốt đời và rách nát thì rất khó xem đó là niềm tự hào. Thất bại về kinh tế Cho đến nay, dù chiến tranh đã kết thúc gần 40 năm, VN vẫn là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. VN không có bất cứ một tập đoàn kinh tế nào làm ăn thành công; tất cả những “VINA” hoặc là đã thất bại thê thảm, hoặc đang trong tình trạng thoi thóp. Nói đến Hàn Quốc người ta nghĩ đến Samsung, Kia, Hyundai; nói đến Nhật người ta nghĩ đến Toyota, Honda, Mazda, Sony, Panasonic, Toshiba và vô số các thương hiệu khác; còn nói đến VN chúng ta không có bất cứ một thương hiệu nào trên thế giới. Đến một cây kim, vít ốc, VN vẫn chưa sản xuất đạt chất lượng. Trước 1975 ở miền Bắc cuộc Cải cách ruộng đất đã để lại nhiều “di sản” tiêu cực cho nền kinh tế nông nghiệp. Trước 1975, có thể nói kinh tế miền Bắc không đáng kể, trong khi kinh tế miền Nam phát triển khá, tuy chưa bằng Hàn Quốc nhưng cũng tương đương hay xấp xỉ các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng sau 1975, với chính sách cải tạo công thương và hợp tác xã nông nghiệp đã dẫn đến tình trạng suy sụp kinh tế, sản lượng nông nghiệp suy giảm thê thảm, và đời sống người dân vô cùng khốn khó một thời gian dài. Gần đây, một loạt tập đoàn kinh tế bị sụp đỗ đã gây thiệt hại đáng kể cho kinh tế nước nhà. Ngay cả hiện nay, mỗi năm có gần 50 ngàn doanh nghiệp đóng cửa. Có thể nói không ngoa rằng trong suốt 70 năm qua, kinh tế VN đi từ thất bại này đến thất bại khác. Bất cứ so sánh nào cũng khập khiễng, nhưng cần phải nhắc lại yếu tố thời gian rằng nước Nhật chỉ cần 20 năm là đạt được trình độ phát triển của các nước Âu Mĩ, Hàn Quốc cũng chỉ mất 20 năm để vươn mình thành một quốc gia tiên tiến, và gần nhất là Singapore cũng chỉ mất khoảng thời gian đó đến đưa thu nhập bình quân đầu người lên con số 55182 USD. Còn ở VN, thu nhập đầu người đến nay vẫn chưa đạt con số 2000 USD. VN cơ bản vẫn là một nước nghèo. Theo World Bank, tỉ lệ nghèo ở VN tuy có cản tiến, nhưng vẫn ở mức ~21%. Ấy thế mà chính quyền VN thì tuyên bố rằng tỉ lệ nghèo chỉ 7%! Cái nghèo ở VN phải nói thật là thê thảm. Báo chí hôm qua mới đưa tin một em bé học sinh vì quá đói nên đã chết trên đường từ trường về nhà. Trước đó, một bà mẹ và 3 con đã vào rừng treo cổ tự tử vì nghèo đói. Ở miền Tây Nam bộ, một bà mẹ tự tử chết để người đi phúng điếu và lấy tiền đó nuôi con ăn học. Chưa bao giờ trong lịch sử VN có những trường hợp thương tâm như thế. Trong khi đó, có những đại gia bỏ ra hàng tỉ đồng để xây nhà cho chó mèo ở, có những người “đày tớ của nhân dân” sẵn tay vung tiền xây lâu đài, biệt thự cá nhân. Người Việt nào có thể nào tự hào khi đất nước có quá nhiều người nghèo như thế? Giáo dục và khoa học làng nhàng Những con số thống kê cho thấy người Việt Nam thiếu tính sáng tạo. Số bằng sáng chế đăng kí mỗi năm chỉ đếm đầu ngón tay và cũng chủ yếu do các công ti nước ngoài làm. Có năm VN chẳng có bằng sáng chế nào được đăng kí với nước ngoài. Số bài báo khoa học của VN trên các tập san ISI hiện nay chỉ khoảng 2000, chưa bằng số bài báo của một đại học lớn ở Singapore, Mã Lai, Thái Lan. Phần lớn (~80%) những bài báo khoa học của VN là do các nhà khoa học nước ngoài chủ trì hay giúp đỡ. Người VN thường hay tự hào rằng VN có những người thợ khéo tay. Nhưng trong thực tế thì không phải vậy. Sự tinh xảo của người Việt chúng ta rất kém. Một người Pháp tên là Henri Oger (3) từng nhận xét về người Việt vào đầu thế kỉ 20 như sau: “Thợ thủ công An Nam cũng bị nhận xét là kĩ thuật sơ sài, không được giảng dạy đầy đủ về nghề nghiệp, thiếu sáng tạo, không có những phẩm chất đã khiến cho người thợ ở châu Âu trở thành nghệ sĩ.” Làm ẩu. Kĩ thuật sơ sài. Thiếu huấn luyện. Thiếu sáng tạo. Tất cả những nhận xét đó đều đúng. Không khó khăn gì để có thể đi tìm những bằng chứng thực tế làm cơ sở cho những nhận xét đó. Gần đây khi công ti thời trang Hermes muốn làm một cái cổng cho cửa hàng ở Hà Nội mà hết 5 đợt thợ VN làm đều không đạt, và cuối cùng họ phải nhờ đến một nhóm thợ từ Pháp sang để làm. Tôi đi qua cây cầu Nhơn Hội nhìn từ xa rất hoành tráng ở Qui Nhơn, nhưng đi trên cầu mới thấy họ làm rất ẩu, thô, và có khi nguy hiểm. Ngay cả cây cầu Rạch Miễu mới rầm rộ khánh thành cũng có nhiều vấn đề kĩ thuật, và cũng rất thô. Nhìn gần những tấm hình kí giả chụp trên cầu Rạch Miễu mới thấy cách làm của ta rất … hỡi ôi. Hình như người mình không có thói quen xem xét đến chi tiết, mà chỉ làm chung chung hay làm cho có mà thôi. Nhiều công trình của Việt Nam chỉ làm hình như nhằm mục tiêu khoe là “ta làm được”, rồi dừng ở đó, chứ không đi xa hơn. Thật ra, ngay cả “ta làm được” cũng không hẳn là làm được. Điều này rất tương phản với người Tây phương, những người mà khi làm cái gì họ cũng tính toán cẩn thận, xem xét từng chi tiết nhỏ, đánh giá lợi và hại một cách khách quan, v.v., cho nên khi công trình hoàn tất nó thường có chất lượng cao và lâu bền. Việt Nam ta nổi tiếng làm gia công quần áo cho các công ti Tây phương. Quần áo họ gia công đẹp, và khi ra ngoài này, thường bán với giá rất cao. Nhưng còn hàng trong nước cũng do những công ti gia công đó làm với nhãn hiệu “chất lượng cao” thì sao? Nói ngắn gọn là chất lượng thấp thì đúng hơn. Họ cũng bắt chước may những cái cáo sơ mi hiệu Polo, Nautica, Tommy Hilfiger, v.v., nhưng nhìn kĩ thì họ bắt chước rất kém. Chỉ nhìn qua đường chỉ là thấy họ làm ẩu. Nhìn qua cách họ làm logo cũng dễ dàng thấy đây là đồ dỏm, bắt chước. Người Tàu cũng làm hàng nhái, nhưng họ nhái giỏi hơn người Việt. Hàng nhái của Tàu lợi hại đến nổi chúng ta khó nhận ra thật và giả. Còn hàng nhái của Việt Nam thì còn quá kém. Làm hàng nhái mà còn làm không xong thì chúng ta khó mà nói đến chuyện lớn được. Do đó, có thể nói rằng người Việt thiếu tính sáng tạo, không tinh xảo và không khéo tay. Chẳng có gì đáng tự hào về giáo dục và khoa học. Có người lấy những tấm huy chương Olympic ra để tự hào rằng người Việt cũng thông minh chẳng kém ai, nhưng họ quên rằng đó chỉ là những con “gà chọi” chứ không hề đại diện cho đám đông dân số VN. Lại có người thấy người Việt thành công ở nước ngoài và nhận bừa đó là minh chứng cho sự thông minh của người Việt, nhưng họ quên rằng những người đó do nước ngoài đào tạo, chứ chẳng dính dáng gì đến VN. Kiểu “thấy người sang bắt quàng làm họ” như thế và kiểu lấy những tấm huy chương đó để tự hào là một sự ấu trĩ. Xã hội bất an Sẽ không quá đáng nếu nói rằng VN ngày nay là một xã hội bất an.  Ở trên, tôi có nói người Việt chuộng bạo lực, và sự “ưa chuộng” đó thể hiện rất rõ trong thời bình. Tôi không rõ thống kê về tội phạm ở VN so với các nước khác ra sao (vì VN không công bố tỉ lệ này), nhưng vài số liệu gần đây cho thấy tình hình tội phạm càng ngày càng gia tăng. Trong thời gian 1992-1994, mỗi năm trung bình có 26344 vụ án hình sự được đưa ra xét xử ở toà; đến năm 2006-2008 thì con số này là 65761 vụ (4), một tỉ lệ tăng gần 2.5 lần! Đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm giết người. Mỗi năm số vụ tội phạm giết người là hơn 1000 vụ và đang có dấu hiệu gia tăng trong thời gian gần đây. Chưa nơi nào có những vụ giết người vô cớ như ở VN: chỉ một cái nhìn cũng có thể dẫn đến cái chết! Vẫn theo thống kê, trong các vụ án giết người, giết người do nguyên nhân xã hội chiếm 90%, phần còn lại là chiếm đoạt tài sản (10%). Một trong những tội phạm đang kinh tởm nhất là buôn bán phụ nữ và trẻ em, và VN đứng khá cao trong loại tội phạm này. Số liệu thống kê từ năm 1998 đến 2006 cho thấy lực lượng chức năng đã phát hiện khoảng 5000 phụ nữ và trẻ em bị buôn bán!  Chưa hết, tội phạm cưỡng hiếp phụ nữ ở Việt Nam cũng có hạng trên thế giới. Theo một thống kê gần đây, VN ở hạng thứ 9 về tỉ lệ tội phạm và nạn nhân bị cưỡng hiếp thấp (5). Singapore đứng đầu bảng về an toàn cho phụ nữ. Việt Nam là nước tìm kiếm “sex” trên Google nhiều nhất thế giới (6). Thử hỏi, chúng ta có thể tự hào với thứ hạng như thế? Đó là chưa kể một loại buôn bán phụ nữ khác được quảng cáo ở các nước như Tàu, Đài Loan, Singapore và Đại Hàn. Chưa bao giờ người Việt Nam chịu nhục khi con gái VN được cho đứng trong lồng kiếng như là những món hàng để người ta qua lại ngắm nghía và trả giá!  Thử hỏi, có người Việt Nam nào tự hào được khi đồng hương mình bị đem ra rao bán như thế. Xin đừng nói đó là những trường hợp cá biệt; đó là tín hiệu cho thấy một đất nước đang bị suy đồi về đạo đức xã hội. Ở VN, bước ra đường là chấp nhận rủi ro tai nạn, thậm chí chết vì sự hỗn loạn của hệ thống giao thông. Thật vậy, tai nạn giao thông ở VN đã và đang trở thành nỗi kinh hoàng của không chỉ người dân địa phương mà còn ở du khách. Năm 2013 cả nước xảy ra 31,266 vụ tai nạn giao thông, làm chết 9805 người và bị thương 32,266 người (7). Con số này tăng hàng năm. Số tử vong vì tai nạn giao thông thậm chí còn cao hơn số tử vong trong thời chiến! Phong cảnh thiên nhiên và môi trường xuống cấp trầm trọng Một trong những yếu tố làm cho người Nhật tự hào và người Úc cảm thấy may mắn là đất nước của họ có môi trường sạch sẽ và cảnh quang thiên nhiên xinh đẹp. Còn Việt Nam, khách quan mà nói không có những cảnh quang thiên nhiên hùng vĩ như Mĩ hay Úc, không có một môi trường xanh tươi và vệ sinh như Nhật. Ngoài ra, điều kiện khí hậu nhiệt đới rất khắc nghiệt, làm cho con người dễ bị uể oải và ảnh hưởng đến năng suất làm việc. Việt Nam là một trong những nước có mật độ dân số cao nhất thế giới. Với sức ép của sự tăng trưởng dân số, môi sinh đang bị đe doạ nghiêm trọng. Nếu chỉ tính những con sông dài hơn 10 km, VN có gần 2400 con sống, và đó là một tài sản quốc gia, một nguồn tài nguyên rất lớn. Nhưng hiện nay, phần lớn những con sông đó đang chết. Hầu hết những con sông chảy qua thành thị đều bị ô nhiễm nặng nề. Còn những con sông nhỏ ở vùng quê đang trở thành những thùng rác khổng lồ. Tất cả gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và sinh hoạt của người dân. Việt Nam cũng không có những đền đài lịch sử hoành tráng hay tinh tế như China, Ấn Độ, Nhật Bản, Kampuchea. Nhiều đền đài, chùa chiềng, bia miếu ở ngoài Bắc đã bị tiêu huỷ trong thời “Cải cách ruộng đất”, và sau này là chiến tranh. Ngay cả những đền đài còn “sống sót” cũng không được trùng tu và bảo trì nên càng ngày càng xuống cấp thê thảm. Người Kampuchea qua bao năm chiến tranh vẫn còn đền Angkor Thom, Angkor Wat để lấy đó làm niềm tự hào. Nhưng Việt Nam nói chung không có những công trình kiến trúc tinh tế và càng không có công trình hoành tráng để người dân có thể lấy đó làm tự hào. Bủn xỉn với cộng đồng thế quốc tế Một nhóm nghiên cứu ở Âu châu gần đây công bố bảng xếp hạng gọi là “Good Country Index” (GCI) đã cho thấy VN đội sổ trong số các nước tử tế trên thế giới. Bảng xếp hạng này cho thấy VN đứng hạng 103 (trong số 124 nước) về đóng góp cho hoà bình và an ninh thế giới. Còn về đóng góp vào các quĩ từ thiện và cung cấp nơi nương tựa cho người tị nạn thì VN đứng hạng 123, tức áp chót! VN không tham gia kí vào các công ước của Liên Hiệp Quốc; tuy nhiên kiểm soát được sự tăng trưởng của dân số. Tính chung, thứ hạng về tử tế của Việt Nam trên thế giới đứng hạng áp chót (124/125). Điều đáng nói hay cũng có thể xem là nhục là thứ hạng tử tế của VN chỉ đứng chung bảng với mấy nước “đầu trâu mặt ngựa” như Lybia, Iraq, Zimbabwe, Yemen (8). Làm sao người Việt Nam có thể tự hào khi đứng chung với những nước đó? Sự bủn xỉn của VN thể hiện rõ nhất qua đóng góp vào quĩ dành cho nạn nhân sóng thần ở Nhật vào năm 2011. Trong đợt đó, VN đóng góp 200,000 USD. Chỉ hai trăm ngàn USD! Chúng ta có thể lí giải rằng VN còn nghèo nên đóng góp như thế là hợp lí. Nhưng lí giải đó có lẽ không thuyết phục. Thái Lan đã giúp nạn nhân sóng thần Nhật 65 triệu USD và 15 ngàn tấn gạo (9). So với tỉ trọng GDP, đóng góp của Thái Lan hơn VN 100 lần. Chúng ta có thể nào tự hào với mức độ đóng góp chỉ có thể mô tả bằng hai chữ “bủn xỉn” đó? Nói tóm lại, đánh giá trên 6 tiêu chí (truyền thống và văn hoá, kinh tế, khoa học-giáo dục, xã hội, phong cảnh thiên nhiên, và sống tử tế với cộng đồng thế giới), VN đều không có gì để lấy làm tự hào. Truyền thống không có gì nổi bậc, văn hoá không có nét gì nổi trội và đáng chú ý, kinh tế thất bại và người dân sống trong nghèo nàn và lạc hậu, không có thành tích gì đáng kể trong khoa học và công nghệ, xã hội bất an, môi trường bị xuống cấp trầm trọng, và cư xử không đẹp với cộng đồng quốc tế. Ngược lại, VN đã và đang là một gánh nặng cho thế giới. Sau 1975, hàng triệu người Việt bỏ nước ra đi và các nước phương Tây đã cung cấp nơi định cư (nhưng VN thì chẳng nhận người tị nạn từ Duy Ngô Nhĩ). VN cũng là nước chuyên xin xỏ: suốt năm này sang năm khác, quan chức VN ngửa tay xin viện trợ từ rất nhiều nước trên thế giới. Xin nhiều đến nỗi có quan chức nước ngoài phàn nàn nói “Sao chúng mày nói là chúng mày rất thông minh và cần cù mà cứ đi xin hoài vậy. Dân xứ tao phải làm lụng vất vã mới có tiền cho chúng mày”. Thật là nhục. Xin người ta thì nhiều mà khi người ta gặp  nạn thì VN chẳng đóng góp bao nhiêu. Nếu không xin thì cũng đi vay. VN bây giờ là một con nợ quốc tế. Nợ ngân hàng thế giới, nợ ngân hàng ADP, nợ đủ thứ ngân hàng và nợ đủ các nước. Chính phủ thì nói nợ công của VN là 54% (10), nhưng các chuyên gia độc lập thì nói con số cao hơn nhiều và ở mức báo động đỏ (tức là sắp vỡ nợ?) (11). Con số có lẽ quá lớn để cảm nhận, các nhà kinh tế học ước tính dùm cho chúng ta: mỗi một đứa trẻ mới ra đời ở VN hiện nay phải gánh một món nợ công 1000 USD. Có người biện minh rằng nợ như thế vẫn kém Mĩ, nước được xem là mắc nợ nhiều. Nhưng xin thưa rằng người giàu sản xuất ra máy bay (như Mĩ) mắc nợ rất khác với người nghèo không làm nổi cây kim và con ốc (như VN) mắc nợ. Đã ăn xin và đi vay mà lại còn tham nhũng và hối lộ. Tham nhũng đã đến mức độ mà những người đứng đầu đảng và Nhà nước xem là “quốc nạn”, là đe doạ đến sự tồn vong của chế độ. Tham nhũng hiện diện ở mọi cấp trong chính quyền. Hầu như đụng đến các cơ quan công quyền, không hối lộ là không làm được việc. Ngay cả quan chức cao cấp (bộ trưởng, thứ trưởng) khi cần làm việc nhà vẫn phải hối lộ. Bổ nhiệm vào các vị trí trong trường học, bệnh viện, cơ quan Nhà nước, v.v. tất cả đều phải hối lộ, phải “chạy”. Nói trắng ra là mua chức quyền. Hối lộ trở thành một văn hoá sống và làm việc ở VN. Tham nhũng đã trở thành một nguồn sống của quan chức và những kẻ có quyền. Không ngạc nhiên khi VN bị Tổ chức Minh bạch Quốc tế xếp hạng tham nhũng hàng 116 trên 177 nước trên thế giới (12). Còn trong quan hệ quốc tế thì nhiều quan chức nước ngoài nhận xét rằng các quan chức VN nói một đường làm một nẻo và có tính lươn lẹo. Điển hình gần đây nhất là vụ đặc phái viên Liên hiệp quốc về tôn giáo đã nói thẳng VN thiếu thành thật. Do đó, không ngạc nhiên khi người VN cầm hộ chiếu VN ra nước ngoài không được chào đón thân thiện như người Nhật, Singapore, Hàn, Thái, Mã Lai, v.v. Một bản tin mới đây cho biết VN đứng hạng 81 về hộ chiếu được chấp nhận trên thế giới, tức miễn visa (13), và thứ hạng này còn thấp hơn cả Lào (80) và Campuchea (79). Tất cả những yếu tố đó cho thấy VN đang ở thế bất lợi trên trường quốc tế và không được cộng đồng quốc tế kính trọng. Nhìn chung, Việt Nam như là một ông già nông dân nghèo khó nhưng thích trang hoàng bề ngoài, đầy sỉ diện nên thích làm anh hùng rơm, thiếu tính sáng tạo và tinh xảo nhưng lại hay khoa trương, và cư xử bủn xỉn hay quen nói láo với hàng xóm. Nếu phải tự hào là người Việt thì có lẽ đó là chuyện của tương lai. Theo FB Nguyễn Văn Tuấn
......

