Bản lên tiếng về vụ lương tâm TV bị sách nhiễu, hăm dọa

Kính thưa - Toàn thể Đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước - Các chính phủ dân chủ và các cơ quan nhân quyền quốc tế. Lương Tâm TV là một chương trình thực hiện các video clip ngắn do Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm (CTNLT) và Hội Anh Em Dân Chủ (AEDC) đồng thực hiện rồi gởi lên mạng Internet theo định kỳ qua YouTube của Quốc tế. Chương trình này nhắm trình bày sự thật về hiện tình của VN, đưa ra nhận định về các vấn đề của đất nước, nhằm khơi gợi ý thức, soi sáng lương tâm cho Đồng bào, để toàn dân cùng chung tay xây dựng một xã hội có công lý và tự do, dân chủ.   Thế nhưng, chỉ sau 3 video clip (bắt đầu từ ngày 19-08-2015), nhà cầm quyền Cộng sản VN đã ra tay trấn áp. Ngày 23-09-2015, công an Tp Hà Nội, quận Hai Bà Trưng đã cưỡng bức nhóm chuyên viên 5 người thực hiện chương trình đến đồn thẩm vấn hăm dọa, bao gồm nhà báo Nguyễn Vũ Bình, các anh Phạm Đắc Đạt và Nguyễn Mạnh Cường, các cô Lê Thị Yến và Lê Thu Hà. Sau đó tịch thu các phương tiện tác nghiệp của của Lương Tâm TV và các phương tiện thông tin của cá nhân họ, bao gồm 1 máy quay phim cầm tay, 1 camera Sony Anpha 58, bộ đèn chiếu studio 4 chân 4 đèn, 3 laptop chuyên dụng, 1 máy tính bảng, 4 điện thoại, 3 USB, 100 USD, bàn ghế và các thiết bị cho studio khác. Đứng trước vụ việc nghiêm trọng này. 1- Hội CTNLT và Hội AEDC nhận định: a- Chương trình Lương Tâm TV hoàn toàn phù hợp với điều 19 Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị mà VN đã ký kết tham gia: “1- Mọi người đều có quyền giữ vững quan niệm mà không bị ai can thiệp. 2- Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia”. b- Chương trình Lương Tâm TV hoàn toàn phù hợp với pháp luật VN. Theo Hiến pháp, hoạt động này nằm trong quyền con người, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí mà người dân được hưởng. Còn theo luật báo chí vốn qui định đài truyền hình hay đài phát thanh mà có trụ sở, có phát sóng trên không gian, qua vệ tinh hay qua Internet, phải xin phép chính quyền, thì Lương Tâm TV chỉ là những video clip ngắn từ 7-12 phút được đưa lên mạng qua nhà cung cấp dịch vụ Youtube của Hoa Kỳ- nên không phải xin phép và không thể bị cấm chỉ. c- Chương trình Lương Tâm TV cũng nằm trong tinh thần của 182/227 khuyến nghị UPR của cộng đồng quốc tế về nhân quyền ở Việt Nam mà vào tháng 6-2014, tại kỳ họp thứ 26 của Hội đồng Nhân quyền LHQ, nhà cầm quyền Hà Nội đã tuyên bố ủng hộ và cam kết thực hiện. Trong số khuyến nghị được chấp thuận, có nhiều điều liên quan trực tiếp đến quyền tự do ngôn luận như: Thực thi hơn nữa các biện pháp nhằm thúc đẩy tự do biểu đạt và tự do truyền thông phù hợp với những tiêu chuẩn quốc tế tiến bộ nhất (Italy); Tiến hành các biện pháp cho phép tiếp cận cùng sử dụng Internet không hạn chế đối với mọi công dân, đồng thời đảm bảo tự do quan điểm và biểu đạt của mỗi người, cũng như tự do báo chí và truyền thông (Estonia); Dành không gian cho truyền thông phi nhà nước và làm cho các Điều 79, 88 và 258 Bộ luật Hình sự cụ thể hơn và nhất quán với các nghĩa vụ nhân quyền quốc tế về tự do biểu đạt (Úc). 