Nội tình cuộc gặp lãnh đạo Trung – Việt tại Thành Đô

Bài sau đây có nguồn gốc từ một trang mạng bán chính thức của Trung Quốc và mang giọng điệu gián tiếp đe dọa sẽ bật mí tất cả trong thời gian tới. Điều này cho thấy nếu Hà Nội không sớm công bố các ký kết bí mật tại Hội Nghị Thành Đô thì Bắc Kinh sẽ ra tay trước và theo hướng có lợi cho họ. Không những thế, Bắc Kinh còn có thể thêm bớt vào các ký kết để thủ lợi tối đa vì không ai ngoài các thủ lãnh CSVN và CSTQ biết bản nào thật, bản nào giả. (BBT-TTĐQ). *****************   Tháng 11 năm 1991, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính thức thăm Trung Quốc, lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung –Việt, từ đó kết thúc trạng thái đối lập trong mối quan hệ giữa hai nước kéo dài tới 13 năm. Cần nói rằng để đạt được mục tiêu ấy, cả hai bên đều đã có những cố gắng lớn, trong đó cuộc gặp Thành Đô tháng 9-1990 giữa người lãnh đạo hai nước có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Nó đánh dấu điểm ngoặt trong mối quan hệ Trung-Việt, không những san bằng con đường bình thường hóa mối quan hệ này mà còn có ảnh hưởng sâu sắc lâu dài tới sự tiếp tục phát triển mối quan hệ hai nước.   Thay đổi chính quyền, quan hệ Trung -Việt xuất hiện tia sáng ban mai   Năm 1975 sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam kết thúc, những người lãnh đạo Việt Nam hồi đó đã không kịp thời hàn gắn các vết thương do chiến tranh mang lại, mà triệt để xa rời đường lối Hồ Chí Minh, đối nội cưỡng chế thi hành cải tạo XHCN quá “tả”, đối ngoại dựa vào sự ủng hộ của Liên Xô, ra sức đẩy mạnh chủ nghĩa bá quyền khu vực, điên cuồng chắp nối lắp ghép “Liên bang Đông Dương”. Dưới sự dẫn dắt của đường lối sai lầm đó, Việt Nam một mặt công khai chống Trung Quốc, một mặt ra sức khống chế Lào, thậm chí phát động xâm lược vũ trang Campuchia. Những việc làm của họ đã đưa nền kinh tế Việt Nam tiến gần tới miệng hố sụp đổ, hoàn cảnh quốc tế bị cô lập chưa từng thấy.   Tháng 7-1986, Tổng Bí thư ĐCSVN Lê Duẩn ốm chết. Tháng 12 cùng năm, tại Đại hội VI ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư Đảng. Trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ những năm 60, Nguyễn Văn Linh là thành viên ban lãnh đạo Trung ương Cục Miền Nam ĐCSVN, từng nhiều lần bí mật thăm Trung Quốc, có thái độ thành khẩn hữu hảo đối với Trung Quốc, rất được Mao Chủ tịch và Thủ tướng Chu Ân Lai đánh giá cao, cho rằng ông là người lãnh đạo kế tục rất có hy vọng của Việt Nam. Nhưng sau khi kháng chiến chống Mỹ kết thúc, Nguyễn Văn Linh không tán thành chính sách đối nội đối ngoại sai lầm của người lãnh đạo đương thời, vì thế ông từng mấy lần bị gạt bỏ. Sau khi lên làm Tổng Bí thư ĐCSVN, Nguyễn Văn Linh khẩn trương uốn nắn toàn bộ cách làm sai lầm của người tiền nhiệm, đề xuất khẩu hiệu Việt Nam cần phải “làm bạn với tất cả các nước”. Ông cho rằng lúc đó Việt Nam có hai nhiệm vụ khẩn thiết nhất là rút quân khỏi Campuchia và cải thiện quan hệ với Trung Quốc. Thế nhưng Bộ Ngoại giao do Nguyễn Cơ Thạch, – một thân tín của Tổng Bí thư tiền nhiệm, Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSVN, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nắm giữ – vẫn tiếp tục hành sự theo tư duy của Lê Duẩn, tìm đủ mọi cách can nhiễu và ngăn cản sự bố trí chiến lược của Nguyễn Văn Linh. Là người lãnh đạo mới lên nắm quyền, Nguyễn Văn Linh chưa có cơ sở vững chắc trong tầng lớp quyết sách ở trung ương; một số ý tưởng của ông cũng chưa được nhiều người lãnh đạo hiểu biết và ủng hộ. Trong tình hình đó, làm thế nào mới có thể thực hiện được mục tiêu nói trên là một vấn đề hóc búa và đau đầu nhưng lại tất phải giải quyết. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc ba lần xin gặp Đặng Tiểu Bình thổ lộ điều bí mật Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản thăm Trung Quốc. Hồi ấy tôi là Trưởng phòng Đông Dương, Vụ Châu Á Bộ Ngoại giao có tham gia công tác tiếp đón. Theo kế hoạch đón tiếp được Trung ương duyệt thì Thủ tướng Lý Bằng sẽ chủ trị hội đàm, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân hội kiến và mở tiệc chiêu đãi loại thường (nguyên văn tiện yến). Nhưng phía Lào tha thiết mong muốn đồng chí Đặng Tiểu Bình có thể hội kiến Cay-xỏn Phôm-vi-hản. Phía Trung Quốc tỏ ý Đặng Tiểu Bình tuổi đã cao, không thể gặp bất cứ khách nước ngoài nào, xin thông cảm. Dù vậy, Cay-xỏn Phôm-vi-hản vẫn kiên trì yêu cầu gặp Đặng Tiểu Bình, tôi nhớ là họ trước sau ba lần đề ra vấn đề này. Trong tình hình đó, qua nhiều lần nghiên cứu, bàn bạc, cuối cùng thỏa thuận mời Đặng Tiểu Bình gặp ngắn gọn có tính nghi lễ. Vì vậy Bộ Ngoại giao cũng không chuẩn bị đề cương chi tiết các điểm chính để tham khảo khi trò chuyện.   Không ngờ hai vị lãnh đạo nói chuyện lâu tới 40 phút, hơn nữa đều nói về những vấn đề có tính thực chất rất quan trọng. Cay-xỏn Phôm-vi-hản thành khẩn thừa nhận trong 10 năm qua mối quan hệ Lào với Trung Quốc ở vào trạng thái không bình thường là do chịu “ảnh hưởng từ bên ngoài”, chuyến thăm Trung Quốc lần này sẽ đánh dấu việc hoàn toàn bình thường hóa quan hệ hai nước. Đồng thời Cay-xỏn Phôm-vi-hản còn chuyển lời hỏi thăm thân thiết của Tổng Bí thư ĐCSVN Nguyễn Văn Linh tới Đặng Tiểu Bình, nói Việt Nam đã có nhận thức mới đối với tình hình Trung Quốc, thái độ đối với Trung Quốc cũng có thay đổi, còn nói Nguyễn Văn Linh hy vọng Trung Quốc có thể mời ông thăm Trung Quốc.   Đặng Tiểu Bình cũng mời Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển hộ lời hỏi thăm Nguyễn Văn Linh và nói: Tôi quen đồng chí Nguyễn Văn Linh từ lâu, tôi biết đồng chí ấy tư duy linh hoạt, rất có lý trí, công tác rất đắc lực, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đồng chí ấy. Tôi mong muốn đồng chí Nguyễn Văn Linh quả quyết giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia. Hiện nay tôi đã già, sắp nghỉ hưu, tôi hy vọng trước khi nghỉ hưu hoặc không lâu sau khi tôi nghỉ hưu, vấn đề Campuchia sẽ có thể được giải quyết, mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam  khôi phục bình thường, như vậy một nỗi băn khoăn (nguyên văn tâm sự) của tôi sẽ được dẹp bỏ. Đặng Tiểu Bình đặc biệt nhấn mạnh Việt Nam phải rút sạch sành sanh quân đội ra khỏi Campuchia. Ông nhờ Cay-xỏn Phôm-vi-hản chuyển những ý kiến đó tới Nguyễn Văn Linh. Ngoài ra Đặng Tiểu Bình còn nói một câu ý vị sâu sắc : “Nguyễn Cơ Thạch, cái người này thích hoạt động lén lút.” Lúc ấy tôi làm công tác ghi chép tại chỗ, cảm thấy câu này dường như buột miệng nói ra, nhưng trọng lượng rất nặng. Theo tôi hiểu, câu nói ấy muốn bảo Nguyễn Văn Linh rằng Trung Quốc đã mất niềm tin với Nguyễn Cơ Thạch, cho dù là giải quyết vấn đề Campuchia hay thực hiện bình thường hóa mối quan hệ Trung – Việt đều không thể hy vọng và dựa vào Nguyễn Cơ Thạch. Nguyễn Văn Linh tiếp Đại sứ Trung Quốc để tỏ ý hữu hảo Cay-xỏn Phôm-vi-hản trên đường về nước có dừng lại ngắn ngày ở Việt Nam, ông đã kịp thời và toàn diện chuyển tới Nguyễn Văn Linh lời nhắn của Đặng Tiểu Bình. Nghe xong, Nguyễn Văn Linh rất coi trọng, càng có hiểu biết thiết thân về “hoạt động lén lút” của Nguyễn Cơ Thạch. Ông hiểu rằng muốn cải thiện quan hệ Việt –Trung trước hết phải giải quyết vấn đề Campuchia, mà giải quyết vấn đề Campuchia như thế nào thì phải bàn với Trung Quốc. Ông còn ý thức được rằng Đặng Tiểu Bình tuy đã gửi lời nhắn nhưng lại không đưa ra lời mời mình thăm Trung Quốc. Trong tình hình đó làm cách nào để thực hiện thăm Trung Quốc là vấn đề ông cần gấp rút giải quyết. Ngày 5-6-1990, qua sự nỗ lực của nhiều bên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã hội kiến Đại sứ Trung Quốc ở Việt Nam Trương Đức Duy tại Nhà khách Trung ương ĐCSVN. Trước tiên Nguyễn Văn Linh nhờ Đại sứ Trương chuyển lời hỏi thăm của ông tới các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân, Lý Bằng. Nguyễn Văn Linh nói, trong thời kỳ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, ông từng nhiều lần đi Trung Quốc, đã gặp Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, các đồng chí Đặng Tiểu Bình v.v… Mao Chủ tịch, Thủ tướng Chu Ân Lai, đồng chí Đặng Tiểu Bình là người cùng thế hệ với Hồ Chủ tịch; Nguyễn Văn Linh là học trò của họ. Trong thời kỳ cách mạng và kháng chiến cũng như trong nhà tù của kẻ địch, ông luôn luôn học tập và nghiên cứu các trước tác của Mao Chủ tịch bàn về cách mạng dân tộc dân chủ, được lợi không ít. Trong thời kỳ Việt Nam chống Pháp, chống Mỹ, Trung Quốc đã viện trợ to lớn cho Việt Nam về mọi mặt, cả đến gạo, bánh quy nén, dưa chua, đều do Trung Quốc giúp. Hơn nữa Trung Quốc cũng giúp Việt Nam rất nhiều về chiến lược và tư tưởng chỉ đạo, thí dụ Việt Nam làm chiến tranh nhân dân là học tư tưởng chiến tranh nhân dân của Mao Chủ tịch rồi vận dụng vào thực tiễn Việt Nam. Có thể nói nếu không có sự viện trợ của Trung Quốc thì Việt Nam không thể đánh bại đế quốc Mỹ. Nguyễn Văn Linh nói, sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, toàn quốc thống nhất, Việt Nam lẽ ra nên tập trung lực lượng xây dựng kinh tế, nhưng đã xuất hiện tình hình khó khăn và phức tạp không ngờ tới, mười mấy năm nay Việt Nam càng gian khổ hơn thời kỳ chống Mỹ, đời sống ngày càng khó khăn, đặc biệt là mối quan hệ Việt –Trung xuất hiện khó khăn. Ông nói rằng Việt Nam đã làm một số việc không tốt với Trung Quốc. Ông luôn chủ trương làm sai thì phải sửa. Mong các đồng chí Trung Quốc thông cảm và bỏ qua những chuyện về mặt này, chuyện đã qua rồi thì để nó qua đi thôi. Việc quan trọng hơn trước mắt là làm tốt mối quan hệ giữa hai nước hiện nay và sau này. Nguyễn Văn Linh nói tình hình quốc tế đang thay đổi mạnh, tình thế ở Đông Âu diễn biến rất phức tạp, tình thế Liên Xô cũng rất nghiêm trọng. Bọn đế quốc dốc sức can thiệp, ra sức làm diễn biến hòa bình, mơ tưởng một lần tiêu diệt chủ nghĩa xã hội. Trước kia mọi người nói Liên Xô là thành trì của hòa bình thế giới, nhưng hiện nay thành trì này đang lung lay. Trung Quốc là một nước lớn, Đảng Trung Quốc là một đảng lớn, lại kiên định đi con đường XHCN. Trong tình hình hiện nay, Trung Quốc có địa vị và tác dụng đặc biệt quan trọng. Chúng tôi cần Trung Quốc giơ ngọn cờ XHCN. Hai nước Việt Nam – Trung Quốc là láng giềng XHCN. Việt Nam là nước nhỏ, Đảng Việt Nam là đảng nhỏ, rất cần có sự ủng hộ và giúp đỡ của một nước lớn, đảng lớn như Trung Quốc. Nguyễn Văn Linh nói đây là lời thực lòng của ông. Nguyễn Văn Linh nói, vấn đề Campuchia dù thế nào cũng phải giải quyết một cách hòa bình, Campuchia trong tương lai không nên thân phương Tây, cũng không được để phương Tây và Liên Hợp Quốc can thiệp quá sâu. Bởi vậy hai phía Việt Nam – Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, từ bên trong thúc đẩy Pol Pot, Ieng Sary hòa giải với Heng Samrin, Hun Sen, đối ngoại vẫn có thể theo con đường thương lượng giữa các bên hiện nay. Ý tưởng gạt bỏ Khmer Đỏ là không thực tế. Nguyễn Văn Linh tỏ ý ông rất muốn gặp mặt các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc cao nhất để trao đổi ý kiến một cách thấu triệt, như anh em với nhau, có thể không câu nệ nghi lễ ngoại giao. Ông nói, kinh nghiệm lịch sử cho thấy người lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp nói chuyện với nhau thì dễ hiểu biết thông cảm lẫn nhau và đạt được nhất trí, cũng có thể giải quyết được nhiều vấn đề quan trọng. Nguyễn Văn Linh còn nói, ông đã nhiều tuổi, muốn trước khi nghỉ hưu có thể bàn bạc cùng với người lãnh đạo Trung Quốc giải quyết xong dứt điểm vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ Việt –Trung.   Khi hội kiến, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng có mặt, nhưng nội dung nói chuyện hoàn toàn khác với luận điệu cũ rích chống Trung Quốc của Nguyễn Cơ Thạch. [Tôi] đoán rằng việc bố trí Nguyễn Cơ Thạch dự hội kiến rất có thể có dụng ý là để ông ta mặt đối mặt nghe xem rốt cuộc Tổng Bí thư nói gì, cũng có thể lúc ấy [Tổng Bí thư] còn có chút hy vọng với ông ta, dành cho ông ta cơ hội thay đổi cách làm việc. Dĩ nhiên cũng chính là do Nguyễn Cơ Thạch có mặt nên Nguyễn Văn Linh chưa nói sâu sắc, thấu triệt hơn.   Sau khi kết thúc cuộc hội kiến, Đại sứ Trương lập tức báo cáo cho bên nhà biết chi tiết nội dung cuộc nói chuyện của Nguyễn Văn Linh và thỉnh thị trong nước có chỉ thị gì. Bên nhà nghiên cứu kỹ rồi nhanh chóng trả lời rằng hãy cứ yêu cầu Việt Nam rút nhanh quân đội ra khỏi Campuchia và giải quyết ổn thỏa vấn đề liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia sau khi rút quân, tức chính quyền Phnom Penh với ba phái lực lượng chống đối, sau đó sẽ từng bước thu xếp suôn sẻ cuộc gặp cấp cao giữa nhà lãnh đạo hai nước. Trong tình hình đó, làm cách nào để phá vỡ thế bí, thực hiện cuộc gặp với lãnh đạo Trung Quốc là vấn đề đòi hỏi Nguyễn Văn Linh suy nghĩ rất lung. Một nhân vật bí ẩn xuất hiện ở Sứ quán cho xem mật thư Sáng ngày 16-8-1990, một cán bộ họ Hoàng của Viện Khoa học xã hội Việt Nam đến trước cổng Đại sứ quán Trung Quốc. Ông nói với nhân viên tiếp đón của Sứ quán là có việc cần gặp Đại sứ Trương. Đại sứ đã tiếp ông này tại phòng khách Sứ quán. Vì Đại sứ Trương thạo tiếng Việt nên hai người nói chuyện không cần phiên dịch. Hoàng nói nhà ông ở gần nhà Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, tối ngày 13/8 Tổng Bí thư cho xe đón ông đến nhà nói chuyện một giờ đồng hồ. Tổng Bí thư nói ông vốn dĩ muốn một lần nữa hẹn gặp Đại sứ Trương nhưng Bộ Ngoại giao ngăn cản, nói là không cần thiết. Vì vậy Tổng Bí thư nhờ Hoàng nhắn miệng tới Đại sứ Trương.   Nói đoạn, Hoàng lấy từ túi áo ra một mảnh giấy viết thư gập lại rất nhỏ và giải thích đây là những điều ông ghi lại lời của Tổng Bí thư, đã được Tổng Bí thư soát lại không có gì sai. Trong đó có đoạn nói : “Tháng 10 năm ngoái, đồng chí Cay-xỏn chuyển tới tôi lời hỏi thăm của đồng chí Đặng Tiểu Bình và lời nhắn miệng nói đồng chí hy vọng trong những năm còn sống được thấy quan hệ Trung Quốc – Việt Nam bình thường hóa, tôi rất hoan nghênh những điều đó. Cũng vậy, tôi tha thiết mong muốn trong nhiệm kỳ tôi chủ trì Trung ương ĐCSVN khóa VI có thể khôi phục quan hệ Việt Nam – Trung Quốc để từ Đại hội VII sắp họp sẽ bắt đầu một giai đoạn mới trong quan hệ giữa hai nước. Làm được việc này tôi mới xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân Việt Nam và đảng viên ĐCSVN dành cho tôi.” “Sở dĩ vấn đề Campuchia – trở ngại ấy cãi nhau mãi chưa thể giải quyết là do Nguyễn Cơ Thạch luôn luôn làm chệch hướng việc này. Tôi cho rằng hiện nay người lãnh đạo hai nước cần phải bàn bạc trực tiếp và đi sâu, nhằm thanh toán hết mọi hiểu lầm và loại bỏ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Tôi tin rằng những người cộng sản chân chính của hai nước đều xuất phát từ hy vọng tha thiết bảo vệ CNXH và khôi phục tình hữu nghị trong sáng chân thành giữa hai nước để tiến hành gặp gỡ, vấn đề Campuchia nhất định có thể nhanh chóng được giải quyết. Nếu các đồng chí Trung Quốc cũng có quan điểm như vậy thì đề nghị gửi lời mời nội bộ, tôi sẽ lập tức bí mật đi Trung Quốc.” “Để việc thảo luận tiến hành được chắc chắn tin cậy, để sau khi về nước tôi có thể thuyết phục có hiệu quả tập thể Ban Chấp hành trung ương và Bộ Chính trị ĐCSVN, tốt nhất nên có hai đồng chí Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng cùng tôi đi Trung Quốc.” “Điểm xuất phát tôi yêu cầu đi thăm Trung Quốc nội bộ là để đích thân thâm nhập nghe ý kiến của các đồng chí Giang Trạch Dân, Đặng Tiểu Bình, Lý Bằng, cũng là để các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc đích thân thâm nhập hiểu rõ cá nhân tôi. Hai bên cùng nhau thành khẩn tìm ra phương án giải quyết tốt nhất một loạt vấn đề, trước hết là vấn đề Campuchia. Trước mắt tôi có khó khăn nhất định nhưng tôi có niềm tin.” “Nếu được các đồng chí Trung Quốc ủng hộ và giúp đỡ, tôi sẽ đi theo đường lối của Hồ Chủ tịch, thuận lợi tiến chắc tới mục tiêu trên phương diện xây dựng tình hữu nghị Việt-Trung tốt đẹp, bảo vệ CNXH và lợi ích cách mạng chung.”   Đỗ Mười mà Nguyễn Văn Linh nhắc tới là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) Việt Nam, Phạm Văn Đồng là cựu Thủ tướng Việt Nam, bấy giờ làm Cố vấn Trung ương Đảng. Hoàng giải thích, ông hiểu ý của Tổng Bí thư là: do Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch ngấm ngầm gây bế tắc, tiến trình Việt Nam – Trung Quốc giải quyết vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ hai nước bị cản trở, bởi thế Tổng Bí thư muốn đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ấy nắm, lãnh đạo cao nhất hai nước trực tiếp gặp nhau, sau khi bàn bạc quyết định vấn đề rồi có thể ra lệnh cho Bộ Ngoại giao quán triệt chấp hành. Tiễn đưa Hoàng xong, việc đầu tiên Đại sứ Trương vội làm là lập tức báo cáo trong nước biết các ý kiến Nguyễn Văn Linh nhờ Hoàng chuyển giúp. Nhưng đồng thời [Đại sứ] cần xem xét một vấn đề là Đại Sứ quán có nên đề xuất với trong nước quan điểm và kiến nghị của mình hay không. Chỗ khó là bên nhà vừa mới trả lời rõ ràng yêu cầu đi thăm nội bộ Trung Quốc do Nguyễn Văn Linh đề ra hôm mồng 5 tháng 6, tức đòi phía Việt Nam trước tiên phải giải quyết vấn đề rút quân khỏi Campuchia và xúc tiến việc thành lập sự liên hợp hai bên đối lập ở Campuchia, rồi mới thu xếp cuộc gặp người lãnh đạo hai nước. Trong tình hình này, nếu lặp lại ý kiến của bên nhà thì coi như không nêu ra kiến nghị nữa; nhưng nếu đưa ra kiến nghị khác với ý kiến bên nhà thì liệu có bị hiểu nhầm là chủ trương ngược lại với trong nước chăng? Vì việc đó, chiều hôm ấy khi vừa bắt đầu giờ làm việc, Đại sứ Trương gọi tôi và hai Bí thư thứ nhất cùng bàn bạc. Qua thảo luận, Đại sứ Trương và chúng tôi nhất trí cho rằng chức trách của Đại Sứ quán là đứng gác cho trong nước, làm tốt nhiệm vụ tham mưu. Phúc đáp lần trước của trong nước rõ ràng là đúng, nhưng hiện giờ xuất hiện tình hình mới, Nguyễn Văn Linh quyết kế đi vòng qua Nguyễn Cơ Thạch để tiến hành bàn bạc chân thành có tính thực chất với người lãnh đạo nước ta; vì vậy Đại Sứ quán nên căn cứ tình hình mới, mạnh dạn nêu ra kiến nghị mới. Thế là Sứ quán trịnh trọng kiến nghị bên nhà tích cực xem xét việc Nguyễn Văn Linh một lần nữa nêu yêu cầu thăm Trung Quốc nội bộ. Đại sứ Trương thi hành diệu kế đến thăm Bộ Quốc phòng Đêm 19 tháng 8, Sứ quán nhận được trả lời của trong nước. Bên nhà chỉ thị Đại sứ Trương tìm cách tránh Bộ Ngoại giao Việt Nam, gặp người tin cậy ở bên cạnh Nguyễn Văn Linh đề xuất Đại sứ muốn sớm gặp riêng Tổng Bí thư để trực diện tìm hiểu ý đồ thật sự của Tổng Bí thư; có kết quả gì lập tức báo cáo trong nước. Không còn nghi ngờ gì nữa, đối với Đại sứ, đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu và vượt trên tất cả mọi nhiệm vụ khác, nhưng chẳng nói cũng rõ mức độ khó khăn của công việc này. 8 giờ sáng ngày 20, Đại sứ Trương triệu tập cuộc họp mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu cách thực hiện chỉ thị của trong nước, nhưng chẳng ai đề ra được kế sách hay nào. Mọi người đều rõ, trong suốt những năm 80, Việt Nam luôn luôn coi Trung Quốc là “kẻ địch trực tiếp nhất, nguy hiểm nhất”, các phương tiện truyền thông như báo chí, đài phát thanh truyền hình đều phát đi những nội dung chống Trung Quốc; trong các buổi chiêu đãi và mọi nghi thức ngoại giao, bất cứ quan chức Việt Nam nào cũng không dám nói chuyện với quan chức ngoại giao Trung Quốc. Trong tình hình như vậy, chưa nói việc chẳng có cách nào tìm gặp được người tin cậy ở bên Nguyễn Văn Linh mà ngay cả chuyện ai là người tin cậy ở bên Tổng Bí thư, cũng không ai biết. Trong tình hình tìm không ra manh mối nào, mọi người không hẹn mà cùng nhớ tới một chuyện. Đó là ngày 6 tháng 6, tức sau hôm Nguyễn Văn Linh gặp Đại sứ Trương, Đại tướng Lê Đức Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam có gặp riêng và mời cơm Đại sứ Trương. Ngoài việc giải thích thêm tinh thần câu chuyện Nguyễn Văn Linh nói hôm mồng 5 ra, Lê Đức Anh còn nói không ít những lời hữu nghị với Trung Quốc. Thế là Đại sứ Trương quyết định thử dùng kênh thông qua Bộ Quốc phòng và Lê Đức Anh xem sao; ông chỉ thị Tùy viên quân sự Sứ quán là Thượng tá Triệu Nhuệ lập tức hành động.   Quả nhiên Đại tướng Lê Đức Anh rất vui lòng gặp Đại sứ Trương. Tám giờ sáng ngày 21, Đại sứ Trương đi một chiếc xe con không cắm quốc kỳ đến Bộ Quốc phòng Việt Nam. Lê Đức Anh thân mật bắt tay, ôm vai Đại sứ Trương và nói Đại sứ muốn gặp ông lúc nào ông đều hoan nghênh cả. Đại sứ Trương đi thẳng ngay vào vấn đề, tóm tắt kể lại một lượt việc hôm trước Hoàng Nhật Tân chuyển tới Đại sứ những lời của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, ngỏ ý bản thân Đại sứ rất muốn trực diện nghe ý kiến của Tổng Bí thư, hy vọng Lê Đức Anh liên hệ giúp. Lê tỏ ý sẽ lập tức làm ngay việc này. Chiều hôm ấy Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh khẩn cấp hẹn gặp Tùy viên quân sự Sứ quán Trung Quốc Triệu Nhuệ và báo cho biết: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh sẽ hội kiến Đại sứ Trương vào 7 giờ 30 tối ngày 22 tại Nhà khách Bộ Quốc phòng, hai bên đều không mang theo phiên dịch viên, kiến nghị Đại sứ Trương đi xe khác, không cắm quốc kỳ. Vũ còn nói việc này chỉ có ông và Trưởng phòng Vũ Tần của Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam biết, những người khác đều không biết. Sau khi về Sứ quán, Tùy viên Triệu lập tức báo cáo Đại sứ Trương. Có những sự việc không hẹn mà gặp nhau. Vợ chồng Đại sứ Trương vốn dĩ đã ấn định 6 giờ 30 tối ngày 22 mời cơm vợ chồng Đại sứ Malaysia, trước đó đã gửi thiếp mời. Để không thất lễ mà lại có thể bảo đảm đúng giờ đi gặp Nguyễn Văn Linh, Đại sứ quyết định giả vờ ốm, để tôi và phu nhân Đại sứ tiếp khách dùng cơm. Tối hôm ấy vợ chồng Đại sứ Malaysia đúng giờ đến Đại Sứ quán. Sau khi vào phòng khách, họ thấy Đại sứ Trương vẻ thiểu não đang ngồi trên ghế được người phiên dịch và nhân viên tiếp tân dìu đứng dậy, mệt nhọc nói : “Xin chào Đại sứ và phu nhân. Rất xin lỗi các ngài là cái bệnh Meniere[2] của tôi lại tái phát, làm cho tôi bị nhức đầu buồn nôn, vì thế tôi chỉ có thể tiếp các ngài được một lúc thôi ạ. Ông Lý, Tham tán Chính trị của Đại Sứ quán và phu nhân của tôi sẽ tiếp ngài Đại sứ và phu nhân dùng cơm.” Nghe nói vậy, Đại sứ Malaysia rất cảm động, ông nói : “Ngài Đại sứ đang đau ốm mà vẫn ra đón khách, chúng tôi thật không phải với ngài. Xin mời Đại sứ về nghỉ ngơi, chúc ngài sớm bình phục.” Nói đoạn, ông thân chinh dìu Đại sứ Trương đứng dậy, hai người bắt tay tạm biệt. Vừa ra khỏi phòng khách, Đại sứ Trương rảo bước đi tới chiếc xe đang chờ sẵn trong sân. Chiếc Toyota màu đen phóng ngay tới Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn Văn Linh bí mật gặp Đại sứ Trương   Khi gặp Đại sứ Trương, trước tiên Nguyễn Văn Linh khẳng định ông đã nhờ Hoàng Nhật Tân là con trai Hoàng Văn Hoan chuyển lời nhắn tới Đại sứ Trương, nội dung cũng chính xác không có gì sai cả. Nguyễn Văn Linh nói bản thân ông trước nay đều cho rằng Việt Nam nên giữ quan hệ tốt với Trung Quốc. Năm 1976, tại Đại hội IV ĐCSVN, vì không đồng ý với một số biện pháp làm xấu mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của chính quyền hồi ấy mà ông bị lên án là “hữu khuynh”. Năm 1982 tại Đại hội V ĐCSVN lại vì ông chủ trương trong giai đoạn hiện nay Việt Nam nên cho phép đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế và không đồng ý với chính sách chống Trung Quốc mà bị chèn ép ra khỏi Bộ Chính trị. Hồi ấy ông rất khó hiểu tại sao lại áp dụng thái độ như vậy với Trung Quốc. Nếu Bác Hồ còn thì nhất định sẽ không xuất hiện những chuyện kỳ quặc như thế. Nguyễn Văn Linh còn nói, chính sách của Việt Nam đối với Hoa kiều và người Hoa cũng sai lầm. Hoa kiều và người Hoa có đóng góp quý giá cho cách mạng Việt Nam, sau khi chiến thắng, Việt Nam lại kỳ thị họ, xua đuổi họ, thật là không có tình có lý. Nguyễn Văn Linh nói, năm 1986, sau khi nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư ĐCSVN ông quyết tâm vượt qua mọi sức cản, từng bước uốn nắn các sai lầm trước đây, khôi phục mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. Trước hết là thuyết phục Trung ương ĐCSVN kiến nghị Quốc hội xóa bỏ các nội dung có liên quan chống Trung Quốc viết trong Hiến pháp. Tiếp đó lại làm các công việc trên nhiều mặt, cuối cùng ra được quyết định rút quân khỏi Campuchia. Nguyễn Văn Linh nói, trong tình hình quốc tế hiện nay, đối với Việt Nam, việc xây dựng, phát triển tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác với Trung Quốc, trung tâm XHCN kiên cường này, rõ ràng là một nhiệm vụ càng quan trọng và bức thiết. Bởi vậy, ông có một nguyện vọng lớn nhất là thực hiện được việc bình thường hóa mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc vào trước Đại hội VII ĐCSVN năm 1991. Đây sẽ là một việc lớn làm phấn chấn lòng người đối với toàn đảng và toàn dân Việt Nam.   Về vấn đề Campuchia, Nguyễn Văn Linh nói ông hiểu rõ tính chất quan trọng và bức thiết của việc giải quyết vấn đề này. Lẽ ra hai bên Việt Nam và Trung Quốc thông qua con đường ngoại giao để bàn bạc giải quyết vấn đề này là tốt nhất và suôn sẻ nhất. Nhưng do Nguyễn Cơ Thạch và Bộ Ngoại giao do ông ta nắm có ý đồ gây rối, hiện nay con đường này rất khó đi. Vì vậy ông nghĩ bản thân ông phải đi Bắc Kinh trực tiếp hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng, cùng bàn bạc phương án giải quyết tốt nhất. Nguyễn Văn Linh nói, trên vấn đề Campuchia, Nguyễn Cơ Thạch có quan điểm không nhất trí với phần lớn các Ủy viên Bộ Chính trị, ông ta luôn luôn làm sai lệch công việc. Nguyễn Văn Linh còn nói, những cuộc gặp cá nhân như cuộc gặp Đại sứ Trương hôm nay không nên quá nhiều. Nếu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân, Thủ tướng Lý Bằng mời ông và Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đi Trung Quốc thì đề nghị Đại sứ Trương trực tiếp đề xuất với Bộ Ngoại giao Việt Nam ý định đồng thời gặp Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, và Chủ tịch Nhà nước Võ Chí Công, trực diện chuyển ý kiến của người lãnh đạo Trung Quốc, làm như vậy sẽ ổn thỏa hơn. Đại sứ Trương cảm ơn Nguyễn Văn Linh đã tiếp và tỏ ý sẽ lập tức báo cáo trong nước biết nội dung cuộc nói chuyện của ông.   Gặp gỡ bí mật Thành Đô   Chiều 28 tháng 8 năm 1990, Sứ quán nhận được chỉ thị của trong nước, đề nghị Đại sứ Trương chuyển lời tới Nguyễn Văn Linh: Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng hoan nghênh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười tiến hành thăm nội bộ Trung Quốc từ ngày 3 đến ngày 4 tháng 9, cũng hoan nghênh Cố vấn Trung ương ĐCSVN Phạm Văn Đồng đồng thời cùng đi. Hiện nay thời cơ giải quyết chính trị vấn đề Campuchia đã chín muồi, hai phía Trung Quốc – Việt Nam cần cùng nhau cố gắng xúc tiến giải quyết thật nhanh vấn đề này và sớm thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung – Việt. Do Á Vận Hội sắp sửa tiến hành tại Bắc Kinh, vì để tiện giữ bí mật, địa điểm hội đàm sẽ thu xếp tại Thành Đô, Tứ Xuyên. Lãnh đạo Trung cộng & Việt cộng tại Thành Đô Lý Bằng & Giang Trạch Dân nâng ly chúc mừng Hội nghị thành công Đại sứ Trương Đức Duy lập tức họp hội nghị mở rộng Đảng ủy Sứ quán nghiên cứu tìm cách nhanh chóng nhất chuyển thông tin quan trọng của trong nước tới Nguyễn Văn Linh. Nhờ đã có kinh nghiệm lần trước nên lần này mọi người ít nhiều đã có chút vững tâm, quyết định vẫn cứ để Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ liên hệ với Bộ Quốc phòng Việt Nam. Thế là 8 giờ sáng ngày 29, một lần nữa Đại sứ Trương gặp Lê Đức Anh, đề nghị ông giúp đỡ thu xếp để Đại sứ Trương trực tiếp báo cáo Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh biết thông tin quan trọng đến từ Bắc Kinh. Một tiếng đồng hồ sau, Trưởng phòng Vũ Tần thuộc Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam hẹn gặp Tùy viên quân sự Triệu Nhuệ, chuyển đạt lời nhắn miệng của Lê Đức Anh nói Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ấn định 4 giờ chiều hôm ấy sẽ cùng Chủ tịch Đỗ Mười tiếp Đại sứ Trương. Để thể hiện cuộc hội kiến này được liên hệ qua kênh chính thức, Tổng Bí thư kiến nghị Đại sứ quán Trung Quốc chính thức nêu yêu cầu với Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, nói rằng Đại sứ Trương có việc khẩn cấp hy vọng được hội kiến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và các đồng chí lãnh đạo Việt Nam khác trong cùng ngày. Căn cứ theo sự gợi ý của Nguyễn Văn Linh, 1 giờ chiều hôm đó Đại sứ Trương đến gặp Phó Trưởng ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Trịnh Ngọc Thái nêu ra yêu cầu nói trên. Qua sự bố trí của Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN, 4 giờ chiều Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười hội kiến Đại sứ Trương tại Phòng khách Trung ương ĐCSVN. Đại sứ Trương chuyển tới Nguyễn và Đỗ ý kiến của Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời hai đồng chí thăm Trung Quốc nội bộ. Nguyễn và Đỗ đều rất vui mừng nhận lời mời, đồng ý với thời gian và địa điểm cuộc gặp do phía Trung Quốc đề xuất và nói sẽ lập tức báo cáo Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN, nhanh chóng xác định danh sách nhân viên đi theo và bắt tay làm công tác chuẩn bị. Nguyễn Văn Linh còn nói, nếu tình hình sức khỏe cho phép thì đồng chí Phạm Văn Đồng cũng sẽ nhất định nhận lời mời cùng đi. Sau khi về Sứ quán, Đại sứ Trương lập tức báo cáo trong nước biết tình hình cuộc gặp chiều nay. Ngày 30, trong nước thông báo cho Sứ quán biết thu xếp lịch trình đại thể của lần gặp gỡ này, đó là: sáng ngày 3 tháng 9, chuyên cơ Việt Nam rời Hà Nội, 1 giờ trưa đến Thành Đô, buổi chiều lãnh đạo hai bên hội đàm, buổi tối phía Trung Quốc mở tiệc chiêu đãi. Sáng ngày 4 tháng 9 tiếp tục hội đàm, buổi chiều chuyên cơ Việt Nam rời Thành Đô về nước. Sau khi thỉnh thị và được trong nước đồng ý, Đại sứ Trương sẽ cùng đáp chuyến chuyên cơ Việt Nam đi Thành Đô và tham gia hội đàm. Sáng ngày 3, tôi đi xe của Đại sứ Trương đến sân bay quốc tế Nội Bài Hà Nội, vừa để tiễn Đại sứ Trương vừa cũng là để tiễn đoàn Nguyễn Văn Linh. Phía Việt Nam tất cả có 15 người đi chuyến này, ngoài Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng ra, các nhân viên chủ yếu cùng đi còn có Chánh Văn phòng Trung ương ĐCSVN Hồng Hà (Ủy viên Trung ương Đảng), Trưởng Ban Đối ngoại Trung ương ĐCSVN Hoàng Bích Sơn (Uỷ viên Trung ương Đảng), Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Đinh Nho Liêm (Uỷ viên Trung ương Đảng), còn lại là các nhân viên công tác. Khi xe của Đại sứ Trương tới gần sân bay thì thấy một xe con kiểu bình thường màu đen chạy sau xe chúng tôi, ngoảnh lại nhìn, vì xe không treo màn cửa nên có thể thấy rõ người ngồi bên trong là Nguyễn Văn Linh, bên cạnh người lái xe có một cán bộ bảo vệ. Có thể thấy Nguyễn Văn Linh vẫn giữ tác phong giản dị như thế của Hồ Chí Minh. Xe chúng tôi lập tức chạy chậm lại nhường đường cho xe Nguyễn Văn Linh. Tại sân bay không làm bất kỳ nghi lễ tiễn đưa nào, đoàn Nguyễn Văn Linh và Đại sứ Trương lên máy bay xong, chuyên cơ liền cất cánh. Sau khi từ Thành Đô trở về, Đại sứ Trương cho chúng tôi biết cuộc gặp lãnh đạo hai nước chủ yếu thảo luận cách giải quyết chính trị vấn đề Campuchia và khôi phục quan hệ bình thường Trung Quốc – Việt Nam. Về vấn đề Campuchia, hai bên chú trọng bàn về thành viên Ủy ban Tối cao cơ quan quyền lực lâm thời Campuchia [SNC], tức phương án phân phối quyền lực sau khi Việt Nam rút quân. Phía Trung Quốc đề xuất Ủy ban này gồm 13 thành viên, ngoài Sihanouk làm Chủ tịch ra, chính quyền Phnompenh cử 6 đại biểu, phía lực lượng chống đối gồm ba phái Campuchia Dân chủ (tức Khmer Đỏ), Ranaridh và Son Sann mỗi phái 2 đại biểu, tổng cộng 6 đại biểu. Nguyễn Văn Linh tỏ ý có thể tiếp thu phương án này của phía Trung Quốc; Đỗ Mười cho rằng bản thân Sihanouk cũng thuộc lực lượng chống đối, như vậy tỷ lệ hai bên là 6 so với 7, phía lực lượng chống đối nhiều hơn 1 ghế, dự đoán phía chính quyền Phnom Penh khó tiếp thu phương án này; Phạm Văn Đồng thì nói phương án của phía Trung Quốc đã không công bằng lại cũng không hợp lý. Cuối cùng phía Việt Nam đồng ý dựa vào phương án của phía Trung Quốc để làm công tác thuyết phục phía Phnom Penh. Về mối quan hệ Trung Quốc – Việt Nam, hai bên đều có thái độ nhìn về phía trước, không rà lại các món nợ cũ. Lãnh đạo hai nước đều đồng ý dựa theo tinh thần “Kết thúc quá khứ, mở ra tương lai” viết một chương mới trong mối quan hệ Trung – Việt. Khi kết thúc cuộc gặp, lãnh đạo hai nước đã ký kết “Biên bản Hội đàm”. Tổng Bí thư Giang Trạch Dân còn ý vị sâu xa trích dẫn hai câu thơ của Giang Vĩnh, nhà thơ đời Thanh: “Độ tận kiếp ba huynh đệ tại, tương kiến nhất tiếu mẫn ân cừu [tạm dịch : Qua kiếp nạn, anh em còn đó. Gặp nhau cười, hết sạch ơn thù]”. Tối hôm ấy Nguyễn Văn Linh xúc động viết bốn câu thơ: “Huynh đệ chi giao số đại truyền, oán hận khoảnh khắc hóa vân yên, tái tương phùng thời tiếu nhan khai, thiên tải tình nghị hựu trùng kiến.”[3] Để bảo đảm cuộc gặp thành công, Tỉnh ủy Tứ Xuyên và Văn phòng Đối ngoại đã làm rất nhiều công việc tổ chức và chuẩn bị. Nghe nói họ đã phải đưa đi nơi khác tất cả các khách trọ ở nhà khách Kim Ngưu, để dành nơi này đón các vị khách Việt Nam ở trong hai ngày hội đàm. Đồng thời hai bên Trung Quốc – Việt Nam thương lượng giữ bí mật về cuộc hội đàm này, không phát bất cứ tin tức nào ra bên ngoài.   16 chữ vàng của mối quan hệ Trung Quốc -Việt Nam Một năm sau cuộc gặp Thành Đô, tháng 11 năm 1991, tân Tổng Bí thư ĐCSVN Đỗ Mười và tân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Trung Quốc. Lãnh đạo hai nước ra Thông cáo chung, tuyên bố thực hiện bình thường hóa quan hệ Trung Quốc – Việt Nam. Tháng 2-1999 lãnh đạo Trung Quốc – Việt Nam ra “Tuyên bố chung” xác định bộ khung phát triển mối quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, nói tóm tắt là 16 chữ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện”. Các quan chức và học giả Việt Nam nói đây là “16 chữ vàng”. Tháng 7 và tháng 11 năm 2005, lãnh đạo cấp cao hai nước Trung Quốc – Việt Nam đi thăm lẫn nhau, làm phong phú hơn nữa nội hàm của “16 chữ”, không ngừng nâng cao mối quan hệ láng giềng hữu hảo và hợp tác toàn diện lên mức độ mới, khiến cho hai quốc gia và nhân dân hai nước mãi mãi làm láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt, đánh dấu mối quan hệ ngoại giao hữu hảo Trung Quốc – Việt Nam được đẩy lên một chặng đường mới. Nguồn: Tạp chí Trung Quốc 《党史纵横》(Đảng sử tung hoành)[4] bản điện tử ngày 26-8-2014. Một bản của bài viết có đăng trên mạng China.com. ————— [1] Tác giả bài viết này có lẽ là Lý Gia Trung, từng 4 lần làm việc ở Đại sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam, lần cuối cùng làm Đại sứ. Lý học tiếng Pháp tại Trung Quốc, tiếng Việt tại ĐH Tổng hợp Hà Nội, là tác giả sách Hồ Chí Minh, một cuộc đời huyền thoại xuất bản năm 2011 ở Trung Quốc (ND). [2] Bệnh Meniere là một rối loạn ở tai trong, gây ra chóng mặt và ù tai (ND). [3] Chúng tôi đoán ông Nguyễn Văn Linh viết 4 câu này bằng tiếng Việt, đây chỉ là lời dịch của phía Trung Quốc “兄弟之交数代传,怨恨顷刻化云烟,再相逢时笑颜开,千载情谊又重建”. Dịch ngược lại tất nhiên không đúng với nguyên văn tiếng Việt. Tạm dịch ý: Tình anh em truyền bao đời, trong khoảnh khắc mọi oán hận tan thành mây khói, khi gặp nhau nở nụ cười, xây đắp lại tình hữu nghị muôn đời (ND). [4] Tạp chí “Đảng sử tung hoành” ra đời năm 1988, do Phòng Nghiên cứu lịch sử đảng của Tỉnh ủy Liêu Ninh, Ban Tổ chức Tỉnh ủy Liêu Ninh, Cục Lão cán bộ Tỉnh ủy Liêu Ninh phụ trách; tạp chí ra hàng tháng, có tính chất tổng hợp và thông tục, được phát hành công khai cho bạn đọc trong và ngoài Trung Quốc. (ND) Nguồn: http://nghiencuuquocte.net/2014/11/07/noi-tinh-cuoc-gap-lanh-dao-trung-viet-tai-thanh-do/
......