2- Hội CTNLT và Hội AEDC lên án a- Nhà cầm quyền VN vì đã trắng trợn chà đạp Công pháp quốc tế, Luật pháp quốc gia, khinh thường nhân dân và Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc khi đàn áp chương trình Lương Tâm TV. Họ đã vận dụng một thứ luật pháp được giải thích cách tùy tiện, được áp dụng cách rừng rú để áp đặt những tội danh vu vơ, hòng duy trì quyền lực độc tài toàn trị của đảng Cộng sản. b- Nhà cầm quyền Hà Nội và Công an quận Hai Bà Trưng vì đã hành xử một cách vô luật khi dùng những trò phi pháp, đê tiện (chặn bắt giữa đường, dàn dựng tai nạn giao thông, huy động một lực lượng đông đảo…) để cưỡng bức công dân đến đồn thẩm vấn, sau đó tịch thu mọi phương tiện làm việc của nhóm thực hiện, thậm chí còn tước đoạt cả tài sản riêng vài người đang mang theo. Đến khi vài chục thân hữu của họ tới đồn để ôn hòa phản đối chuyện bắt người trái phép thì cả trăm công an, dân phòng, bảo vệ (đa số mặc thường phục) lên tiếng chửi bới thô tục và đánh đập họ cách dã man. Nay thì công an tiếp tục theo dõi canh chừng và cưỡng bức Nhóm thực hiện đến đồn để hăm dọa, áp lực họ nhận tội và tìm lý cớ để hợp pháp hóa việc tịch thu phương tiện tác nghiệp và tài sản cá nhân của họ. Qua hành động đàn áp dân chủ mới nhất này, người ta thấy công an ngày càng giỏi nghiệp vụ của bọn thảo khấu chặn đường để ngang nhiên cướp bóc hơn là giỏi nghiệp vụ của người bảo vệ luật pháp chính đáng và che chở nhân dân vô tội. 3- Hội CTNLT và Hội AEDC tuyên bố: a- Tiếp tục chương trình Lương Tâm TV trong sự hợp tác với nhiều tổ chức xã hội dân sự khác, vì đây là quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, là cách thức sống theo lương tâm và truyền bá dân chủ của chúng tôi, là nhu cầu cấp thiết của mọi giới đồng bào VN đang phải từng ngày từng giờ gánh chịu một nền thông tin mang tính tuyên truyền, đầy dẫy dối trá, phục vụ sự thống trị của đảng và nhà cầm quyền Cộng sản chứ không phục vụ sự thật và thiện ích của đất nước. b- Đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN chấm dứt ngay sự sách nhiễu, hăm dọa đối với những người đã và đang thực hiện chương trình Lương Tâm TV, đồng thời trả lại trong nguyên trạng các phương tiện tác nghiệp của họ cũng như tài sản riêng của họ vốn đã bị tịch thu cướp đoạt. c- Kêu gọi đảng CSVN – giữa lúc đất nước đang rơi vào đủ thứ khủng hoảng, tệ nạn và thảm trạng từ chính trị tới kinh tế, dân sinh tới môi trường, văn hóa tới giáo dục, an ninh tới quốc phòng- hãy để tâm lắng nghe tiếng nói của nhân dân, xét đến thiện chí của phong trào dân chủ, công nhận sự đóng góp của các tổ chức xã hội dân sự, thay cho việc cấm cản tùy tiện, trấn áp dã man, bắt bớ điên cuồng. Việt Nam ngày 01-10-2015 Hai tổ chức xã hội dân sự khởi xướng:1. Hội Cựu Tù Nhân Lương Tâm: Bs. Nguyễn Đan Quế, Lm. Phan Văn Lợi 2. Hội Anh Em Dân Chủ: Ông Phạm Văn Trội, Ls. Nguyễn Văn Đài Các tổ chức xã hội dân sự ủng hộ:3. Hội Nhà Báo Độc Lập: Ts. Phạm Chí Dũng 4. Bach Dang Giang Foundation; Ths. Phạm Bá Hải 5. Giáo Hội Liên Hữu Lutheran Việt Nam – Hoa Kỳ: MS. Nguyễn Hoang Hoa 6. Hội Bầu Bí Tương Thân: Ông Nguyễn Lê Hùng 7. Tăng Đoàn GH PGVNTN: HT. Thích Không Tánh 8. Hội Thánh Chuồng Bò: MS. Nguyễn Mạnh Hùng 9. Hội Bảo vệ Quyền Tự do Tôn giáo: Cô Hà Thị Vân 10. Giáo hội PGHH Thuần Túy: Ông Lê Quang Hiển 11. Hội Phụ nữ Nhân quyền: Cô Huỳnh Thục Vy 12. Phong trào Con đường VN: Ông Hoàng Văn Dũng 13. Người Bảo vệ Nhân quyền VN: Ths. Vũ Quốc Ngữ. 14. Sài Gòn Báo: LM. Lê Ngọc Thanh 15. Hội Bảo vệ Tôn giáo và Sắc tộc: Ông Huỳnh Trọng Hiếu 16. Lao Động Việt; Cô Đỗ Thị Minh Hạnh 17. Khối 8406: Ks. Đỗ Nam Hải 18. Nhóm LM. Nguyễn Kim Điền: LM. Nguyễn Hữu Giải 19. Hội Ái Hữu Tù nhân chính trị và tôn giáo: Ông Nguyễn Bắc Truyễn 20. Cao Trào Nhân Bản: Bs. Nguyễn Đan Quế Các cá nhân ủng hộ:1. Nhà báo Nguyễn Tường Thụy 2. CTNLT Hoàng Hưng 3. CTNLT Nguyễn Văn Túc 4. CTNLT Phạm Thanh Nghiên
......