Đức Ông ‘Xí Tà tà’ ra tay

Đầu tháng 10 vừa qua trên Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh đăng một bài báo rất đặc biệt ca ngợi ý chí dấn thân cho Giấc Mộng Trung Hoa -  Trung Hoa Mộng, của lãnh tụ số 1 hiện nay là ông Tập Cận Bình, đương kim Tổng bí thư đảng CS Trung Quốc kiêm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa. Điều nổi bật là bài báo gọi ông Tập Cận Bình là ‘ Xi Ta ta ‘, phát âm là Xí Tà tà, chữ Hán là  ‘Tập  Đại đại’, một cách gọi vừa cung kính vừa thân mật, lâu nay rất ít dùng trong xã hội và trên sách báo Trung quốc.   Trước đây dưới thời Mãn Thanh,‘Ta ta – Đại đại ‘ chỉ dùng cho những ông Hoàng được quý trọng nhất trong Triều đình, sát với ngôi Hoàng Đế. Các nhà dịch thuật Việt nam từng dịch Đại đại là ‘Đức Ông’. ‘Xí Ta ta - Tập Đại đại‘ có thể dịch là Đức Ông họ Tập. Trong bài báo nói trên, tên gọi ‘Đức Ông Tập’ được lắp đi lắp lại đến 23 lần. Bài báo ca ngợi ông là nhà lãnh đạo có tư duy chính trị tiên tiến, thấu hiểu nguyện vọng của nhân dân, nhận rõ sự hư hỏng của đảng CS, quyết sắn tay áo dọn dẹp cho đảng sạch sẽ, khôi phục niềm tin của nhân dân, đề cao uy lực của pháp luật và của các cơ quan thi hành luật pháp nghiêm minh, như Ủy ban chính pháp, Ban kỷ luật và thanh tra trung ương, hệ thống Tòa án và Kiểm sát, quyết kiên trì các chiến dịch quét tham nhũng, ‘đả hổ diệt ruồi’, ‘săn sói tháo chạy’, dù cho hàng ngũ đảng có bị chấn động, thu hồi tiền phi pháp trở về cho công quỹ…Ông là người dám hành động, ngay thẳng, kiên cường. Đi cùng với bài của Nhân dân Nhật báo là những bài báo trên báo Xây dựng đảng, Quân Giải phóng nói về cung cách tuyển mộ cán bộ dưới thời Tập Cận Bình (TCB) là hoàn toàn mới mẻ, phải có đức thanh liêm làm đầu,  rồi đến thực tài phải ngang tầm thời đại và thế giới. Không gì tệ hại hơn là chọn những kẻ ham tiền và mê gái như Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang, Lý Đông Sinh, Tưởng Khiết Mẫn … vào cơ quan lãnh đạo. Các bài báo nhắc đến tướng Lưu Nguyên con trai Lưu Thiếu Kỳ như một mẫu mực, là chính ủy Tổng cục Hậu cần mà vẫn ở nhà công cộng, không nhận dinh thự riêng, đi công tác xuống dưới bằng xe ô tô bình dân, không đi xe sang, mang theo xuất ăn riêng, không dự tiệc tùng sang trọng, thường không báo trước, phát biểu luôn gọn, rõ ý, có kiến thức rộng, yêu cầu cao, kỷ luật nghiêm. Tướng Lưu Nguyên vừa được cử là phó bí thư Quân ủy trung ương, nhân vật số 2 cùng TCB thống lĩnh quân đội.   Sau cuộc họp thứ 4 khóa XIII, công khai hạ bệ một nhóm do Chu Vĩnh Khang - vốn được coi là nhân vật bất khả xâm phạm, từng là trùm dầu khí rồi trùm Công an,  cầm đẩu,  nay TCB lại dấn thêm những bước mới, theo hướng mở rộng từng bước chiến dịch ‘đả hổ diệt ruồi,săn sói tháo chạy’ một cách vững chắc. Những bước mới này đã chặt thêm vây cánh của ông Giang Trạch Dân, đồng thời hạ uy tín của ông Giang một cách thê thảm. Đầu tháng 11, báo mạng Weiboscope từ Hông kông phát đi một tin rất nóng, ông Tăng Khánh Hồng, từng là ủy viên thường vụ bộ chính trị đảng CS khóa XVI, phó Chủ tịch nước, anh em kết nghĩa với Chu Vĩnh Khang, cùng con trai là Tăng Vĩ đã bị cấm di chuyển, giam lỏng để điều tra về tội tham nhũng nghiêm trọng tài sản công. Tiền tham nhũng rút ra từ việc cưỡng bức mua lại công ty Lỗ Năng khai thác và kinh doanh than ở Sơn Đông theo kiểu ép giá, giá trị thực là 110 tỷ nhân dân tệ, nhưng chỉ phải trả có 3,3 tỷ. Với số tiền tham nhũng, Tăng Vĩ và vợ là Tưởng Mai đã tậu một biệt thự cực sang ở Sydney – Úc trị giá 250 triệu US$ vào tháng 3 năm 2008. Hiện ngôi nhà này đã bị chính quyền Úc phong tỏa theo đề nghị của phía Trung Quốc. Báo chí Úc cũng xác nhận việc này. Báo chí Hồng Kông cho biết theo tin từ lục địa Trung Quốc, năm 2008 đã có 18 ngàn quan chức Trung quốc mang ra nước ngoài 800 tỷ US$, chủ yếu là ở Hoa Kỳ, Úc, Canada và Liên Âu. Đài VOA cũng đưa tin là trong cuộc họp 21 nước khu vực châu Á Thái bình Dương APEC sắp diễn ra ở Bắc Kinh, ông Tập Cận Bình sẽ yêu cầu các nước giúp chiến dịch ‘ Đả hổ diệt ruồi săn sói tháo chạy’ để bắt giữ, phong tỏa và chuyển giao cho phía Trung Quốc những kẻ phạm tội tham nhũng cùng các loại tài sản phi pháp của chúng.   Một tin động trời hơn nữa cũng vừa phát xuất từ Hông Kông, Mạng Weiboscope  có nguồn tin đáng tin cậy từ Hoa Lục cho biết Bắc Kinh đã bắt đầu phổ biến miệng, kiểu nửa công khai, trong nội bộ đảng CS TQ một số tin tuyệt mật về Giang Trạch Dân. Đó là Giang là con đẻ của một tên Hán gian từng là viên chức cao cấp trong chính quyền Uông Tinh Vệ, tay sai cho phát xít Nhật. Ông nội của Giang Trạch Dân là Giang Thạch Khê thày thuốc Đông y, có 7 người con, 2 chết sớm. Bố đẻ của Giang Trạch Dân là Giang Thế Tuấn, mẹ là Ngô Nguyệt Khang. Giang Thế Tuấn từng làm việc cho chính quyền Uông Tinh Vệ ở Nam Kinh, cộng tác chặt chẽ với Quán Thiên là thứ trưởng bộ tuyên truyền, làm việc dưới trướng của Hồ Lan Thành và Cao Tác Nhân, 2 tên đại Hán gian trong ngành truyền thông thời đó. Con thứ 6 của Giang Thạch Khê là Giang Thế Hầu, còn có tên là Giang Thượng Thanh lại là đảng viên đảng CS Trung quốc từ năm 1928, chết năm 1938 khi 28 tuổi, được coi là liệt sỹ thời chống Nhật. Giang Trạch Dân sinh năm 1925 chỉ kém chú ruột có 15 tuổi. Để tránh tiếng xấu là con tên Hán gian, Giang Trạch Dân khai lý lịch là con của chú ruột là Giang Thượng Thanh, không bao giờ nhắc đến tên bố đẻ là Giang Thế Tuấn. Chuyện khai gian này bị lộ tẩy khi một số nhà sử học và nhà báo muốn viết tiểu sử thật đầy đủ và chân thực của Giang Trạch Dân, đã tiếp cận những người trong họ hàng, bạn bè, đồng hương, đồng học, như bà chị ruột ông là Giang Trạch Phân, em gái ông là Giang Trạch Nam (còn là Trạch Lan), thím ruột ông là Vương Giả Lan (vợ ông Giang Thượng Thanh mà Giang Trạch Dân nhận là bố nuôi), 2 con bà Vương Giả Lan là Giang Trạch Linh và Giang Trạch Tuệ, thì biết bao nhiêu điều phi lý, giả dối hiện ra. Có vẻ như chuyện làm con nuôi của người chú ruột là không có thật vì lúc đó người chú quá trẻ, quá nghèo, không thể nhận ông làm con nuôi, và các trường sang trọng ông theo học không chứnh minh cho điều ấy. Vẫn chưa hết, các bản tin ở Hồng Kông còn đưa tin về con trai Giang Trạch Dân là Giang Miên Khang đã bị khám nhà ngày 20 tháng 8 vừa qua và Giang Miên Khang đã lợi dụng chức quyền của bố để lũng đọan tòan bộ ngành bất động sản Thượng Hải, tập trung trong tay 6 doanh nghiệp quốc doanh nhà đất để kiếm lợi khủng, không giới hạn. Trong khi đó lại có tin hồ sơ điều tra một cuộc đảo chính hụt (đầu năm 2012) nhằm hạ bệ nhóm Hồ Cẩm Đào - Ôn Gia Bảo - Tập Cận Bình – Lý Khắc Cường để đưa nhóm Bạc Hy Lai  lên tiếm quyền, được Chu Vĩnh Khang, Giang Trạch Dân, tướng Từ Tài Hậu tận lực hỗ trợ, có thể đã hoàn tất, một tòa án binh đặc biệt có thể mở ra, nhằm chứng minh cho một thời kỳ mới, cai trị quốc gia theo đúng luật pháp, ‘Y pháp trị quốc’. Có người bảo Bắc Kinh mưa thì Bộ chính trị Hà Nội vội vàng che ô. Công sản Bắc Kinh sổ mũi thì Bộ chính trị Hà Nội hắt hơi. Hà Nội hay làm theo ông anh Hai nay đã thành anh Cả trong đại gia đình CS lớn, nay chỉ còn thưa thớt vài mống lẻ loi. Đế chế tư bản đỏ Chu Vĩnh Khang và Hoàng đế CS Giang Trạch Dân tưởng như bất khả xâm phạm đang lâm đại nạn. Thì ở Việt Nam hàng lọat đại gia tài chính – ngân hàng cũng đã và đang lâm nạn. Một tướng số 2 ngành công an chịu chết để khỏi vào tù một cách nhục nhã. Đế chế tài chính – ngân hàng họ Nguyễn Sinh đang được trình diện, với tài sản khổng lồ vài trăm nghìn tỷ đồng, lớn dần lên theo đà  người cháu trực hệ của bác Hồ này được giao làm Cục trưởng kho bạc, rồi Vụ trưởng ngân sách, rồi lên Thứ trưởng tài chính, rồi Bộ trưởng tài chính, rồi phó Thủ tướng thường trực và nay đang cầm đầu ngành lập pháp. Vụ tài sản khủng này sẽ giải quyết ra sao ? ai giải quyết ? ai giải trình cái tài sản vài trăm nghìn tỷ đồng ấy từ đâu mà ra, từ lao động lương thiện ư ? Và ‘vụ đại án Thành Đô’ đang thành hồ sơ tội phạm bán nước cho ngọai bang.  Danh sách nhóm tội phạm đang hiện ra ngày càng rõ ràng. Có kẻ đã chết, kẻ còn sống. Nhân chứng còn nhiều. Mở ra, không thể đóng lại, ý chí của tìan dân phải được biểu lộ. Trong khi ở TQ họ chống tham nhũng mạnh mẽ đến thế, ngành công an trong sạch hóa để chống tham nhũng, Ban kỷ luật – thanh tra trung ương đảng năng động là thế mà Ban nội chính của đảng CS VN đang tê liệt, Ban kiểm tra trung ương càng liệt hẳn, các thanh tra chính phủ chỉ lo bán chúc tước ăn tiền. Hãy biết giật mình. Người dân nhìn sang TQ, tuy đó không phải là mẫu mực gí hay ho, nhưng ít nhất họ cũng đã dám làm những việc theo hướng tiến lên. Còn ở ta sao lại tệ đến thế ? Bùi Tín
......

Ls. Lê Công Định: Buổi làm việc định kỳ với CA ngày 6-11-2014

Sáng hôm qua tôi đến phường trình diện định kỳ hàng tháng theo luật về quản chế. Có đến 8 người cùng làm việc với tôi, trong đó 6 người là sĩ quan công an. Buổi làm việc tập trung vào các bài viết đăng trên trang FB của tôi. Đầu tiên, tôi được yêu cầu ký tên vào các bản in sẵn, nhưng tất nhiên tôi từ chối với lý do rằng FB là một trang công khai để mọi người bày tỏ suy nghĩ và cảm xúc, ai thích vẫn có quyền đọc và bình luận, và đó không phải là một tài liệu phạm pháp để có thể bị áp dụng những biện pháp có tính cách tố tụng hình sự. Một câu hỏi được nêu ra thường xuyên đối với mỗi bài viết của tôi là: “Anh viết bài này với mục đích gì, nhằm truyền đạt điều gì?” Tôi trả lời rằng, "suy nghĩ là suy nghĩ, cảm xúc là cảm xúc, chẳng có mục đích gì, trừ phi các anh suy diễn một mục đích nào đó cho nó, nhưng đó là sự suy diễn của các anh, chứ không phải của tôi." Đến bài viết về cố Tổng thống Ngô Đình Diệm đăng ngày 1/11 vừa qua, một sĩ quan công an nói rằng, “thằng Diệm đã lê máy chém khắp miền Nam để tàn sát đồng bào mà anh ca ngợi nó, lịch sử phải khách quan chứ!” Tôi đáp, “khi tôi viết nền giáo dục ở VN dạy học sinh gọi ông Diệm là thằng, thì có nhiều dư luận viên phản bác, nay anh gọi thế là đủ chứng minh lời tôi rồi. Việc vu cáo ông Diệm lê máy chém chỉ là luận điệu tuyên truyền của nhà nước này.” Một sĩ quan khác nói lại, “vậy cái máy chém đặt ở Nhà trưng bày tội ác chiến tranh là gì?” Tôi đáp, “đó chỉ là công cụ tuyên truyền của các anh, ai làm chẳng được!” Anh ấy lập lại, “khi viết về lịch sử anh phải khách quan.” Tôi gật đầu, “đúng vậy, lịch sử phải khách quan, chứ không phải lịch sử bị tuyên truyền!” Một anh khác hỏi, “tại sao anh viết bài đó, nhằm mục đích gì?” Tôi trả lời, “tôi ngưỡng mộ Tổng thống Ngô Đình Diệm nên kể lại một câu chuyện có thật của tôi trong quá khứ, anh nghĩ tôi có mục đích gì?” Cuộc đối đáp về bài viết nêu trên của tôi dừng lại tại đó. Chuyển sang đề tài khác, nhân tạp chí luatkhoa.org ra đời mà tôi đã chia sẻ với nhiều bạn đọc, một anh sĩ quan hỏi tôi, “anh có định lập đại học luật online như có người đề nghị hay không?” Tôi đáp, “tôi vẫn suy nghĩ về điều đó vì đấy là ước mơ của tôi từ rất lâu.” Quả thật, tôi có thích làm chính trị đâu, từ thuở niên thiếu tôi đã muốn trở thành một giáo sư đại học để nghiên cứu và giảng dạy những đề tài học thuật mình yêu thích mà thôi. Chính biến cố bắt giam tôi ngày 13/6/2009 đã đẩy tôi vào con đường chính trị một cách bất đắc dĩ. Âu cũng là định mệnh! Nhìn chung, buổi làm việc vui vẻ dù hơi dài dòng, các anh nhân viên công quyền đều hành xử tử tế và đàng hoàng đối với tôi như mọi khi. Chúng tôi trao đổi thẳng thắn với nhau nhiều vấn đề. Tôi luôn tôn trọng chức trách mà các anh đảm nhận, ngoại trừ những đòi hỏi vượt khỏi nguyên tắc của tôi. Mỗi tháng tôi đều phải gặp các anh như những “người thân”, mà thân ai người đó lo! Theo FB Lê Công Định
......