Putin cố cứu Assad

Hai ông Vladimir Putin và Barack Obama đã công khai đấu khẩu qua hai bài diễn văn trước đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, nói đến cuộc nội chiến thảm khốc ở Syria. Trong khi hai ông tổng thống Nga và tổng thống Mỹ đàn hặc lẫn nhau, nhân vật đứng trong hậu trường đang chờ coi số phận mình sẽ được quyết định ra sao là Bashar al-Assad. Bashar là vị tổng thống đời thứ hai của nước Syria, nhờ cha truyền con nối, không khác gì triều đại nhà Kim ở Bắc Hàn. Trong khi Barack Obama lớn tiếng gọi Bashar al-Assad là tên bạo chúa từng bỏ bom, bắn hỏa tiễn để giết các trẻ em vô tội, thì Vladimir Putin kêu gọi thế giới hãy ủng hộ Assad đánh các lực lượng mang danh hiệu “Quốc Gia Hồi Giáo,” (IS hay ISIS). Obama kết tội chính sách kỳ thị bạo tàn của Assad, dùng một thiểu số theo một phái Shi A cai trị đa số dân theo phái Sun Ni, đã đẩy hàng chục ngàn thanh niên Á Rập chạy theo nhóm IS. Putin đáp lại, vạch ra rằng chính nước Mỹ phải chịu trách nhiệm về sự bành trướng của đạo quân Hồi Giáo Sun Ni quá khích này, sau khi quân đội Mỹ lật đổ các chế độ độc tài ở Iraq và Libya; và Putin báo trước sẽ gia tăng viện trợ quân sự cho chế độ Assad, Cuộc đấu khẩu công khai ở New York có thể khiến người ta quên tính chất rắc rối phức tạp trong cuộc cờ Syria, và nghĩ rằng quốc gia Á Rập nhỏ này chỉ là một võ trường cho Nga và Mỹ đấu với nhau. Thực ra, Nga và Mỹ có thể cùng đứng về một phía. Chính phủ cả hai nước đều công khai coi các lực lượng IS là kẻ thù cần tiêu diệt. Tại đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, ông Putin báo trước sẽ cho máy bay Nga bỏ bom các toán quân IS, đó cũng là một việc mà các máy bay Mỹ cùng các nước đồng minh đang làm; trong đó có các quốc gia Á Rập trong vùng, với Anh và Pháp đang nhập cuộc. Ðiều khác biệt là máy bay Mỹ đánh các toán quân IS khi bọn này đe dọa các đạo quân người Kurds ở Iraq và Syria, khi các nhóm quân đồng minh với Mỹ cần yểm trợ; trong khi đó ông Putin chắc chắn sẽ chỉ ném bom cánh IS khi cần giải vây quân đội của Assad. Bởi vì Nga và Mỹ có những mục tiêu khác nhau trên chiến trường Syria, và cho tới gần đây cả hai vẫn đóng vai trò đứng ngoài chờ chiến cuộc biến chuyển coi tới đâu. Bởi vì có rất nhiều nước lân cận đang can dự vào cuộc nội chiến ở Syria. Thứ nhất, ngay từ khi nội chiến bùng lên, đây là một cuộc chiến đấu của của đại đa số dân chúng theo giáo phái Sun Ni chống một chính quyền của ông Assad dựa trên thiểu số người Syria theo phái Alawites, một chi nhánh của giáo phái Shi A. Các lãnh tụ IS gồm những giáo sĩ và tướng tá thuộc quân đội Iraq cũ bị quân Mỹ giải tán từ năm 2003, đã “cướp cờ” dẫn đầu phong trào phản đối đó, tuyên bố thành lập một “quốc gia thuần túy Hồi Giáo.” Họ xây dựng một lực lượng Hồi Giáo quá khích quốc tế, mạnh hơn phong trào al Qaeda trước đây; với mục đích xóa bỏ tất cả các quốc gia Hồi Giáo trong vùng và thành lập một “caliphate” giống như trước đây hơn mười thế kỷ. Vì vậy, các nước theo Hồi Giáo đều thấy họ bị đe dọa. Những nước Á Rập đa số theo phái Sun Ni họp lại chống IS, chính phủ Mỹ yểm trợ họ bằng vũ khí và không lực. Nước Iran theo phái Shi A thì đứng về phía chính quyền Assad, người đồng đạo. Syria trở thành một chiến trường quốc tế, ít nhất đối với các nước trong vùng Trung Ðông. Chính phủ Mỹ đã tự giới hạn trong vai trò yểm trợ để khỏi bị lôi kéo vào chiến trận trên mặt đất. Họ theo chiến thuật “chờ coi” tình hình biến chuyển, có lẽ nhờ rút kinh nghiệm đau thương ở Iraq. Quân đội Mỹ huấn luyện một số quân địa phương vừa chống IS vừa chống Assad, nhưng chỉ cốt cho có mặt chứ không tin tưởng vào các toán quân yếu ớt này. Ngược lại, Nga đang có sẵn những quyền lợi quan trọng ở Syria cần bảo vệ, vì từ bao nhiêu năm qua Nga vẫn là đồng minh lớn nhất cung cấp vũ khí cho quân đội của triều đại Assad, kể từ thời cha đến đời con. Nước Nga chỉ có một căn cứ hải quân duy nhất trong vùng nước ấm Ðịa Trung Hải, nằm trên bờ biển nước Syria. Vladimir Putin đã bày ra một thế cờ mới: Nối liền căn cứ Hải Quân Nga trong Hắc Hải, sau khi chiếm được đảo Crimea của Ukrain, với các chiến hạm ở bờ biển Syria. Thế cờ mới của Putin có nguy cơ bị đảo lộn nếu chính quyền Assad bị lật đổ, bao nhiêu tỷ Mỹ kim vũ khí đầu tư vào chế độ Assad có thể biến ra mây khói. Tình trạng đảo lộn này gần trở thành sự thật vào giữa năm 2015. Từ đầu Tháng Sáu, chế độ Assad đang thua trên bốn mặt trận khi những đạo quân chống Assad dần dần mở rộng vùng kiểm soát ở phía Bắc và phía Nam nước Syria. Ðạo quân Jaish al-Fatah (Chinh Phục Quân), do do các nước Á Rập theo phái Sun Ni bảo trợ, như Saudi và Qatar, đã chiếm được thủ phủ của tỉnh Idlib. Ðạo quân này chỉ muốn đánh đổ chính quyền Assad, chứ không nhắm vào lực lượng IS. Những nhóm quân khác, do nước láng giềng Jordan và Mỹ bảo trợ, bắt đầu chiếm được nhiều vùng ở phía Nam. Trong cùng thời gian đó, lực lượng IS đáng sợ nhất tấn công vùng ở giữa và phía Ðông nước Syria, đe dọa vùng đất chung quanh thủ đô Damacus của chính quyền Assad. Chiến cuộc Syria không giản dị như bàn cờ có hai thứ quân mầu đen và mầu đỏ, vì quá nhiều quốc gia can dự. Iran tiếp tục ủng hộ chính quyền Assad, nhưng bị các nước Á Rập theo phái Sun Ni trong vùng chống lại. Mỹ muốn giúp tiêu diệt các đạo quân IS và lật đổ Assad nhưng không muốn những đám quân Hồi Giáo quá khích như Mặt Trận Nursa thắng thế, vì đó là một đám tàn quân của al-Qaeda. Nhóm Nursa này lại được các đồng minh của Mỹ như Thổ Nhĩ Kỳ và Qatar hỗ trợ và hợp tác với đạo quân Jaish al-Fatah cùng thắng thế ở miền Bắc. Trong một cuộc phỏng vấn với đài Al-Jazeera, lãnh tụ nhóm Nusra Front là Abu Mohammad al-Jolani đã tuyên bố nhóm này không hề có ý chống nước Mỹ. Thổ Nhĩ Kỳ, sau khi đã ngầm giúp cho lực lượng IS bằng cách mở cửa biên giới cho các quân tình nguyện từ Châu Âu và Phi châu đi vào Syria gia nhập IS, bắt đầu thay đổi chính sách vì chính họ cũng lo sợ IS quá mạnh. Trong khi đó, quân Thổ lại đánh nhau với các đạo quân người Kurds đang đánh IS! Từ Tháng Sáu vừa qua, chiến trường Syria đã thay đổi, thế lực của chế độ Assad ngày càng suy yếu, có thể bị sụp đổ. Tình hình nghiêm trọng đến nỗi nhiều người ủng hộ Assad đã tìm đường trốn ra ngoại quốc. Chính phủ Nga đã ra lệnh người Nga rút ra khỏi tỉnh Lakatia, di tản về nước. Lakatia nằm trên bờ biển phía Tây Bắc Syria, vốn là căn cứ địa của gia đình Assad. Ðứng trước nguy cơ chế độ Assad có thể sụp đổ, Vladimir Putin đã đánh nước cờ chót: Ðưa máy bay, hỏa tiễn, xe tăng và các “cố vấn quân sự” tới Lakatia. Từ năm 2014 đến Tháng Chín năm 2015, trung bình mỗi tháng chỉ có một chuyến tàu chở hàng của Nga đi từ vùng Crimea xuống bờ biển Lakatia. Nhưng trong hai tuần lễ kể từ ngày 9 Tháng Chín năm