Bắc Kinh gởi ông Nguyễn Phú Trọng đi Hàn Quốc

Bắc Kinh nói chung và cá nhân Chủ tịch Tập Cận Bình nói riêng đã thực sự tức điên người với Kim Chính Ân - lãnh tụ tối cao của Bắc Hàn. Hàng loạt những hành động được xem là từ chặt rễ đến bạt tai Bắc Kinh thẳng thừng đã được guồng máy tuyên truyền Bắc Triều Tiên xì ra khắp thế giới: -    Khởi đi bằng việc xử tử người dượng kiêm cố vấn tối cao Trương Thành Trạch, một người được xem là gạch nối chính giữa Bắc Kinh và Bình Nhưỡng từ thời Kim Chính Nhật - bố của Kim Chính Ân. -    Tiếp sau đó là màn xử tử mấy chục người thân cận và dưới quyền ông Trạch để chặt mọi gốc rễ mà Kim Chính Ân cho là mạng lưới của Bắc Kinh ở thượng tầng Bắc Hàn. -    Tướng Choe Ryong-hae, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Triều Tiên, người được xem rất thân với Bắc Kinh, bị thanh trừng kế tiếp. -    Trong 40 ngày "nghỉ dưỡng bệnh" vừa qua, ông Kim Chính Ân diệt thêm ít là 12 cán bộ cao cấp khác thuộc phe thân Tàu mà báo đài Bắc Hàn gọi là "như Trương Thành Trạch".   -    Ông Kim Chính Ân, vào tháng 4.2014, còn dám lôi cái học thuyết mang tính quốc sách tối cao của ông Tập Cận Bình - có tên là "Giấc mơ Trung Quốc" và được xếp ngang hàng với thuyết "Ba Đại Diện" của Giang Trạch Dân và thuyết "Xã Hội Hài Hòa" của Hồ Cẩm Đào ra diễu cợt. Trong một sắc lệnh chỉ thị mọi cấp phải từ bỏ "Giấc mơ Trung Quốc", ông Ân viết: “Trước đây, Trung Quốc là một người bạn cách mạng của Triều Tiên… Nhưng ngày nay, Trung Quốc đã trở nên ích kỷ, theo đuổi cải cách và mở cửa, bởi thế đặt các giá trị vật chất lên trên ý thức hệ”. Tuy mất mặt với tập thể đảng viên CSTQ, ông Tập Cận Bình không còn nhiều vũ khí để trả đũa Bắc Hàn vì các khoản viện trợ đã cắt gần hết trong những năm qua khi bảo Bình Nhưỡng không nghe, và nay hệ thống thái thú đã cài đặt cũng bật rễ gần hết và phần còn lại phải chui sâu trốn kỹ. Cách trả thù duy nhất còn sót lại là: ông Tập Cận Bình từ khi lên ngôi chưa hề đến Bắc Hàn nhưng lại đi thăm chính thức Nam Hàn, kẻ thù không đội trời chung của Bình Nhưỡng, vào tháng 7.2014. Liền sau chuyến đi đó, ông Kim Chính Ân chính thức cho mọi cấp cán bộ, quan chức học tập: “Nhật Bản chỉ là kẻ thù trăm năm, Trung Quốc mới là kẻ thù nghìn năm” của nhân dân Triều Tiên. Thấy đòn này đủ để làm Kim Chính Ân tức giận, ông Tập Cận Bình nhấn tiếp để cho Bình Nhưỡng thấy rằng cả các "nước XHCN anh em" - những đồng minh cuối cùng của Bình Nhưỡng - cũng sẽ xa lánh họ theo lệnh của Bắc Kinh. Và đó là lý do TBT Nguyễn Phú Trọng đi thăm Nam Hàn vào đầu tháng 10.2014 với những lời phê phán Bình Nhưỡng thậm tệ. Dĩ nhiên, đối với Nam Hàn, mọi kẻ thù của kẻ thù đều là bạn. Hơn thế nữa Nam Hàn hiện không có các tranh chấp trên biển với Trung Quốc như Nhật Bản; Nam Hàn đang làm ăn buôn bán suông sẻ với Bắc Kinh; và trên hết, Nam Hàn muốn Bắc Kinh và Bình Nhưỡng thù nhau càng nhiều càng tốt và họ hiểu ông Trọng là người đi nói thông điệp cho Bắc Kinh. Thế là Hán Thành đón rước ông Nguyễn Phú Trọng rất trọng thể tuy hoàn toàn sai với nghi thức lễ tân. Ông Trọng đại diện một đảng chính trị, dù là đảng cầm quyền, nhưng không có vai trò đại diện quốc gia. Vai trò đại diện đó phải là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang hay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Xem ra hiện nay đối với Bắc Kinh, ông Trọng là công cụ đáng tin cậy hơn cả. Nhưng dù tin cậy như thế, Bắc Kinh vẫn cẩn thận gởi tướng Nguyễn Chí Vịnh đi kèm theo. Tướng Vịnh là người từ lâu được xem là sứ thần của Bắc Kinh. Ông luôn xuất hiện vào những lúc dầu sôi lửa bỏng để lên tiếng bào chữa cho Trung Quốc, hoặc tuyên bố quan điểm của Việt Nam quyết không đối đầu với Trung Quốc, hoặc thề hứa "giải quyết triệt để" những hành động phản đối của dân chúng Việt Nam. Nhìn các văn kiện hợp tác đầu tư mà ông Trọng ký kết với Nam Hàn, người ta không chỉ thấy trật khớp mà còn phải đặt câu hỏi liệu chữ ký của ông Trọng có giá trị gì không vì ông hoàn toàn không có thẩm quyền để ký. Tuy nhiên, có người cho rằng các văn kiện đó chỉ thuộc loại hứa hẹn nếu làm được thì quí, không thì thôi. Do đó, chúng chỉ cung cấp lý cớ cho chuyến đi mà thôi.   Các văn kiện mà tướng Nguyễn Chí Vịnh ký cũng thuộc loại vớ vẩn, chẳng hạn như bản giác thư, tức biên bản ghi nhớ, giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam và Cơ quan Quản lý Chương trình mua sắm Quốc phòng Hàn Quốc về đảm bảo chất lượng nhà nước đối với sản phẩm và dịch vụ quốc phòng. Rõ ràng sứ mạng của ông Trọng (và ông Vĩnh) trong cả chuyến đi chẳng dính dáng gì đến Việt Nam cả. Công việc chính của ông Trọng, sau bao năm ca ngợi chế độ Bắc Hàn và tình hữu nghị anh em XHCN Hàn-Việt, là nói cho được câu phát biểu nẩy lửa: Bắc Triều Tiên sở hữu vũ khí hạt nhân là điều không thể dung thứ. Ngay cả Nam Hàn cũng không nói mạnh được tới mức độ của TBT Trọng. Trong bản thông báo chung họ chỉ viết: "Hàn Quốc thể hiện lo ngại sâu sắc về sự đe dọa tiến hành vụ thử hạt nhân mới và các vụ phóng tên lửa đạn đạo gần đây của CHDCND Triều Tiên...".   Nhưng nếu nói cho công bằng, chuyến đi này không chỉ là ý muốn của Bắc Kinh mà còn phù hợp với nhu cầu của ông Trọng hiện nay. Cuộc chạy đua ráo riết vào chiếc ghế Tổng Bí Thư Đại Hội XII đã bắt đầu. Tuy vào đầu năm 2011, khi lên nắm chức Tổng bí thư, công luận nói chung đều nghĩ rằng ông Trọng chỉ nắm giữ ghế này tối đa 1 nhiệm kỳ vì phải đến tuổi nghỉ hưu. Có người còn cho rằng chỉ đến giữa nhiệm kỳ là hết. Nhưng, nhiều chỉ dấu cho thấy ông Trọng rất muốn giữ vai trò TBT thêm 5 năm nữa và cũng đã khởi động nỗ lực vận động của riêng ông trong thời gian qua, đặc biệt là những hứa hẹn không điều tra tham nhũng trong hàng ngũ cán bộ đảng viên (không đập chuột để giữ bình quí). Trong quá khứ, đã từng có tiền lệ trong một số Đại Hội đảng CSVN: miễn luật giới hạn tuổi tác cho các "vị trí đặc biệt". Bắc Kinh, nhiều phần, cũng muốn như vậy. Theo Diễn Đàn CTM
......

Thân và thù tướng Giáp lại đang nổi lên

Thấm thoát đã hơn một năm trôi qua. Tháng 10 vừa rồi đánh dấu 1 năm tướng Võ Nguyên Giáp qua đời. Rất nhiều người, đặc biệt là dân Hà Nội và các cựu bộ đội, còn sôi sục bực tức về thái độ và cách hành xử của giới lãnh đạo đảng đối với tang lễ của ông. Một thái độ mà họ cho là giả nhân giả nghĩa. Lãnh đạo đảng chính thức gọi là "quốc tang" và lãnh đạo Hà Nội cũng xì xụp vái lạy nhưng đoàn xe tang chưa ra khỏi ranh giới Hà Nội, chưa tới cả sân bay Nội Bài, thì cờ tang và mọi thứ liên hệ đến tang lễ đều được lệnh phải gỡ xuống lập tức. Lý do đưa ra là để đón tiếp thủ tướng Trung Quốc. Cho đến nay, những vị bất bình vẫn không thể giải thích được tại sao một nước đang có "quốc tang" mà nhà cầm quyền không thể đề nghị hay thỉnh cầu hay ngay cả "lạy lục" khách nước ngoài hoãn giờ đến lại chỉ 24 tiếng để tang lễ được cử hành cho ra hồn. Và ngược lại, nếu biết trước ngày giờ đón khách thì tại sao lãnh đạo đảng không cho tang lễ tướng Giáp diễn ra sớm hơn 24 giờ. Nhiều người được thuyết phục đây là sự cố ý để giới hạn uy tín và ảnh hưởng của tướng Giáp, y như lúc ông còn sống. Có lẽ vì sự ấm ức đó mà trong ngày giỗ đầu vào tháng 10 năm nay, từ sáng sớm đã có nhiều người đến viếng trước nhà dù gia đình tướng Giáp không có kế hoạch tổ chức giỗ đầu cho ông tại nhà. Nhiều người mang hoa đến đành phải để lên một bàn đặt ở phía ngoài. Khi số người đến quá đông, gia đình tướng Giáp quyết định mời mọi người vào viếng bên trong nhà. Nhưng một sự kiện trái ngược khác cũng diễn ra gần như cùng lúc ở Hà Nội. Vào tháng 9.2014, báo chí quảng cáo rầm rộ bộ phim “Sống cùng lịch sử” do nhà nước Việt Nam đổ vào đến 21 tỷ đồng để thực hiện. Vẫn theo làng báo chí công cụ thì cuốn phim được Ban Tuyên Giáo bảo là để ca ngợi chiến thắng Điện Biên Phủ và tướng Giáp. Tuy nhiên, tại cả hai nơi trình chiếu tại Hà Nội, rạp Kim Đồng và Trung tâm Chiếu phim Quốc gia, gần như không một ai đến xem trong suốt mấy tuần liền và cuốn phim đã được nhanh chóng lôi xuống. Có phải vì dân chúng ghét tướng Giáp nên tẩy chay cuốn phim không? Câu trả lời hoàn toàn ngược lại. Một số cựu chiến binh tại Hà Nội cho biết: chính vì muốn bảo vệ thanh danh của tướng Giáp mà mọi người không tham gia vào trò làm phim để bóp méo lịch sử này. Các vị này còn dẫn chứng cuốn phim về vua Lý Thái Tổ lại sặc mùi Trung Cộng trong dịp kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long. Và càng nhớ cái văn thư xua đuổi xe tang tướng Giáp để đón khách Tàu mới năm ngoái, họ hoàn toàn không tin vào ý định "ca ngợi tướng Giáp" của lãnh đạo đảng. Đặc biệt với sự xuất hiện của các cuốn sách Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, Bên Thắng Cuộc của Huy Đức, và gần đây nhất là cuốn Đèn Cù của Trần Đĩnh, ít ai còn không biết tướng Giáp đã bị mấy thế hệ lãnh đạo đảng đẩy ra khỏi chính trường từ giữa thập niên 1960 và liên tục tìm mọi cách làm nhục để hạ uy tín của ông, mà hèn hạ nhất là buộc ông phải nhận chức Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Dân Số và Sinh Đẻ Có Kế Hoạch. Thế là mọi người bảo nhau không đi làm khán giả cho cuốn phim có xác suất cao vừa gian vừa dối đó. Và sự nghi ngờ của họ hóa ra khá chính xác. Vì chỉ vài tuần sau khi cuốn phim được âm thầm cất đi, người ta thấy xuất hiện bức thư của bà Bảy Vân, vợ hai của cố Tổng Bí Thư Lê Duẫn. Nói cách khác, bức thư được phóng ra để làm cái công việc mà cuốn phim đã không làm được. Bà Bảy Vân, hơn 80 tuổi với nét chữ ký run rẩy và đang bị đủ loại bệnh kinh niên, nhưng lại có thể ngồi đánh máy một lá thư dài mười mấy trang với những lời lẽ cay độc để tấn công tướng Giáp, từ việc cố chứng minh ông làm gián điệp cho thực dân Pháp; đến việc tố cáo ông chiếm đoạt nhiều công lao của người khác để thỏa mãn lợi ích cá nhân; đến các dẫn chứng ông là kẻ hèn nhát nhu nhược trong chiến đấu và lãnh đạo;…để đi đến kết luận tướng Giáp là người có tội, và thỉnh cầu lãnh đạo không cho ai được phép gọi ông là "anh hùng dân tộc". Ai cũng biết bức thư ngỏ gởi lãnh đạo này là nỗ lực của cả một phe cánh mà bà Bảy Vân chỉ là mặt tiền. Nhưng câu hỏi là lý do gì khiến nhiều người lo lắng tới độ phải đẩy bà vợ ông Lê Duẫn ra làm vũ khí để bắn hạ uy tín một ông tướng đã chết như thế? Câu trả lời khá rõ và gọn: Đại Hội Đảng XII. Như công luận đang thấy. Cuộc chạy đua vào các ghế thượng tầng lãnh đạo đảng CSVN đã bắt đầu, dù Đại Hội Đảng XII đến tháng 1.2016 mới khai mạc. Các vụ giành giật nhau xuất ngoại - khó giải thích lý do ngoại trừ để gia tăng tư thế cá nhân - đã trở nên quyết liệt:   - Một ông Phạm Quang Nghị, chẳng có vai trò gì trong chính phủ, bỗng nhiên đẩy Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh ra lề để ông sang Mỹ, bất kể ông Minh đã được Ngoại Trưởng Mỹ mời gặp để bàn chuyện Giàn Khoan 981; - Một ông tướng công an Lê Hồng Anh, không ở hàng tứ trụ, bỗng nhiên đại diện toàn đảng sang yết kiến Tập Cận Bình xin "được khai thác chung tại Biển Đông"; - Một tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, không có vai trò gì về kinh tế, lại dẫn một ông thứ trưởng quốc phòng là Nguyễn Chí Vịnh sang Nam Hàn ký kết hợp tác tài chính. Không lẽ để mai mốt phủi nợ với lý do chữ ký không có hiệu lực vì không đúng chức năng? - Một thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn vợ đi Ấn để bắt tay chung chung, và đi Âu chẳng biết để làm gì; - Nhưng đáng kinh ngạc nhất là Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh dắt theo 12 tướng khác sang chầu Bắc Kinh để khẳng định sự thần phục. - Đó là chưa kể những chỉ dấu như ứng viên sáng giá trong những năm trước, ông Nguyễn Bá Thanh, Trưởng Ban nội chính Trung Ương, chấp nhận bỏ cuộc chạy đua từ sớm và cấp tốc xin đi Mỹ chữa bệnh. Một số nguồn tin cho biết ông mắc bịnh ung thư máu vì bị đầu độc bằng chất phóng xạ. Trong cuộc chạy đua quyết liệt trong những tháng tới, đang có nhiều nỗ lực trong hàng ngũ đảng viên muốn chấm dứt chính sách nhu nhược và lệ thuộc vào Bắc Kinh của giới lãnh đạo hiện nay. Họ muốn đề cao lại hình ảnh của tướng Giáp, đặc biệt những cảnh báo của ông về mối họa cho phép công nhân Trung Cộng trá hình lên ’nóc nhà Đông Dương’ và ý đồ xâm lược tiệm tiến của Bắc Kinh. Các đảng viên này cũng muốn đề cao lại vai trò của quân đội trong việc bảo vệ đất nước chống ngoại xâm và sẽ ủng hộ các ứng viên nghiêng về khuynh hướng "Thoát Trung". Hiển nhiên, nhiều nhân vật lãnh đạo hiện nay đang lo sợ hàng ngũ đảng viên sẽ tận dụng hình ảnh và quan điểm của tướng Giáp để làm bộ mặt thân Bắc Kinh của giàn lãnh đạo thêm xấu xí hơn nữa. Nhưng điều họ lo nhất là chính một vài cá nhân đang đứng trong hàng ngũ lãnh đạo hiện nay sẽ xé rào, chiêu dụ hàng ngũ đảng viên, dùng hình ảnh tướng Giáp để lấy điểm cho riêng mình, và quay lại đánh hàng lãnh đạo thượng tầng. Họ cũng sợ sự ngưỡng mộ tướng Giáp sẽ góp phần kích động lại sự sôi sục trong dân chúng về việc mất dần chủ quyền đất nước; sợ thành phần quân đội đang căm hận vì bị lãnh đạo đảng buộc phải quì gối lạy Bắc Triều, mà đau đớn nhất là phái đoàn 13 ông tướng sang quì lạy Bắc Kinh nêu trên, cho báo chí và lãnh đạo Tàu bêu rếu. Hiển nhiên, Bắc Kinh cũng rất lo âu về hiện tượng Võ Nguyên Giáp và sẽ tìm mọi cách triệt hạ các tiếng nói nương theo hình ảnh tướng Giáp kêu gọi thoát Trung. Nhiều người tin rằng một trong những chỉ dấu rất rõ ý đồ của Bắc Kinh là việc Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường cứ nhất định phải đến Việt Nam vào đúng ngày đưa tang tướng Giáp. ooOoo Khác với các lãnh tụ như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, dù đã bị đẩy ra khỏi chính trường cả hơn nửa thế kỷ qua và nay đã quá cố, dấu ấn của tướng Võ Nguyên Giáp trước thềm Đại Hội XII Đảng CSVN vẫn đang càng lúc càng đậm nét ... bất kể sự lo âu và giận dữ của những người lãnh đạo hiện nay.
......

25 tổ chức lên tiếng về bạo hành và tra tấn

Ngày 6/11/2014, 25 tổ chức xã hội  tại Việt Nam lên tiếng về các vụ bạo hành tra tấn gần đây của công an. Điều này khiến người dân ngày càng lo ngại vê nạn công an gia tăng hành xử như côn đồ, hành hung, chửi bới, trấn lột từ thường dân đến các chiến sĩ dân chủ, tra tấn tới chết vô số người bị bắt vào đồn công an. Nhưng rồi chẳng có mấy công an thủ phạm bị nghiêm trị đúng pháp luật. Từ Thừa Thiên – Huế Linh mục Phan Văn Lợi đã đọc bản lên tiếng của 25 tổ chức XHDS, nội dung như sau mời quý vị theo dõi: Bản lên tiếng của 25 tổ chức XHDS     Bản lên tiếng về các vụ bạo hành tra tấn gần đây của công an Việt Nam (Các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam)   Kính gởi - Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước, - Quốc hội và Bộ Công an Việt Nam. - Các Chính phủ dân chủ và các Cơ quan Nhân quyền quốc tế             Ngày 7-11-2013, phái đoàn thường trực của VN tại Liên Hiệp quốc ra thông cáo báo chí cho biết VN đã trở thành thành viên mới nhất của Công ước Liên Hiệp Quốc chống Tra tấn và những hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, hạ nhục phẩm giá con người. Mới đây, ngày 23-10-2014, Chủ tịch nước Việt Nam đã trình Quốc hội phê chuẩn Công ước quốc tế ấy. Thế nhưng, kể từ hôm đó tới nay, đột nhiên bùng phát nhiều hành vi đối xử tàn ác, nhiều hành động tra tấn dã man, hạ nhục nhân phẩm giáng xuống những công dân vô tội do chính lực lượng an ninh thực hiện.             1- Ngày 29-10, cựu tù nhân lương tâm Phạm Bá Hải và tín đồ Hòa Hảo Lê Văn Sóc lên Đà Lạt để thăm một cựu tù nhân chính trị Dương Âu. Cuộc viếng thăm đó đã bị an ninh vào tận nhà can thiệp, sau đó lực lượng này (mặc thường phục) bám theo hai ông rồi đột nhiên xông vào hành hung họ cách dã man tại một ngõ vắng dẫn vào nhà trọ. Kết thúc là màn kịch công an đến giải cứu.             Hôm sau, 30-10, hai ông ra Vinh để viếng thăm ủy lạo một số cá nhân và gia đình tù nhân lương tâm khác, trong đó có anh Chu Mạnh Sơn, Đậu Văn Dương, gia đình Đặng Xuân Diệu... Tuy nhiên, ngay khi vừa xuống sân bay, họ đã bị an ninh vây bắt với lý do (vu cáo) là đã hành hung và cướp giật tài sản một người dân tại Đà Lạt. Ông sĩ quan chỉ huy lực nượng an ninh, đã nhục hình tra tấn anh Phạm Bá Hải qua việc móc mũi giật ngược đầu, dí thuốc cháy đỏ vào cánh tay và lăng nhục anh như tội đồ thực thụ.             Trong khi đó, anh Chu Mạnh Sơn chưa kịp đón hai người bạn thì đã bị bắt đưa về đồn công an xã Nghi Ân và trụ sở huyện Yên Thành. Tại hai nơi đó, anh đã bị các tay an ninh nhục mạ (gọi là đồ chó), đánh đập (với lời hăm dọa đánh cho chết, đánh cho ngu đần). Cuối cùng là bắt anh nộp phạt 2.500.000 đồng (nếu không thì chẳng trả lại xe máy và đồ đạc) vì “tội” vi phạm lệnh quản chế tại địa phương.             2- Ngày 01 và 02-11-2014, hàng trăm côn đồ được công an thuê mướn và chỉ đạo tại chỗ đã ngăn chặn các lối vào nhà nguyện của Hội thánh Tin lành Mennonite tại Mỹ Phước, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương, mục đích là cản trở các tín đồ sinh viên sắc tộc H’Mong và công nhân thuộc khu công nghiệp Mỹ Phước đến thờ phượng thứ bảy và chúa nhật. Cùng lúc, lực lượng phối hợp ấy đã ném gạch đá vào nhà nguyện, xông vào bên trong đánh đập tín đồ, khiến nhiều người trọng thương (nhưng không dám đi bệnh viện cấp cứu) và còn lùng bắt những ai vì hoảng sợ mà bỏ trốn vào các khu rừng lân cận. Các nạn nhân và người dân sở tại đã gọi điện cho công an khu vực và chính quyền địa phương các cấp nhưng họ chẳng hề đến hiện trường để giải quyết và cứu nguy.             Từ lâu, nhà cầm quyền Bình Dương đã muốn xóa sổ cộng đoàn Tin lành (vốn nằm ngoài hệ thống quốc doanh) này và đã nhiều phen sách nhiễu chính vị đứng đầu là Mục sư Nguyễn Hồng Quang, hành hung lẫn cướp bóc nhiều chức sắc chức việc của họ và tàn phá trụ sở của họ (như vụ 76 mục sư nhân sự Tin lành Mennonite bị  sỉ nhục, vu cáo, đánh đập ngày 9/6-12/6/2014 bởi cảnh sát cơ động và cảnh sát 113 tỉnh Bình Dương). Biến cố hôm 01 và 02 là cao điểm (nhưng chưa phải là tận điểm) cho chiến dịch triệt hạ tôn giáo ấy.             3- Tối ngày 2-11-2014, cựu tù nhân lương tâm kiêm nhà báo tự do Trương Minh Đức đã bị một nhóm công an mặc thường phục chặn đường, đuổi bắt rồi đánh đập hết sức tàn nhẫn tại khu vực ngã 3 Suối Giữa (quốc lộ 13, Bình Dương). Ít nhất 8 tay đã tham gia vào cuộc truy sát này trong đó có một trung tá từng bắt giữ trái phép và đánh đập ông Đức trước đó tại nhà riêng ở Bến Cát, Bình Dương. Một số dùng mũ bảo hiểm liên tục đập mạnh vào mặt và đầu nhà báo. Những tên khác tiếp tục đấm đá vào mạn vào sườn. Sau khi đánh cho nạn nhân bất tỉnh, đám công an côn đồ còn cướp sạch những gì ông mang theo, gồm 1 máy tính xách tay, 1 máy tính bảng, 04 thẻ ATM và 600 USD.             Được biết đây là lần thứ ba trong vòng hai tháng, nhà báo Trương Minh Đức bị hành hung bởi những công an côn đồ mà trong cả ba lần đều có sĩ quan hiện diện. Lần nhất vào chiều ngày 08-09-2014 tại khu vực số 63 Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội. Lần hai vào nửa đêm ngày 11-9-2014, tại trụ sở công an thị trấn Mỹ Phước, Bến Cát, Bình Dương.             Từ 3 sự việc tiêu biểu trên đây, các Tổ chức Xã hội dân sự ký tên dưới đây đồng nhận định:             1- Khi phát biểu trước Quốc hội hôm 23-10, ông Trương Tấn Sang nói việc áp dụng Công ước chống Tra tấn của Liên Hiệp Quốc phải phù hợp với pháp luật và hiến pháp của Việt Nam (BBC 24-10-2014). Vậy phải chăng những sự kiện trên đây chính là các phương cách phù hợp hóa mà ông đề cập? Ngoài ra, ông Trần Văn Hằng, Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội, nói việc phê chuẩn Công ước chống Tra tấn là "cơ sở pháp lý quan trọng" để "đấu tranh chống các luận điệu vu cáo, xuyên tạc về việc tra tấn, ngược đãi phạm nhân..." của "các thế lực thù địch chống phá Nhà nước Việt Nam". Vậy những hành vi nghênh ngang tàn nhẫn vừa thấy phải chăng là dàn dựng của các thế lực địch thù?             2- Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa mới sang Italia (18-10) gặp Giáo hoàng Phanxicô để cho biết Nhà nước VN hoàn toàn tôn trọng tự do tôn giáo. Ông cũng vừa đến Ấn Độ (27-10) và tới thăm nơi Đức Phật thành đạo để tỏ ra mình cũng là một kẻ có tín ngưỡng. Vậy những gì ông vừa cho thuộc hạ làm tại giáo xứ Thái Hà (cướp hồ Ba Giang của họ cuối tháng 10 vừa qua), tại nhà và tại nhà nguyện cộng đoàn Tin lành Mennonite Bến Cát như vừa nói phải chăng là cách ông tôn trọng và cổ vũ quyền tự do tôn giáo của dân ông?             3- Toàn dân Việt Nam ngày càng khốn đốn vì đồng tiền mất giá, nợ công oằn lưng (20 triệu/đầu người), môi trường ô nhiễm, y tế tồi tệ, học phí cắt cổ, cán bộ tham nhũng vòi tiền… Nay lại còn phải nơm nớp vì nạn công an ngày càng hành xử như côn đồ và cướp giật: hành hung, trấn lột từ thường dân đến các chiến sĩ dân chủ, tra tấn tới chết vô số người bị bắt vào đồn nhiều khi chỉ vì những chuyện không đâu. Và rồi chẳng có mấy công an thủ phạm bị nghiêm trị đúng pháp luật.             4- Đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam phải hoàn toàn chịu trách nhiệm khi tạo nên những công cụ mù quáng và tàn bạo, chỉ biết “còn đảng còn mình”, những kẻ hoàn toàn mất hẳn lương tâm, bất chấp luật pháp, chỉ biết làm theo lệnh, để mong chúng giúp giữ vững chế độ. Chủ trương thâm độc này chỉ làm dày hồ sơ tội ác và làm dài bản cáo trạng mà một ngày nào đó, nhân dân sẽ đưa ra vừa cho những kẻ chỉ thị vừa cho những kẻ thừa hành mà mặt mũi và tên tuổi đều đang được ghi nhớ.             Làm tại Việt Nam ngày 6 tháng 11 năm 2014             Các tổ chức xã hội dân sự đồng ký tên: 1)      Bach Dang Giang Foundation: Ths. Phạm Bá Hải2)      Bauxite Việt Nam: GS Nguyễn Huệ Chi, GS Phạm Xuân Yêm3)      Cao Trào Nhân Bản: Bs. Nguyễn Đan Quế4)      Con Đường Việt Nam: Ông Trần Văn Huỳnh5)      Diễn Đàn Xã Hội Dân Sự: Ts. Nguyễn Quang A6)      Giáo Hội Cao Đài: CTS Hứa Phi, CTS Nguyễn Kim Lân, CTS Bạch Phụng7)      Giáo Hội Liên Hữu Lutheran VN-HK: MS Nguyễn Hoàng Hoa.8)      Giáo hội Tin Lành Mennonite: MS Nguyễn Hồng Quang, MS Phạm Ngọc Thạch9)      Hiệp hội Đoàn kết Công nông: Ông Nguyễn Mai10)  Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị & Tôn Giáo: Ông Nguyễn Bắc Truyển11)  Hội Anh Em Dân Chủ: Ls. Nguyễn Văn Đài12)  Hội Bảo Vệ Quyền Tự Do Tôn Giáo: Cô Hà Thị Vân13)  Hội Bầu Bí Tương Thân: Ông Nguyễn Lê Hùng14)  Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi15)  Hội Nhà Báo Độc Lập: Ts. Phạm Chí Dũng16)  Hội Phụ nữ Nhân quyền: Cô Huỳnh Thục Vy, Bà Trần Thị Hài, Cô Trần Thúy Nga17)  Hội Thánh Tin Lành Chuồng Bò: MS Nguyễn Mạnh Hùng, MS Lê Quang Du18)  Khối Tự do Dân chủ 8406: Kỹ sư Đỗ Nam Hải.19)  Lao Động Việt: Cô Đỗ Thị Minh Hạnh20)  Mạng Lưới Blogger: Cô Nguyễn Hoàng Vi21)  Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền: Linh mục Nguyễn Hữu Giải22)  Phật Giáo Hòa Hảo Thuần Túy: Cụ Lê Quang Liêm, Phan Tấn Hòa, Tống Văn Chính, Lê Văn Sóc.23)  Phong trào Dân oan Liên kết đấu tranh: Bà Trần Ngọc Anh.24)  Tăng Đoàn GH Phật Giáo VNTN: HT. Thích Không Tánh, TT. Thích Viên Hỷ.25)  Văn phòng Công lý Hòa bình DCCT: Lm Đinh Hữu Thoại. ===============Vietnam civil society organizations condemn the recent violence and torture of public security service To: - The entire Vietnam compatriots at home and abroad, - National Assembly and the Vietnam Ministry of Public Security. - Democratic governments and the International Human Rights Agencies       On Nov 7, 2013, Vietnam permanent mission at the United Nations announced Vietnam was the latest member of the United Nations Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment. Recently, Vietnam President has submitted this convention to Vietnam National Assembly for ratification on Oct 23, 2014. To date, there has been a sudden outbreak of many acts of cruelty, brutal torture, humiliation inflicted upon innocent civilians by the public security forces.              1. On 29 October, former prisoners of conscience Pham Ba Hai and Hoa Hao Buddhist Le Van Soc went to Dalat to visit a former prisoner of conscience Duong Au. There was a security officer sitting next them to interfere. Then this force (plainclothes) followed Mr. Hai and Mr. Soc to near their hotel and suddenly assaulting them brutally in a deserted street. The end of the play is an appearance of a plain clothed policeman coming to rescue.             On the next day 30 October, Mr Hai and Soc took flight to the northern Vinh city (Nghe An province) to visit other former PoC and PoC’s families such as Chu Manh Son, Dau Van Duong, Dang Xuan Dieu. As soon as they got off the plane at the airport, they were rounded up and arrested for a brazenly trumped-up excuse that the duo had assaulted and robbed belongings of a resident in Dalat. During harassment, a high-ranked security officer tortured and used corporal punishment by hooking his nose and jerked upwards; stubbing a burning cigarette on his arm and insulted him as a real criminal.              Meanwhile, former PoC Chu Manh Son he had not picked two friends up yet was arrested and taken to the Nghi An police station and headquarter of Yen Thanh district. At the two places, he was called as “dog” and beaten and threatened beating to death. Finally, they fined him 2,500,000 VND (120 USD) otherwise not returned his motorbike and gadgets) with reason as violating administrative probation.              2. On Nov 1 and 2, 2014, hundreds of police-hired thugs blocked the entrances to the chapel of the Christian Mennonite church at My Phuoc village, Ben Cat District, Binh Duong province aimed at preventing H’Mong believers, students and workers from worshiping on Saturday and Sunday. At the same time, the combined force threw stones, bricks into the chapel and then rushed into the chapel to beat believers. Many injuries had to remain inside the chapel  because they were afraid of going out. Some other believers were hunt when fled into the nearby forest. The victims and residents have phoned the local police and local authorities, but they did not arrive at the scene to solve and rescue.              Binh Duong authorities long want to wipe these unregistered Mennonite Protestants and harassing the head, Pastor Nguyen Hong Quang, assaulting and robbing many dignitaries, breaking down their headquarter such as the incident of 9th and 12th June, 2014 with 76 pastors and followers beaten, slandered. The incident on Nov 1st and 2nd is the climax, but not the end point for the campaign to erase this religion.              3. On the evening of Nov 2, 2014, former prisoner of conscience, freelance journalist Truong Minh Duc on a motorbike was stopped by a group of plainclothed police. He was chased and beaten very brutally at the T-junction Suoi Giua of highway 13, Binh Duong province. Among at least 8 agents involved in the raid there is a lieutenant colonel who illegally detained and beat Mr Duc before at his home in Ben Cat district, Binh Duong province. Some used helmets repeatedly to hit at his head while others kicked on his flank to be unconscious. They took away his all belongings, including ID card, a laptop, a tablet, four ATM cards and 600 US dollars.              With two months, Mr. Duc reportedly was assaulted three times by police-sponsored thugs. The first is at 63 Kham Thien street, Dong Da district, Hanoi on Sep 8, 2014. The second is at midnight of Sep 11, 2014 at the police headquarters of My Phuoc town, Ben Cat district, Binh Duong province.              From the three incidents above, the civil society organizations declare: 1. When taking the floor before Assembly on 23 October, President Truong Tan Sang said adopting United Nations Convention against Torture must conform to the laws and constitution of Vietnam. So the above incidents are the appropriate modes mentioned? In addition, Mr. Tran Van Hang, chairman of the Foreign Affairs Committee of the National Assembly, said the ratification of the UN Convention against Torture is "an important legal basis" to "fight against the false, slandered allegations about torture, mistreatment of prisoners, etc. by "hostile forces against the State of Vietnam". So the acts of ruthless swagger took place were staged by the hostile forces? 2. Prime Minister Nguyen Tan Dung, gone to Italia recently to meet Pope Francis on 18 October, said Vietnam fully respects religious freedom. He had just come to India (27 October) and visited the place that Buddha attained enlightenment to show his having religion. So far what he has ordered for the administration to do in Thai Ha parish as confiscating land of Ba Giang lake in the end of October, and attacking into the chapel of the Mennonite believers are the way he is exercising the respect and promotion for religious freedom? 3. All Vietnamese people are increasingly reeling from currency devaluation, public debt buckling backs (20 million VND per capita), environmental pollution, poor health, exorbitant school fee and corruption, etc. Now people are in the state of suspense because police increasingly behaves like thugs and robbers: assaulting, plundering from civilians to pro-democracy activists, torturing to death countless detainees with undeserving crimes. And then there may have only a few perpetrators severely punished according to law. 4. State and the Communist Party of Vietnam must take full responsibility for creating the blind and brutal tools, just knowing "the party lives on, so I live on”; persons completely lost conscience, despite laws, only knowing how to follow orders to help maintain the regime. The sinister policy only thickens a criminal records and prolongs indictment that one day people will show them to both those who had instructed and who enforce. Their faces and names are being recorded.     Vietnam, November 6, 2014.    The civil society organizations co-signed: 1)      Bach Dang Giang Foundation: Pham Ba Hai (MBE). 2)      Bauxite Việt Nam: Prof. Nguyễn Huệ Chi, Prof. Phạm Xuân Yêm 3)      Non-violent movement: Dr. Nguyễn Đan Quế 4)      Vietnam Path: Mr. Trần Văn Huỳnh 5)      Civil Society Forum: Nguyễn Quang A (Ph.D.) 6)      Cao Dai Church: Mr. Hứa Phi, Mr. Nguyễn Kim Lân, Mrs. Bạch Phụng 7)      Evangelical Lutheran Community Church Vietnam-America: Pastor Nguyễn Hoàng Hoa. 8)      Christian Mennonite Church: Pastor Nguyễn Hồng Quang, Pastor Phạm Ngọc Thạch 9)      Worker Farmer Solidarity Association: Mr. Nguyen Mai 10)  Friendship Association of Political and Religious Prisoners: Nguyễn Bắc Truyển (LLB) 11)  Brotherhood for Democracy: Lawyer Nguyen Van Dai. 12)  Association to Protect Freedom of Religion:Ms. Hà Thị Vân 13)  Gourd and Squash Mutual Association: Mr. Nguyen Le Hung 14)  Former Vietnamese Prisoners of Conscience: Dr. Nguyen Dan Que, Catholic Priest Phan Van Loi. 15)  Independent Journalists Association of Vietnam: Pham Chi Dung (Ph.D.) 16)  Vietnamese Women for Human Rights: Ms.Huynh Thuc Vy, Mrs. Tran Thi Hai, Ms. Tran Thuy Nga 17)  Evangelical Protestant Church: Pastor Nguyễn Mạnh Hùng, Pastor Lê Quang Du 18)  Democracy Bloc 8406: Engineer  Đỗ Nam Hải. 19)  Viet Labors: Ms Đỗ Thị Minh Hạnh 20)  Network of Vietnamese Bloggers: Ms. Nguyen Hoang Vi 21)  Nguyen Kim Dien Group: Catholic Priest Nguyen Huu Giai 22)  Hoa Hao Buddhists Church, Purity: Mr. Lê Quang Liêm, Mr. Phan Tấn Hòa, Mr. Tống Văn Chính, Mr. Lê Văn Sóc. 23)  Oppressed Petitioners Solidarity Movement: Ms. Tran Ngoc Anh 24)  Delegation of Vietnamese United Buddhists Church: Ven. Thich Khong Tanh. Ven. Thich Vien Hy. 25)  Justice and Peace Office of Vietnam Redemptorists: Father Dinh Huu Thoai. *Translation by Trang Thien Long
......