nay, đã có sáu chuyến tàu chở vũ khí và chiến cụ tiếp viện cho chính quyền Assad. Ông Putin tuyên bố rằng chính phủ Nga chỉ muốn giúp Assad đánh các lực lượng Hồi Giáo quá khích IS, một mục tiêu mà Mỹ với các nước Á Rập trong vùng và Iran cũng theo đuổi. Các chính phủ Saudi và Qatar đều đặt câu hỏi: Lực lượng IS không hề có máy bay, tại sao Nga lại đem tới Lakatia những hỏa tiễn địa không nhắm đánh các máy bay bên địch như hỏa tiễn SA15 và SA22? Ai cũng biết, mục đích chính của Putin trong nước cờ chót này là bảo vệ một chỗ đứng cho nước Nga tại miền Ðông Ðịa Trung Hải, khi cuộc chiến Syria có thể tiến đến hồi kết thúc. Các hành động cấp cứu của Putin cho chế độ Assad diễn ra sau khi tình hình chiến sự nghiêng về phía các đạo quân chống Assad. Nhưng cũng vì những biến chuyển chính trị mới trong vùng. Mỹ đã ký với Iran một hiệp ước hạn chế năng lượng hạch tâm, để bảo đảm quốc gia Hồi Giáo Shia A này không thể chế bom nguyên tử. Mỹ và Iran có thể sẽ thỏa hiệp thêm về cuộc cờ Syria, trong khi bàn chuyện bãi bỏ cấm vận. Saudi và các nước theo Hồi Giáo Sun Ni đang có cơ thắng thế ở Yemen, đẩy đám quân Houthis nổi dậy vào thế thụ động, đám quân này theo phái Shi A và được Iran ủng hộ. Nhưng các nước theo phái Sun Ni cũng tỏ ý sẵn sàng nói chuyện với Iran để giảm bớt mối căng thẳng giữa hai giáo phái trong cả vùng Trung Ðông. Ngoại trưởng xứ Qatar, Khaled al-Attiyah nói rằng đã đến lúc các nước Á Rập trong Vùng Vịnh thảo luận với Iran “một cách nghiêm cẩn” về tất cả các vấn đề tranh chấp để “bình thường hóa” mối quan hệ. Nếu Iran và các nước Á Rập trong vùng có thể tiến tới một thỏa hiệp “sống chung hòa bình” giữa hai giáo phái Sun Ni và Shi A thì vai trò của Bashar Assad sẽ chấm dứt. Nước Syria có thể sẽ được chia ra thành nhiều vùng nhỏ, những tiểu quốc, khi Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và các nước Á Rập chia nhau ảnh hưởng. Trong một thỏa hiệp như vậy, Iran có thể hy sinh vai trò của Assad. Những người dân Syria theo phái Alawites, một chi phái của giáo phái Shi A, có thể giành được một vùng tự trị, không cần có gia đình Asasd nhưng vẫn nằm trong ảnh hưởng của Iran. Trước viễn ảnh đó, nước Nga có thể sẽ mất chỗ đứng. Vì vậy, ông Putin phải vội vã đưa 500 quân lính và chiến xa, hỏa tiễn, máy bay tới gọi là để “đánh quân IS.” Putin muốn “quốc tế hóa” vấn đề Syria để có thể giữ được một chỗ ngồi trong bàn thảo luận về tương lai Syria. Trong cuộc họp 90 phút giữa hai ông Putin và Obama bên cạnh đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, ông Putin sẽ dùng các chiến cụ, phi cơ, hỏa tiễn Nga mới đưa tới Syria để cố mặc cả lấy một chỗ đứng cho Nga ở vùng biển ấm Ðịa Trung Hải. Nhưng hai người này cũng không thể quyết định số phận của chế độ Bashar Assad. Các nước khác trong vùng sẽ có tiếng nói của họ. Nhưng chúng ta đều biết một sự thật: Hàng trăm ngàn người Syria bỏ chạy khỏi xứ, vượt biển, vượt rừng, leo núi đi tị nạn, họ chống cả chế độ Assad lẫn các toán quân IS. Họ không chạy đến những nước Á Rập, cũng không tìm tới sống nhờ Iran hay Nga. Họ đều chạy sang Châu Âu và xin được nước Mỹ đón tiếp. Họ đi tìm cuộc sống mới trong các nước có chế độ tự do dân chủ. Các cường quốc không thể bỏ qua khát vọng của những người dân Syria còn ở lại trong nước. Chính họ cũng muốn được sống trong tự do dân chủ.
......

Tổ quốc tôi, ông là ai?

Xin trân trọng chia sẻ bài này với các bạn Trẻ VN ... và cả các bạn không còn trẻ nữa. Hãy cùng nhau mở đường hoặc tránh đường cho các thế hệ tương lai của chúng ta tiến lên. Một trường trung học phổ thông tại Trung Quốc, tổ chức hội diễn văn với chủ đề “Tổ quốc thân yêu”, dưới đây là bài diễn văn của nữ sinh thể hiện những nhận thức rất lý trí và sáng suốt, vượt xa phần đông thế hệ thanh niên Trung Quốc hiện tại. Liệu cô gái này có thể thay đổi Trung Quốc? *** Tổ quốc tôi, ông là ai? “Kính thưa các thầy cô,bạn bè thân mến: Tôi tên Vương Khả Nhi, là học sinh lớp 10A6, tiêu đề bài diễn văn của tôi hôm nay là “Nếu tôi sống thêm hai nghìn năm nữa, thì tổ quốc của tôi, ông sẽ là ai ?”. Tôi không có những ngôn ngữ hùng hồn như mọi người, cũng không có nhiệt huyết dâng trào như những người khác; đối với hai từ “tổ quốc”, cái tôi có chính là suy nghĩ độc lập của riêng cá nhân tôi, tôi cảm thấy rằng xã hội chúng ta không thiếu những người đứng đầu về tri thức, mà cái thiếu chính là những người có tư duy vậy. Tôi đang nghĩ rằng: Nếu như tôi có thể sống thêm hai nghìn năm nữa, thì thử hỏi tổ quốc của tôi sẽ là ai? Vào thời nhà Hán, tổ quốc của tôi chính là nhà Hán, chính là Đại Hán đã tiêu diệt hết thảy những kẻ xâm phạm bờ cõi. Vào triều đại nhà Đường, tổ quốc của tôi chính là Đại Đường, triều đại hưng thịnh bậc nhất khiến cho hàng nghìn nước khác đến viếng thăm. Vào thời Tống, tổ quốc của tôi là triều đại nhà Tống, triều đại đứng đầu về khoa học kỹ thuật, kinh tế phồn vinh. Vào triều đại nhà Nguyên, vó ngựa Mông Cổ đã chà đạp giày xéo chúng tôi thành những người dân thấp kém, vậy thì tổ quốc của tôi chính là Đại Nguyên sao? Và tôi phải yêu thương nó sao? Vào thời nhà Thanh, người Mãn giết người ngoài biên ải, để đầu không để tóc, để tóc không để đầu, cuộc tàn sát tại Dương Châu cũng ảm đạm thê lương không khác gì cuộc tàn sát tại Nam Kinh, vậy thì tổ quốc của tôi chính là Đại Thanh sao? Tôi phải yêu thương nó sao? Thời gian lâu dần, tôi đã dần dần nhận ra rằng, nếu như có ai cưỡng đoạt mẹ của các vị, vậy thì mọi người đều nhận kẻ đó là cha của mình sao, chúng ta không có lòng tự trọng đến như thế sao? Có những lúc tôi cũng nghĩ rằng, nếu như lúc đầu Nhật Bản chiếm lĩnh Trung Quốc chúng ta, hỡi các bạn, có phải hôm này chúng ta sẽ hô lớn lên rằng “thiên hoàng vạn tuế” hay sao? Nếu như tôi sống thêm hai nghìn năm nữa, thì thử hỏi xem, ai sẽ là tổ quốc của tôi đây, thật khiến cho tôi rất mơ màng khó hiểu . Trong lòng tôi có một tổ quốc, đó chính là một nơi công bằng, công chính và không có sự bất công nào cả; trong lòng tôi có một tổ quốc, đó chính là nơi để cho bạn chiến thắng, chiến thắng một cách đường đường chính chính. Còn thua thì sao, chính là thua một cách tâm phục khẩu phục. Trong lòng tôi có một tổ quốc, đó là nơi mà ông lúc nào cũng có thể dang rộng đôi cánh che chở cho tôi; trong lòng tôi có một tổ quốc, bất luận cuộc sống của tôi vất vả gian khổ đến thế nào, thì tổ quốc cũng sẽ khiến cho lòng bạn tràn đầy hy vọng về một tương lai không xa. Nước Mỹ sinh ra Washington, còn nước Anh thì sinh ra Churchill, nhưng họ đều đã ra đi vĩnh viễn; trách nhiệm hôm nay đây, không thể trông cậy vào họ nữa, mà là nằm ở thế hệ trẻ chúng ta. Trí tuệ của thế hệ trẻ chính là trí tuệ của quốc gia, thế hệ trẻ hùng mạnh chính là quốc gia hùng mạnh, thế hệ trẻ độc lập chính là quốc gia độc lập, thế hệ trẻ đứng đầu thế giới chính là quốc gia đứng đầu thế giới. Trong tay thế hệ trẻ chúng ta nhất định sẽ được cầm tờ báo nói về tổ quốc tân tiến văn minh bậc nhất của chúng ta, ông sẽ để cho mỗi người đều yêu mến ông sâu sắc từ tận đáy lòng, ông sẽ khiến cho nước Mỹ phải ngưỡng mộ về chế độ dân chủ của chúng ta, khiến cho nước Đức phải ngưỡng mộ về những thành tựu khoa học kỹ thuật của chúng ta, khiến cho Nhật Bản phải ngưỡng mộ đất nước dân giàu nước mạnh của chúng ta, khiến cho Singapore phải ngưỡng mộ về môi trường sạch đẹp của chúng ta. Nhìn xem