An ninh Tp. HCM tấn công TLS Pháp tại Sài Gòn

  Vào sáng ngày 5/11/2014, công an, an ninh thành phố Sài Gòn đã có một hành động khiêu khích trước nhà trọ của ông Nguyễn Bắc Truyển, cũng là nhà của thân mẫu của giáo sư Phạm Minh Hoàng, ở số 383/6 Bà Hạt, quận 10, Sài Gòn. Sự kiện này đã được sự can thiệp của ông Ông Tổng Lãnh Sự (TLS) Pháp, tuy nhiên công an, an ninh Sài Gòn đã có những hành vi hết sức côn đồ với Ông. hình Ông Emmanuel Ly Batallan, TLS Pháp đang trong nhà thân mẫu chụp hình chung với GS. Hoàng và TNCT Truyển Để hiểu rõ sự việc mời quý thính giả theo dõi phần tường thuật của Giáo sư Phạm Minh Hoàng: Tường thuật của GS. Phạm Minh Hoàng   ***** VRNs – Sài Gòn Ông Emmanuel Ly Batallan, Tổng Lãnh Sự (TLS) Pháp tại Sài gòn đến nhà thân mẫu của giáo sư Phạm Minh Hoàng, ở 383/6 Bà Hạt, quận 10 và đã bị một thanh niên lực lưỡng kẹp cổ kèm với lời nói thách thức: “Tổng thống nào cũng không sợ”. Sự việc được ông Nguyễn Bắc Truyển, cựu tù nhân chính trị, mô tả từ đầu ngày hôm nay (05.11), ba công an đến nơi nhà ông ở trọ, cũng là nhà của thân mẫu giáo sư Phạm Minh Hoàng, cựu tù nhân chính trị, đảng viên Việt Tân, bày bàn ra uống rượu trước cửa nhà. Bà Oanh (phu nhân giáo sư Hoàng) và ông Tuyển yêu cầu họ dọn đi nơi khác nhậu nhẹt thì họ dùng dao đang gọt mận để đe dọa. Người cởi trần đã đe dọa. An ninh bầy bàn ngồi nhậu ngay trước cửa nhà thân mẫu GS. Phạm Minh Hoàng Viên an ninh dùng con dao đang gọt trái cây đe dọa những người trong nhà An ninh ngồi phơi bụng trước nhà dân để đe dọa Gia đình GS. Hoàng phải đóng cửa để tự bảo vệ Sau đó, giáo sư Phạm Minh Hoàng phải đưa Mẹ của đi khám bệnh, vì bà cụ tăng huyết áp khi chứng kiến cảnh an ninh côn đồ đe dọa bằng hung khí những người trong nhà bà cụ. Sự việc an ninh canh cổng không cho ông Truyển ra khỏi nhà như một mệnh lệnh của hệ thống an ninh, vì cùng lúc, tại phường 6 và phường 8, quận 3, anh Nguyễn Trí Dũng, con trái blogger Điếu Cày và bà Dương Thị Tân, vợ blogger này cũng bị an ninh canh theo cách đặt bàn ngồi ngay trước cửa nhà. Nhiều người không biết chính xác nguyên nhân tại sao. Bác sĩ Nguyễn Đan Quế cũng cho biết, an ninh canh ngay trước cửa nhà của ông. Sau một thời gian không hiểu nguyên nhân, bác sĩ Quế cho biết: “Một người của TLS Pháp (không biết có phải là chính ông TLS Pháp hay nhân viên ngoại giao cấp nào của TLS Pháp) đã đến khi nhận được tin thông báo của giáo sư Hoàng”. Ông Nguyễn Bắc Truyển, người cùng giáo sư Phạm Minh Hoàng tiếp chuyện ông TLS Pháp cho thông tin cụ thể như sau: “Ông TLS Pháp tại Sài gòn đến nhà thân mẫu của anh Phạm Minh Hoàng, 383/6 Bà Hạt, để chứng kiến cảnh công an ngồi ngay trước nhà nhậu và còn dùng dao đe dọa. Chủ ý là chúng không muốn tôi ra khỏi nhà ngày hôm hay. Khi ông TLS đến, ông đã chụp hình những tên ngồi ngay trước nhà và bước qua đường chụp những tên ngồi ở nhà đối diện. Chúng bỏ chay, ông ta bước vào nhà và chúng khóa cửa lại. Lúc đó, bên trong có một nhân viên thông dịch của TLS Pháp, anh Hoàng và ông TLS Pháp. Chúng giữ mọi người khoảng 10 phút. Có một tên kẹp cổ ông Tổng Lãnh sự và nói “Tổng thống nào cũng không sợ”. Tên này là một trong những tên thường xuyên theo dõi vợ chồng tôi và là một trong ba tên có mặt lúc chúng dùng tông tôi. Ông TLS có chụp được nhiều hình ảnh và cả hình tên kẹp cổ ông ta. Khi xảy ra sự việc, chị Oanh (vợ anh Hoàng) có gọi điện cho công an phường, nhưng họ không xuống, đến khi sự việc lớn ra thì mới thấy cảnh sát khu vực (CSKV) có mặt, nhưng cũng không giải quyết được chuyện gì, CSKV hỏi qua loa chiếu lệ rồi đi. Sau đó, viên chức Sở ngoại vụ TP HCM đến gặp ông TLS Pháp tại nhà thân mẫu anh Hoàng. Phía Sở ngoại vụ, họ đề nghị ông TLS Pháp làm một công hàm phản đối chính thức. Ông Emmanuel Ly Batallan, TLS Pháp đang trong nhà thân mẫu chụp hình chung với GS. Hoàng và TNCT Truyển   Ông Emmanuel Ly Batallan, TLS Pháp sau đó có ngồi nghe tôi và anh Hoàng trình bày những sự đe dọa thường xuyên từ phía nhà cầm quyền, ông rất thông cảm và dặn dò mọi người bình tĩnh, khi có chuyện gì nên thông báo cho ông biết. Khi ông ra về, tôi và anh Hoàng tiễn ông ta ra đầu ngõ. Viên chức Sở ngoại vụ có bước qua nhà chứa đám mật vụ để hỏi chuyện. Có lẽ hai bên bất đồng gì đó nên viên chức này cũng vội vàng dắt xe về luôn”. nguồn: chuacuuthe.com   Phóng viên Dân Luận phỏng vấn nhà hoạt động dân chủ Nguyễn Bắc Truyển: Côn đồ hành hung ông Tổng lãnh sự Pháp tại Tp. HCM Sáng ngày 5/11/2014, nhà báo độc lập Huỳnh Công Thuận thông báo việc vợ chồng anh Nguyễn Bắc Truyển, cùng chị Oanh (vợ thầy giáo Phạm Minh Hoàng) bị những người mặc thường phục bao vây và đe dọa. Chúng tôi đã liên lạc được với anh để nghe anh tường trình về sự việc này. Dân Luận: Chào anh Nguyễn Bắc Truyển, chúng tôi nhận được tin anh và gia đình bị những người mặc thường phục đe dọa, anh có thể cho độc giả được biết sự việc xảy ra sáng nay như thế nào?   Nguyễn Bắc Truyển: Công an thường xuyên canh gác phòng trọ của tôi. Đây là nhà của mẹ anh Phạm Minh Hoàng đã cho tôi ở 4 tháng nay. Hàng ngày công an mật vụ đều ngồi ở căn nhà phía đối diện để theo dõi vợ chồng tôi. Chuyện này cũng khá bình thường vì ở Việt Nam những nhà vận động nhân quyền, dân chủ đều bị theo dõi như vậy. Có đều là họ theo là công việc của họ, còn công việc của mình vãn cứ làm bình thường thôi.   Nhưng sáng nay họ ngang ngược đến mức độ bày ra một bàn nhậu ở cửa ra vào phòng trọ của tôi. Tôi đi ra và nói với họ: "Đề nghị các anh ra nơi khác nhậu vì nơi đây là chỗ bước ra bước vô của gia đình." Phòng trọ tôi ở ngay chợ, phía trước có người bán quần áo, bán thịt nhưng họ vẫn cứ ngồi như vậy. Họ trả lời là: "Chúng tôi ngồi trên vỉa hè!" Vì đây là nhà của anh Hoàng, chị Oanh nên tôi không thể nói nhiều hơn mà mời chị Oanh đến để mời họ dọn đi. Ngay lập tức một người da trắng, bụng phệ đuổi chị Oanh đi với một thái độ hết sức xấc xược, vẫn với một luận điệu là họ đang ngồi trên lề đường. Sau đó, người này kêu một người dân phòng đem con dao gọt trái cây qua và huơ trước mặt chị Oanh đe dọa. Thực sự những hành động như thế này không làm cho chị Oanh sợ, hoặc những người trong nhà sợ hãi. Thế là người này ngồi lì ra trước cửa và không đi đâu cả. Tôi gọi điện thoại báo cảnh sát khu vực đề nghị họ xuống làm việc nhưng họ bảo bận họp nên không xuống được. Thầy giáo Phạm Minh Hoàng báo tin cho ông Tổng lãnh sự Pháp tại Sài Gòn và tôi gọi điện cho Tổng lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn. Khoảng 30 phút sau, ông Tổng lãnh sự Pháp tại TpHCM Emmanuel Ly Batallan xuống đến nơi. Ông lấy máy chụp hình những người đang ngồi trước phòng trọ của tôi, thì những người này bỏ chạy toán loạn. Thầy Hoàng sau đó dẫn ông Emmanuel Ly Batallan sang phía nhà đối diện, nơi thường canh gác tụi tôi để quan sát thì những người trong này cũng tránh đi nơi khác. Nhà mở cửa nên ông Tổng lãnh sự bước vào, thì những người mặc thường phục khóa trái cửa bên ngoài, và một vài người siết cổ ông Tổng lãnh sự Pháp. Thầy Phạm Minh Hoàng thấy thế liền la lên: "Đó là ông Tổng lãnh sự Pháp!" thì một người trong số đó (người này thường xuyên theo dõi tôi) bảo: "Tổng thống tao còn làm luôn huống hồ Tổng lãnh sự." Những người này nhốt ông TLS trong vòng 10 phút rồi mở cửa cho ông qua phòng trọ của tôi. Ông TLS đã mời đại diện Sở ngoại vụ xuống để làm việc ngay tại đây. Một tiếng sau thì cảnh sát khu vực (CSKV) xuống hỏi qua loa rồi ra về. Qua việc này chúng ta có thể thấy những việc làm phía công an Việt Nam là "lưu manh". Một là công an thường phục giả dạng côn đồ, hai là sử dụng côn đồ để đánh đập những người đấu tranh. Bản thân tôi từ đầu năm đến nay bị hành hung 3 lần, ký giả Trương Minh Đức bị hành hung lần thứ tư trong năm. Dân Luận: Anh có biết lý do tại sao sáng hôm nay họ lại có những hành động như thế đối với anh và gia đình thầy Phạm Minh Hoàng? Nguyễn Bắc Truyển: Tôi không đoán được tại sao sáng nay họ lại có những hành động khiêu khích như vậy vì chúng tôi luôn giữ thái độ ôn hòa. Không biết là hôm nay có sự kiện gì xảy ra không mà nhà bác sĩ Nguyễn Đan Quế, chị Dương Thị Tân, thầy Thích Thiện Minh đều bị canh gác và khiêu khích trăng trợn. Đây là giai đoạn tôi cảm thấy công an Việt Nam đang có những hành động điên cuồng đối với những nhà đấu tranh. Biết đâu được đây cũng là những hành động nhắm vào các nhà đấu tranh để đẩy Việt Nam ra khỏi hiệp định TPP, trùng với mưu đồ của nhóm lợi ích thân Trung cộng. Các giả thiết nêu ra cũng nhờ các nhà đấu tranh khác nhận định giúp. Dân Luận: Những hành động vừa qua của những người côn đồ đối với ký giả Trương Minh Đức và anh có làm cho anh chùn chân hay không? Nguyễn Bắc Truyển: Tất cả việc họ làm gần đây thì họ cũng đã làm xuyên suốt 39 năm nay rồi. Đánh đập là chuyện bình thường lắm, trước đây là tử hình, tù chung thân như ông Nguyễn Hữu Cầu bị ba mươi mấy năm tù. Những hành động đó cũng có tác dụng làm cho một số người sợ sệt, nhưng khi những người đấu tranh đã vượt qua cái ngưỡng sợ sệt thì xem cái chết là chuyện bình thường. Chúng ta ngồi ở đây và ngày mai chúng ta ở tù, hay chúng ta không còn sống vì sự tra tấn hành hạ của nhà cầm quyền thì chúng ta phải chấp nhận. Chúng ta đang đi đến những bước cuối cùng để đòi nhân quyền và dân chủ ở Việt Nam, tôi nghĩ là sẽ không có ai chùn chân đâu.   Dân Luận: Cảm ơn anh đã trả lời phỏng vấn của chúng tôi ngày hôm nay. nguồn: danluan.org
......

Thảm cảnh của cả một đất nước, của cả một dân tộc…

Khi đang hát, sợ nhất là bị khán giả níu vai & chồm lên nói nhỏ vào tai. Chuyện này có nhiều cơ hội xảy ra khi người ca sĩ cầm microphone rời sân khấu để đi xuống bên dưới. Và tại sao “sợ” ư? Có thể bạn thắc mắc, chẳng hiểu. - Thứ nhất: Đang mải lo trình bày một nhạc phẩm, âm thanh đang ầm ầm thì người ca sĩ làm sao có thể nghe kịp & hiểu người kia đang muốn nói gì với mình? - Thứ hai: Nếu lắng nghe coi nói gì thì bài hát sẽ có khả năng bị khựng lại & có nhiều khả năng bị phân tâm mà quên luôn cả câu hát kế tiếp. Không tin bạn thử vừa hát vừa lắng nghe ai nói chuyện gì đó thử xem, nếu bạn làm được cả 2 chuyện cùng lúc thì có thể bạn là siêu nhân (superman) mà không biết đấy… Tuần rồi trong một buổi gây quĩ, ban tổ chức nhờ cầm rổ đi xuống dưới khán giả, vừa hát vừa nhận phong bì tiền ủng hộ từ những vị hảo tâm, một bác lớn tuổi đã níu vai thì thầm gì đó thì vào tai. Dĩ nhiên là đã … chẳng hiểu bác nói gì, phải nói lẹ: “Thưa, cháu chẳng nghe được gì cả! Ghế bác chỗ nào, khi hát xong cháu xin trở ra tận nơi ạ?” Và đúng như đã hứa, hát xong phần mình vào trong lau mồ hôi xong trở lại tìm. Được níu lại chụp hình ở một số bàn, nhưng rồi cuối cùng cũng kiếm được. Bác kéo tay bảo: “Trong này ồn quá, ra ngoài bác có tí chuyện xin nhờ đến cháu…” Chút hồi hộp lẫn với tò mò. Mái tóc gần như bạc phơ, nhìn bác có vẻ lớn tuổi lắm nhưng vẫn còn rất minh mẫn. Dáng người nhỏ nhắn, lịch sự, nói chuyện giọng của những người Bắc di cư giống hệt mẹ. Bác như hơi đắn đo chút rồi bắt đầu: - “Bác xin lỗi có hơi chút đường đột, nhưng bác có chuyện này muốn nhờ đến cháu vì bác nghĩ cháu có thê có khả năng giúp được …” - “Dạ… Bác cứ nói, nếu làm được gì cháu sẽ làm.” - “Chuyện như thế này…” Ánh mắt bác trở nên xa xăm, giọng trầm hẳn xuống “Bác có đứa con gái nhỏ đi vượt biên năm 1980 rồi bặt tăm tin tức. Gia đình bác nhiều năm đã nhờ rất nhiều nơi để kiếm em nhưng không có kết quả. Không biết cháu có thể giúp bác, mỗi nơi cháu đi qua để mắt kiếm dùm em?” - “Thưa…” Dường như bác đã lạc vào một thế giới khác, chẳng còn nghe, còn thấy gì chung quanh… - “Em nó tên là Trần-Thị-Thanh-Lan, năm ấy em nó mới có 13 tuổi, vẫn còn láu táu lắm, tóc dài chấm vai. Gia đình bác thời ấy chỉ có khả năng cho mỗi một đứa con đi nên mới gởi gấm em đi theo gia đình người bạn quen. Cả tàu không có một tin tức trở về, chẳng biết chết sống. Nếu em nó còn, năm nay em nó tròn 47…” Tới phiên mình bị đẩy lạc trở về cái khoảng quá khứ đầy mộng mị. Cũng cuối năm 1980 ấy, con tàu vượt biên nhỏ xíu chật ních những người, khoang tàu xâm xấp nước biển lẫn lộn cùng chất thải từ cơ thể bấy nhiêu hành khách. Con bé tóc ngắn nằm sát bên cạnh dường như đi một mình, từ lúc đặt chân xuống ghe chẳng nghe mở miệng nói một câu. Mà mở miệng nói với ai bây giờ, cả chiếc ghe bốn mươi mấy người có mấy ai quen ai! Con bé dường như cũng bị say sóng nặng giống hệt mình, cũng ói lên ói xuống ngay tại chỗ và cũng lả đi nằm thiêm thiếp. Một lần quay đi không kịp, con bé ói văng đầy cả vào mặt mình sát cạnh! Biết được nó còn sống là nhờ có một lần bắt gặp ánh mắt của con bé yếu ớt dòm qua. Ánh mắt dường như muốn xin lỗi. Anh mắt thăm thẳm, lạc lõng, vướng vất nhiều tảng mây xám ngắt chiều thu. Ánh mắt đã đi theo ám ảnh mình suốt cả mươi năm đầu lúc mới tới được Hoa Kỳ… Con bé chắc còn nhỏ lắm, cũng chỉ cỡ 12, 13 là cùng, và là người con gái đầu tiên bị thằng hải tặc ỡ trần vấn xà rông xốc cho ngồi lên, rồi chọc thẳng tay vào áo rờ rẫm mà rú lên cười! Con bé cũng là bé gái nhỏ nhất trong nhóm phụ nữ đầu tiên bị bắt chuyền qua tàu hải tặc và chẳng bao giờ còn nghe tin. Con bé nằm ngay sát cạnh mình mà chẳng hề biết được tên… Giọng bà bác ngay sát tai mà như rất mơ hồ đến tự đâu đâu… - “34 năm rồi đó cháu, biết đâu con bé tội tình của bác đang sống lưu lạc ở một nơi nào đó trên thế giới mà không có cách nào để tìm lại được gia đình. Biết đâu em nó ở đâu đó trong những thành phố cháu đi qua…” Ôi… người mẹ tội nghiệp tìm con, đã chừng mấy năm rồi mà vẫn không vơi đi niềm hy vọng dù rất mỏng manh… Tần ngần hỏi: - “Thưa bác, chị ấy đã … đi từ đâu?” Giọng 2 bác cháu đều trở nên tự lư, nhẹ như tơ tự lúc nào. - “Ghe em nó đi từ Rạch Giá cháu…” Một phiến đá nặng chặn nghẹn nãy giờ bỗng được nhấc lên khỏi lồng ngực, không phải con bé ấy rồi! Ghe mình đã xuất phát khời hành từ mũi Cà Mau… - “Anh em cháu cũng vượt biên vào khoảng thời gian ấy, tụi cháu may mắn đã đến được bến bờ. Cháu … chưa biết sẽ phải làm gì, nhưng cháu sẽ ráng…” Trao đổi nhau số phone. Bác gái nhũ danh: Trương Thị Hoà, nhà đã ở khu Hoà Hưng Sài gòn… Sợ bác sẽ khóc, nhưng nước mắt bác chẳng ra. Chắc những dòng nước mắt đã chảy cạn khô trong suốt ba mươi mấy năm qua rồi, chẳng còn! Bác run run siết chặt đôi bàn tay cảm ơn, xin lỗi đã làm phiền, rồi xiêu vẹo bước trở lại vào khán phòng. Mình ngồi thừ lại ở bên ngoài phải cho mãi một thời gian. Lâu lắm mới buồn như thế! Và cái buồn chắc chắn sẽ còn vương vất mãi chẳng biết đến bao giờ… Gần 35 năm rồi, khả năng còn sống sót của người con chắc không nhiều nhưng cũng có thể… Biết đâu ở đâu ở nước nào đó trong vùng Đông Nam Á không chừng…. Và không phải chỉ có mỗi chị Thanh-Lan này, mà còn biết bao nhiêu người con gái khác cũng mất tích, biết đâu cũng đang lưu lạc ở đâu đó… Và nếu đúng thế, biết đâu bạn … quen, bạn biết? Biết đâu bạn có chút tin tức? Hoặc giả nếu như không thấy phiền bạn có thể “share” dùm bài này đến bạn bè như một tờ truyền đơn nhắn tin, tìm kiếm. Biết đâu ở một mảnh đất nào đó có một người con gái cũng bao nhiêu năm mong mỏi tìm được lại gia đình của mình … Thảm cảnh của cả một đất nước, của cả một dân tộc… Buồn nhỉ! Giá như mình có thể khóc được … Ca sĩ DON HỒ VRNs (05.11.2014) Nguồn: chuacuuthe.com
......

Chúng ta cần biết:vì sao anh hùng ngã ngựa?

Cuối tháng 10/2014 vài tờ báo lề phải như Người Lao Động đăng tin Chủ tịch nước vừa ký Quyết định số 2721/QĐ CTN đề ngày 24/10/2014 hủy bỏ Quyết định cũng của Chủ tịch nước cách đây hơn 4 năm, phong Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân cho ông Hồ Xuân Mãn do những thành tích nổi bật trong chiến tranh trên chiến trường Thừa Thiên - Huế. Ông Hồ Xuân Mãn Ông Hồ Xuân Mãn là ai? Vì sao ông Mãn được phong Anh hùng? Vì sao Quyết định phong Anh hùng lại bị hủy bỏ? Vì sao báo chí lề phải không dám đi sâu tìm hiểu, phân tích và rút kinh nghiệm sâu sắc về một vụ lừa bịp cỡ quốc gia nghiêm trọng như thế? Đây là vấn đề người dân nước ta cần biết rõ và cần được giải đáp cho ra lẽ. Đây cũng là một món nợ của Ban Tuyên giáo Trung Ương đảng CS, của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân VN và của Ban Thi đua Trung Ương là những cơ quan then chốt trong quyết định việc phong Anh hùng phải giải thích đầy đủ cho công luận.   Tôi nêu sơ qua vài nét vụ việc này, đọc được trên mạng và báo địa phương (Thừa Thiên – Huế), nghĩ rằng đây là việc làm cần thiết để nâng cao dân trí về quê hương đất nước.   Ông Hồ Xuân Mãn được phong danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân tại Đại hội thi đua yêu nước Thừa thiên - Huế tháng 8 năm 2010, khi đang là Bí thư Tỉnh ủy Thừa thiên - Huế, theo đúng thủ tục là do Thủ tướng đề nghị và Chủ tịch nước ký quyết định. Ông là ủy viên Ban Chấp hành Trung Ương Đảng trong 2 khóa IX và X, Bí thư Thành ủy từ năm 2001 đến năm 2011, về hưu sau đó. Bản đề nghị tuyên dương anh hùng của ông Mãn được gửi lên Bộ Quốc phòng và Ban Thi đua Trung Ương được toàn thể 15 người trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhất trí thông qua, trong đó có trình bày 17 thành tích nổi bật trong chiến tranh từ khi ông còn là trinh sát viên, chỉ huy du kích xã, rồi bộ đội địa phương huyện Phong Điền, cho đến tham gia chiến dịch cuối cùng tháng 3 năm 1975 trên địa bàn Thừa Thiên - Huế.   Bản tóm tắt thành tích cá nhân thật đặc biệt: “Từ năm 1969 đến năm 1975, ông Mãn đã đánh hơn 100 trận, diệt 150 tên địch, phá hủy một trực thăng Mỹ, phá hủy 37 xe quân sự, 33 lần là Dũng sỹ diệt Mỹ, nhiều lần được là Chiến sỹ thi đua, nhận nhiều Huân chương Kháng chiến, Chiến công, Giải phóng…”. Sau khi thành tích của ông Mãn được công bố rộng rãi trên báo Nhân Dân, Quân đội Nhân Dân, rồi trên báo Thừa thiên - Huế, nhiều đồng đội cũ ở huyện Phong Điền, ở Huế liền phản ứng, gửi thư cho văn phòng tỉnh ủy chỉ rõ rằng bản tóm tắt thành tích đưa ra công khai của ông Mãn có nhiều phần giả tạo, có một số trận ông Mãn vắng mặt lại nói là có dự và lập công. Tỉnh ủy không trả lời. Những người thắc mắc còn bị đe dọa rất thô bạo, bị chụp mũ là “gây rối, bị phản động giật dây”. Số anh em trung thực đó càng thêm giận dữ, gặp nhau trao đổi ý kiến, trình bày ra Trung Ương, ra Bộ Quốc phòng. Sau 2 năm đấu tranh, đầu năm 2014 Bộ Chính trị mới cử đoàn cán bộ của Ban Kiểm tra Trung Ương vào điều tra. Đoàn Kiểm tra xuống địa phương gặp các nhân chứng còn sống của một số trận đánh, kết luận về từng thành tích một đã được ông Mãn miêu tả khi kể công để đi đến kết luận chung. Đó là xét 17 thành tích đã kể chỉ có 2 trận đánh là có thật, ông Mãn có tham dự, thành tích cá nhân ông Mãn là có thật trong thành tích chung, 7 trận đánh ông Mãn không có mặt, “cướp công” của người khác, 7 trận khác là dựng đứng lên, hoàn toàn tưởng tượng ra, không hề có thực. 33 lần được công nhận là Dũng sỹ diệt Mỹ đều là tự phong, không ai xác nhận. Nhất là chuyện cá nhân ông bằng khẩu súng và lựu đạn phá 1 trực thăng Mỹ cũng là bịa ra.   Ban Kiểm tra Trung Ương gửi báo cáo lên Trung Ương, Bộ Quốc phòng, Ban Thi đua Trung Ương và Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, đề nghị Chủ tịch nước ra quyết định hủy bỏ việc tuyên dương 4 năm trước, từ đó có quyết định ngày 24/10/2014 của ông Trương Tấn Sang, kết thúc cuộc lừa đảo ô nhục trên đỉnh cao quyền lực này.   Vấn đề là lòng tham của con người sao mà có thể kỳ dị đến vậy. Đã vào Ban Chấp hành Trung Ương rồi, leo được lên đến chức Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế rồi, nhà cao cửa rộng, quyền thế lãnh tụ một vùng rồi mà vẫn còn ham hố vô độ, thèm khát cái danh hiệu Anh hùng, kèm theo phụ cấp cho anh hùng mỗi tháng hơn 1 triệu đồng. Cái niềm tự tin quá mức, nghĩ rằng là lãnh tụ số một thì bảo gì thuộc hạ chả làm theo, cho nên cả 15 ủy viên tỉnh ủy đều sẵn sàng ký không chút do dự vào bản chừng nhận thành tích cá nhân do ông Mãn đưa ra, họ không chút băn khoăn về con số hơn 100 trận đánh, diệt 150 địch, về 33 lần được danh hiệu Dũng sỹ diệt Mỹ, 37 lần phá hủy xe quân sự, nhất là một mình hạ và phá hủy được trực thăng Mỹ. Tất cả thành tay sai mù quáng của lãnh tụ. Đây là nối dài tiếp theo của thành tích thiếu niên Lê Văn Tám tự đổ xăng vào người châm lửa đốt thành đuốc sống để chạy vào đốt cháy rụi kho xăng Pháp (do ông Trần Huy Liệu bịa ra), của Bế Văn Đàn lấy thân mình bịt lỗ châu mai cho đồng đội hạ đồn Tây, của Phan Đình Giót lấy thân mình chèn khẩu pháo khỏi lăn xuống vực thẳm…   Một điều kinh hoàng là ông Hồ Xuân Mãn từng được Ban Thi đua Trung Ương tuyên dương là một trong 3 bí thư tỉnh ủy trong cả nước gương mẫu nhất trong phong trào “Học tập và làm theo gương đạo đức của bác Hồ”. Trong khi uy tín ông Hồ bị xuống thấp nhất qua 2 cuốn hồi ký của triết gia Trần Đức Thảo và nhà báo Trần Đĩnh thì vụ Anh hùng vùng cố đô thất thế lao xuống bùn đen càng làm cho phong trào “học theo đạo đức của bác Hồ” thêm mỉa mai, hụt hẫng, biến thành trò cười. Vẫn chưa hết. Bà con Thừa thiên - Huế biết khá rõ bà Hoàng Thị Cam, vợ ông Mãn, vốn là du kích thất học được đưa vào làm mậu dịch viên, rồi đưa lên làm ban sáng lập trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu, nay lại trở thành bà Trưởng Ban Quản trị Lâm trường Mồng 1 thánh 5; em ruột ông Mãn là Hồ Xuân Phán, nguyên chỉ là dân vệ được đưa vào đảng, lên làm bí thư đảng ủy bưu điện, nay đã là giám đốc sở Thông tin Truyền thông tỉnh đầy thế lực. Còn con rể ông Mãn là Phương có tiếng ăn chơi ngang tàng được cơ cấu vào làm giám đốc Sở Giao thông Vận tải, nay đã là giám đốc Sở Kế họach và Đầu tư nhiều triển vọng. Chưa nói đến các ngành khác hầu hết đều là bạn bè thân thuộc phe cánh của “anh hùng trượt ngã” Hồ Xuân Mãn. Thời thế nào có anh hùng ấy. Thời thế đảng CS trượt dài trong đà suy thoái tự diệt đã sinh ra cái quái thai anh hùng tự phong Hồ Xuân Mãn. Cả một chế độ đầy lừa dối bịp lẫn nhau. Muốn hoàn lương thành một đảng chân chính, vì dân vì nước, đảng CS phải dám mổ xẻ các vụ đại bịp ra trước dư luận, rút ra những bài học cần thiết, dám chịu sự giám sát nghiêm cách của nhân dân, dám tự chấp nhận sự ganh đua của các tổ chức chính trị bình đẳng trong đời sống dân chủ đích thật của cộng đồng dân tộc. Bùi Tín  
......

Minh Hạnh: Nhớ về Nguyễn Hoàng Quốc Hùng

Hôm nay, nghe mẹ và chị gái kể về anh là em nghĩ đến anh rất nhiều. Tất cả kỷ niệm chợt tràn về, và em cảm thấy muốn được nhìn thấy anh, thấy nụ cười của anh và đôi mắt nghiêm nghị ấy.... Mẹ và chị em đã nói rằng : Thằng Hùng nó không chịu đi đâu khi nghe tin con bị bắt, nó không chịu rời khỏi Lâm Đồng. Chị con phải hối thúc nó, nó mới chạy đi, thì nó bị bắt.... Người ta đánh nó, hăm dọa nó, nhưng nó không khai, thậm chí còn đe dọa là sẽ nhốt nó vào nhà thương điên hoặc chích máu nhiễm HIV. Nó bị đánh rất dã man ở Tiền Giang....nhưng nó kiên cường lắm, nó tuyệt vời lắm.... Nghe những chuyện về anh, em muốn khóc và em càng tự hào về anh và Chương... Những người cộng sự tuyệt vời của em... Anh biết không, còn nhớ lúc bị bắt, em đã lo cho anh ở bên ngoài, không biết anh thế nào, em đã đập nát máy điện thoại để họ không truy ra tông tích của anh. Vậy mà.... Em đã gào thét và hát cho anh nghe trong trại giam, mà em không biết anh đang bị giam giữ nơi nào...Sau này em mới biết, trong phòng giam, anh sống như một người câm, không mở miệng nói một lời nào, vì bảo vệ em và anh em của mình... Chính vì vậy, anh đã sống hết toàn bộ khoảng thời gian ở B34 trong cảnh nhốt kín nóng bức, bị tra tấn.... Và khi đọc bảng kết luận điều tra, ghi rõ : Nguyễn Hoàng Quốc Hùng không hợp tác điều tra, đề nghị tòa án xét xử nghiêm minh để thể hiện tính công bằng của pháp luật. ....Em đã òa khóc vì sự kiên cường của anh.....Và lo cho số phận của anh.... Rồi cảnh anh ra tòa, anh hếch mặt lên trời, anh hiên ngang làm em và anh Chương tự hào. Anh gầy còm, không giống anh Hùng trước đây, đôi mắt anh lạnh lùng, và thần thái lắm. Anh ngồi im lặng nghe em và Chương hát, anh chỉ nhìn em nhoét miệng cười.... Em vẫn còn nhớ rất rõ .... Nói gì thêm đây, em chẳng thể nói gì thêm cả, vì nhớ anh, một người cộng sự tuyệt vời..... Theo FB Đỗ thị Minh Hạnh
......

Khát vọng làm báo tư nhân

Sau năm 1975, khi người cộng sản chiếm miền Nam, tất cả báo chí tư nhân đều bị cấm tiệt nhưng cái khát vọng tự mình làm một tờ báo thì chưa bao giờ bị tiêu diệt trong trái tim của những người yêu thích tự do. Và dù phải thỏa hiệp, lách luật, mua giấy phép..., tại Sài Gòn từ hơn vài chục năm nay, "báo" do tư nhân làm chủ vẫn xuất hiện, tất nhiên dưới danh nghĩa một "cơ quan chủ quản" là nhà xuất bản hay "ké" theo một pháp nhân của tờ báo nào đó.   Một trong những người làm báo tư nhân lách luật cự phách nhất Sài Gòn nay đã mất là ông Lâm Quốc Trung, ông Trung từng dám bán nhà mặt tiền về ở chung cư để lấy tiền mua lại một số “phụ trang” của các tờ báo từ Cà Mau đến Vũng Tàu, làm ra những tờ báo giải trí mang dấu ấn cá nhân ông. Còn ở mảng văn nghệ, từ những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước, khi tình hình xuất bản đã bớt bị kìm kẹp, rất nhiều người đã tự bỏ tiền túi để làm những “tờ báo” thuần túy văn nghệ, gần như không thu hồi vốn như Thời Văn (Nguyễn Đăng Trình), Gieo và Mở (nhiều người làm), Văn tuyển (Phạm Viêm Phương, Nguyễn Liên Châu- đến nay… vẫn còn ra lai rai) và vài anh em văn nghệ cũ, vẫn ra những tuyển tập văn chương, tự tìm bài, tự in, chỉ có phải mua giấy phép của các nhà xuất bản. In ra, phân phát nhau đọc, mua giúp nhau. Gần như không bán được và vì vậy bài in cũng không có nhuận bút bằng tiền, mà lấy bằng sách! (Các tuyển tập văn chương do tư nhân thực hiện đặc biệt chỉ có ở Sài Gòn, không có ở Hà Nội và bất kỳ nơi nào tại Việt Nam). Có báo chí xuất bản tư nhân chưa hẳn đã là có tự do báo chí, nhưng thật đáng buồn, cho đến giờ dù thực tế đã chỉ ra rằng ngành xuất bản hiện đã bị tư nhân chi phối mạnh mẽ, rất nhiều tờ báo nhà nước vẫn tiếp tục bán giấy phép cho tư nhân ra các phụ trương để nuôi sống tờ báo chủ, nhưng nhà cầm quyền vẫn chưa dám cho phép báo chí, nhà xuất bản tư nhân ra đời, dù chịu sự kiểm duyệt. Và vì vậy cái khát vọng tự mình bỏ tiền làm ra một tờ báo, sống chết cùng với nó vẫn chưa thành hiện thực, người có tâm làm ra những sản phẩm văn học vẫn chịu sự chi phối đầy bất trắc của các nhà xuất bản. Đã gần bốn mươi năm trôi qua từ khi tự do báo chí bị bóp nghẹt, những người có tâm, có tầm dần mệt mỏi, trong khi đó truyền thông thế giới đã đi những bước dài trong môi trường internet. Tại Việt Nam hiện nay, những tờ báo có hàm lượng thông tin, văn hóa và học thuật đã dần lép vế, biến thái để tồn tại hoặc nhường chỗ cho những “sân chơi” xô bồ, thô tục của những trang web được cấp phép nằm dưới sự khuynh loát của tư nhân, mà mục đích chính của những “ông chủ” này là tiền! Ngành báo chí xuất bản Việt Nam chắc chắn sẽ càng suy đồi hơn trong tình trạng nửa nạc nửa mỡ bây giờ. Lối thoát duy nhất là chấp nhận báo chí xuất bản tư nhân và điều hành bằng hệ thống kiểm duyệt!   Theo nguyendinhbon.blogspot.com
......

Cất “lưỡi hái tra tấn” trên đầu người VN

Mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm rằng mọi hành vi tra tấn đều cấu thành tội phạm theo luật hình sự của nước mình. Điều này cũng áp dụng với những hành vi cố gắng thực hiện việc tra tấn hoặc hành vi của bất kỳ người nào đồng lõa hoặc tham gia việc tra tấn. Mỗi quốc gia thành viên phải trừng trị những tội phạm này bằng những hình phạt thích đáng tương ứng với tính chất nghiêm trọng của chúng. (Điều 4. Công ước chống tra tấn của Liên hợp quốc). Nguồn ảnh: Vietbao. Bài "5 công an dùng nhục hình. Ám ảnh vết thương nạn nhân. 27/3/2014   * Cam kết cứ ký, “luật rừng” cứ làm? Ngày 7/11/2013, VN ký công ước quốc tế về chống tra tấn, đứng sau 154 quốc gia khác đã ký trước đây và ở năm thứ 29 sau khi công ước ra đời. Lại càng quá trễ khi gần một năm sau – ngày 23/10/2014 Chủ tịch nước mới trình QH phê duyệt tại kỳ họp này. Đến nay hệ thống luật pháp VN cũng chưa sửa đổi gì để phù hợp cam kết đã ký. Tình trạng vi phạm công ước tại VN ngày càng dồn dập với nhiều vụ việc nghiêm trọng, gây nhiều người chết khiến người dân càng thêm phẫn nộ. Điều này chứng tỏ những người có trách nhiệm của VN đã thờ ơ trong việc bảo vệ tính mạng và phẩm giá của người dân. Nguồn ảnh: Vietbao. 2/8/2011 Trong khi đó, Điều 2 của Công ước cấm việc tra tấn, và yêu cầu các bên ký kết phải có biện pháp hữu hiệu để phòng chống tra tấn ở bất kỳ lãnh thổ nào dưới thẩm quyền pháp lý của mình. Việc cấm tra tấn này là tuyệt đối và không được vi phạm. “Không có bất cứ trường hợp đặc biệt (ngoại lệ) nào có thể được viện dẫn để biện minh cho tra tấn, bao gồm cả chiến tranh, mối đe dọa của chiến tranh, bất ổn chính trị nội bộ, tình trạng khẩn cấp chung, hành vi khủng bố, tội phạm bạo lực, hoặc bất cứ hình thức xung đột vũ trang nào. Tra tấn không thể được biện minh như một phương tiện để bảo vệ an toàn công cộng hoặc ngăn chặn các trường hợp khẩn cấp. Cũng không có thể được biện minh bằng các lệnh từ các sĩ quan cấp trên hoặc các quan chức.”. Việc ký và phê chuẩn Công ước này là một việc hết sức cần thiết mà nhà cầm quyền VN không thể trì hoãn thêm được nữa trước áp lực quốc tế, nhất là khi phải “dọn mình” cho những tiêu chuẩn tối thiểu về nhân quyền nếu muốn đạt một số quyền lợi về kinh tế. Nhưng khi trình QH phê chuẩn, VN lại gây thất vọng khi tuyên bố: Không áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước của LHQ chống tra tấn và các hình thức đổi xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người. Việc thực hiện các quy định của Công ước này sẽ theo nguyên tắc Hiến pháp và pháp luật thực định của Việt Nam trên cơ sở thỏa thuận hợp tác song phương hoặc đa phương với nước khác và nguyên tắc có đi, có lại... (theo VnExpress, bài “Chủ tịch nước trình công ước về chống tra tấn”).   Nếu thế thì không chỉ có nhiều điều trái Công ước, mà còn trái với Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của VN đã quy định tại khoản 1 điều 6: ”trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”. Qua những động thái này, người ta có thể đo được mức độ thành thật và thiện chí của nhà cầm quyền trong việc bảo vệ người dân VN.   Thẩm tra việc phê chuẩn Công ước, Chủ nhiệm UB Đối ngoại Trần Văn Hằng lại nhấn mạnh: việc phê chuẩn là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần hiệu quả vào công tác đấu tranh chống các luận điệu vu cáo, xuyên tạc về việc tra tấn, ngược đãi phạm nhân, người bị tạm giữ, tạm giam của các thế lực thù địch nhằm chống phá Nhà nước ta.   Như vậy, người ta có thể đặt câu hỏi: phải chăng ông không thấy không nghe không biết về bao người dân chết bởi tay công an và những người bị bức cung nhục hình tra tấn ở khắp nơi, thông tin được đưa rất nhiều trên báo chí VN. Vì thế ông mới có thể nói rằng đó là vu cáo và xuyên tạc! Và lẽ nào người dân lại bị rẻ rúng tới mức nhà cầm quyền chỉ quan tâm việc ký cam kết chống tra tấn để dập tắt những “luận điệu xuyên tạc” chứ không vì tính mạng của người dân?! Điều 13 Công ước quy định: mỗi thành viên phải đảm bảo rằng bất kỳ cá nhân nào cho rằng họ bị tra tấn trên lãnh thổ thuộc quyền tài phán của mình đều có quyền khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền của nước đó và được những cơ quan này xem xét một cách khẩn trương và khách quan. Quốc gia đó cũng phải thực hiện các biện pháp để bảo đảm rằng người khiếu nại và nhân chứng được bảo vệ tránh sự ngược đãi hay hăm dọa như là hậu quả của việc khiếu nại hoặc cung cấp bằng chứng. Điều 14 ghi rõ, “mỗi quốc gia thành viên phải đảm bảo trong hệ thống pháp luật của mình rằng các nạn nhân của hành động tra tấn sẽ được cứu chữa và có quyền khả thi được bồi thường công bằng và thỏa đáng, kể cả được cung cấp những điều kiện để phục hồi một cách đầy đủ đến mức có thể. Trường hợp nạn nhân chết do bị tra tấn, những người phụ thuộc vào người đó có quyền hưởng bồi thường.   Không một quy định nào trong điều này ảnh hưởng tới bất kỳ quyền được bồi thường nào của nạn nhân hay của người khác có thể có theo pháp luật quốc gia”. (Công ước) Bất kỳ một mạng dân nào bi bức cung, nhục hình, tra tấn hoặc chết oan ức dưới bàn tay của cơ quan hành pháp, cũng như bất kỳ một vụ điều tra nào để oan sai, một phiên tòa nào xử trái pháp luật... cũng đều thuộc trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị, ngành, lĩnh vực đó. Người đó phải hết lòng sửa chữa, đền bù thiệt hại trong quyền hạn trách nhiệm của mình và thường phải từ chức. Gần đây nhất, hai vị Bộ trưởng của Nhật đã từ chức ngay khi để xảy ra một chút xíu lạm dụng trong lĩnh vực mình quản lý.   Nhưng VN thì không. Người dân VN chỉ còn cách trông đợi vào lương tâm hiếm hoi của người thi hành công vụ. Và vì thế ngày càng nhiều dân chết oan ức. Vẫn “vừa đá bóng vừa thổi còi” Để thực thi Công ước chống tra tấn, VN cần làm nhiều điều, trong đó có việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan. Nội dung này không thể tùy tiện, mà phải phù hợp các quy định của công ước. Phải sửa đổi, bổ sung bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) ở các nội dung: bổ sung tội danh tra tấn để phù hợp với định nghĩa tra tấn trong đó có hành vi tra tấn về tinh thần; sửa đổi, bổ sung quy định về tội dùng nhục hình, tội bức cung và một số hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm con người có thể bị coi là tra tấn. VN cũng chưa từng có Luật tạm giữ tạm giam. Vì thế VN cần xây dựng luật này, đồng thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật Thi hành án hình sự. Hiện VN chưa có quy định về tội danh tra tấn, từ chối dẫn độ đối với người có nguy cơ bị tra tấn, chưa quy định cụ thể việc bồi thường tổn thất cho nạn nhân bị tra tấn...Tất cả đều là những điều luật hết sức quan trọng, sống còn đối với người dân cũng như để ngăn ngừa sự lạm dụng của cơ quan công quyền nên rất cần sự khách quan, chất lượng cao.   Nhưng kỳ này, QH vẫn lặp lại sai lầm trong quy trình xây dựng luật. Một sai lầm mà nhiều đại biểu QH đã cảnh tỉnh từ các kỳ họp trước. Đó là hiện trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Về vấn đề này đã có một nhận định rất xác đáng qua tổng kết của Hội luật gia Hà Nội: “Với quy định Trưởng ban soạn thảo “là người đứng đầu cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo”, trong hầu hết các trường hợp, đó là Bộ trưởng các Bộ, cơ quan ngang bộ phụ trách lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh. Như vậy việc “làm luật” từ chức năng, nhiệm vụ của QH đã tự động chuyển sang cho cơ quan hành pháp. Tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi” đã được hợp thức hóa. Đây là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến tình trạng nhiều văn bản quy phạm pháp luật chỉ có tác dụng nâng cao quyền lực của cơ quan quản lý nhà nước, không xét đến hoặc xét đến với mức độ rất mờ nhạt, chung chung về quyền của đối tượng thi hành”. (theo luatsungaynay.vn, bài “ 5 hạn chế, bất cập cơ bản của Luật ban hành văn bản Quy phạm pháp luật”). Lần này cũng vậy, đơn vị được QH giao soạn thảo những luật liên quan đến Công ước chống tra tấn là Bộ Công an, trong khi trách nhiệm làm luật và sửa luật là của QH. Như vậy, ngành duy nhất có thể lạm dụng tra tấn, bức cung nhục hình thì lại được giao ban hành dự thảo, sửa chữa luật để ngăn chặn quyền lạm dụng của chính họ! Làm sao tránh được sự thiếu khách quan khi xây dựng luật?! Nếu xẩy ra, điều này không những nguy hại cho toàn xã hội và cho chính ngành công an vì sẽ mất nhiều cán bộ, chiến sĩ vì có điều kiện dấn sâu vào phạm tội. Như vậy, QH cần xem xét lại việc chuẩn bị thực thi Công ước chống tra tấn. Nếu cứ theo cách làm hiện nay, việc đó chỉ càng tăng thêm quyền lực của ngành công an, người dân thì cứ tiếp tục chết oan. Cũng cần đề phòng nguy cơ ngay cả khi có thuê chuyên gia giỏi để soạn ra một luật khách quan phù hợp công ước quốc tế thì trên thực tế đã cho thấy từ nhiều năm nay, hệ thống tư pháp và hành pháp rất nhiều khi vẫn không tuân theo công ước quốc tế mà lại hành xử theo luật VN. Nguy cơ bị lạm dụng, tra tấn, bức cung, nhục hình vẫn như một lưỡi hái thần chết treo lơ lửng trên đầu người VN. Theo rfavietnam.com
......

Pages