ngày đó, tổ quốc của tôi, tất nhiên sẽ là một bầu trời rực sáng, một tổ quốc khiến cho con cháu muôn vàn đời sau cũng không thể nào quên được. Người Trung Quốc cổ nuôi dưỡng ba giấc mộng Trung Hoa: Giấc mộng thứ nhất gọi là giấc mộng minh quân, chính là hy vọng có được một hoàng đế tốt, hy vọng tất cả vấn đề đều được giải đáp và hiện thành. Tất cả mọi đều tốt đẹp đến từ sự ban ơn của kẻ thống trị. Giấc mộng thứ hai gọi là giấc mộng thanh quan, nếu như hoàng đế đã không thể trông cậy được nữa, thì người dân hy vọng sẽ có một vị thanh quan, thanh liêm chính trực, còn có thể trực tiếp nói lời can gián lên bề trên, mà không sợ xúc phạm đến những người có quyền có thế. Giấc mộng thứ ba gọi là giấc mộng hiệp khách, nếu như thanh quan cũng không thể trông cậy được nữa, thì hy vọng sẽ có một vị hiệp khách thay dân báo thù rửa hận. Ba giấc mộng của người Trung Quốc thời nay: Giấc mộng thứ nhất gọi là giấc mộng tự do, chính là thoát ra khỏi sự chuyên chế của bộ máy chính trị một đảng độc tài, không còn bị đàn áp bức hại bởi những kẻ thống trị cậy quyền cậy thế cũng như bè lũ quan lại quyền quý hống hách lộng hành, giấc mộng thứ hai gọi là giấc mộng nhân quyền, chính là tất cả người dân đều có thể hưởng quyền lợi bình đẳng, không còn có bất cứ tầng lớp nào có đặc quyền cao hơn quảng đại quần chúng nhân dân để rồi khiến cho những người dân thấp cổ bé họng chỉ có thể uất ức căm hận mà chẳng làm được gì. Giấc mộng thứ ba chính là giấc mộng chính trị dân chủ, cũng chính là chế độ dân chủ toàn dân, tất cả người dân trong cả nước cùng nhau lập ra hiến pháp căn bản dựa trên cơ sở người người bình đẳng, đồng thời sẽ theo đó mà làm việc. Theo NTDTV  
......

Ðừng nghe những gì Tập Cận Bình nói

Ðọc câu tựa đề trên đây, quý vị biết ngay còn một vế thứ hai: Mà hãy nhìn kỹ những gì Tập Cận Bình làm. Trước khi sang thăm Mỹ chuyến này, Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã viết bài trả lời nhật báo Wall Street Journal, trong đó có một đoạn giải thích tại sao Trung Cộng xây phi trường trên các hòn đảo nhân tạo vùng Trường Sa, mà người Tàu gọi là Nam Sa. Ngay câu đầu tiên Tập Cận Bình viết trả lời bài phỏng vấn đã nói một điều gian dối trắng trợn: “Từ thời xưa Nam Sa đã thuộc địa phận Trung Quốc; theo các bằng chứng lịch sử và luật pháp.” Hình Tập Cận Bình Nếu chính quyền Cộng Sản Việt Nam có can đảm và thực lòng yêu nước, họ phải bắt lấy lời khẳng định này mà thách đố đảng Cộng Sản Trung Quốc ra trước một tòa án quốc tế, hai bên cùng đưa ra những bằng chứng lịch sử và pháp lý, mời các luật gia và sử gia thế giới cùng phán đoán xem Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quốc gia nào. Bằng chứng pháp lý gần nhất là hiệp định chấm dứt cuộc Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, khi Nhật Bản chấp nhận từ bỏ chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nga Xô đề nghị trao các quần đảo này cho chính phủ Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch, đề nghị này đã bị bác bỏ với tỷ số 46/3. Thủ tướng chính phủ Quốc gia Việt Nam lúc đó là ông Trần Văn Hữu đã tuyên bố các quần đảo trên thuộc chủ quyền nước Việt Nam, và không một quốc gia nào phản đối. Bằng chứng lịch sử hiển nhiên nhất là hai lần quân đội Trung Cộng đã tấn công và đánh chiếm Hoàng Sa (năm 1974) và đảo Gạc Ma (Trường Sa, năm 1988). Chính quyền Cộng Sản Việt Nam có bổn phận trưng ra khắp thế giới những sự thật trên đây, để cho thế giới thấy Tập Cận Bình nói những lời dối trá không biết ngượng. Trong bài phỏng vấn của Wall Street Journal, Tập Cận Bình còn nói rằng: “Việc xây dựng và tu bổ những tiện nghi trên một số đảo và đá san hô có đóng quân trong quần đảo Nam Sa không nhằm gây ảnh hưởng hoặc nhắm vào một quốc gia nào cả,... Các cơ sở này dựng lên để cải thiện điều kiện sống và làm việc của các nhân viên hàng hải người Trung Hoa, cung cấp các dịch vụ và tiện ích công cộng cho cộng đồng quốc tế, và bảo vệ an ninh cùng quyền tự do hải hành trong biển Nam Trung Hoa tốt đẹp hơn.” Tất nhiên, cả thế giới không ai tin những lời ngụy biện mơ hồ này. Những phi trường, pháo đài, căn cứ quân sự mà Trung Cộng mới xây dựng không hề bảo vệ mà còn “đe dọa an ninh và quyền tự do hải hành.” Bằng cớ là quân lính Trung Cộng đã đe dọa các tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam từ hai chục năm nay, trước khi xây các căn cứ đó. Cả thế giới không ai ngây thơ tin vào những lời gian trá mà Tập Cận Bình mới nói. Cũng không ai tin khi Tập Cận Bình cam kết trước các doanh nhân Mỹ, để mời các công ty sang hoạt động ở Trung Quốc nhiều hơn. Một mối lo của các công ty sống nhờ phát minh, sáng chế là các sáng kiến kỹ thuật của họ bị ăn cắp. Tập Cận Bình đã bảo đảm với họ: “Chính phủ Trung Quốc không làm công việc ăn trộm trong thương mại, cũng không khuyến khích hoặc hỗ trợ ai làm việc đó.” Có ai tin vào lời hứa hẹn “không ăn cắp” của Tập Cận Bình hay không? Năm ngoái, chính phủ Mỹ đã truy tố năm công dân Trung Cộng về tội “ăn cắp bằng kỹ thuật tin học” (hacking) ít nhất ba cơ sở thương mại ở Mỹ: Công ty Westinghouse Electric, công ty khai mỏ Alcoa, và cả một tổ chức lao động: Công đoàn Quốc tế Công nhân Dịch vụ. Cơ quan Ðiều tra Liên bang (FBI) đã thiết lập một mạng chuyên thông tin và nạn gián điệp kinh tế, trong đó Trung Quốc là trọng tâm. Người Tàu sử dụng nhiều kỹ thuật ăn cắp: Ðiều tra về nhân viên các công ty Mỹ, xem có thể mua chuộc hay dọa nạt ai, dùng các mạng giao tế LinkedIn hay Facebook trong công việc điều tra và tuyển mộ này, và chụp hình bên trong các cơ sở thương mại không được bảo vệ. Ngay lúc Tập Cận Bình mới đặt chân trên đất Mỹ được hai ngày, ngày 24 tháng 9, 2015, nhật báo Wall Street Journal loan tin một bản báo cáo mới đã công bố đích danh một tin tặc, mang tên Ge Xing (có thể là Cá Tính, một biệt hiệu vô nghĩa). Báo cáo này do các công ty làm việc cho Bộ Quốc Phòng Mỹ về an ninh tin học soạn (dưới tên gọi chung, ThreatConnect and Defense Group). Ðiều đặc biệt là bản báo cáo có các khám phá mới, cho biết tay ăn trộm tin học Ge Xing làm việc cho Ðơn vị 78020 thuộc ngành tình báo quân đội Trung Quốc. Hoạt động tin tặc của Ðơn vị 78020 mang một mật danh là Naikon, nhắm vào các nước vùng Ðông Nam Á như Cambodia, Indonesia, Malaysia, the Philippines, Thailand và Singapore. Naikon đã đột nhập các máy computer và mạng lưới tin học để thu lượm các tin tức quân sự, ngoại giao, kinh tế, tại các nước trên. Bản báo cáo không nhắc đến tên Việt Nam như một mục tiêu tấn công của Naikon, có thể vì ở Việt Nam quân đội Trung Cộng có những phương pháp rẻ tiền hơn, không cần đến kỹ thuật tin tặc. Ngày Thứ Sáu, 25 tháng 9, hai ông Obama và Tập Cận Bình đều lên tiếng hai nước cam kết không dùng tin tặc tấn công và ăn cắp lẫn nhau, nhưng không ai có thể tin lời ông Tập Cận Bình. Ở nước Mỹ, theo pháp luật, ông Obama không thể ra lệnh cho các công ty tư nhân, từ lớn đến nhỏ. Nhưng ở nước Tàu, Tập Cận Bình có quyền ra lệnh cho tất cả một tỷ người, không những nhân viên chính phủ và quân đội mà còn tất cả các công ty tư nhân nữa. Chủ tịch một công ty tư nhân, Shuanghui (Song Hội) với số bán thịt heo hàng chục tỷ Mỹ kim mỗi năm, thú nhận rằng “Bộ Chính Trị là hội đồng quản trị tối cao” của tất cả các công ty! Trong số các nhà kinh doanh gặp ông Tập Cận Bình ở Seattle có các người lãnh đạo các công ty nổi tiếng đã từng bị tin tặc Trung Cộng ăn trộm, gồm có Boeing, Microsoft, General Motors hay Apple. Năm ngoái, công ty Boeing biết họ là một nạn nhân khi Bộ Tư Pháp Mỹ loan báo đã bắt một người Trung Hoa tên là Stephen Su, làm việc ở Canada, đã ăn trộm các tài liệu về thiết kế máy bay C-17 để chuyển cho chính phủ Trung Cộng. Stephen Su cũng ăn trộm các dữ liệu từ công ty quốc phòng Mỹ Lockheed Martin. Năm nay, Bill Gates đã tiếp ông bà Tập Cận Bình trong biệt thự của mình, cũng như năm 2006 đã tiếp Hồ Cẩm Ðào; mặc dù các tin tặc của chính phủ Bắc Kinh đã nhiều lần tìm cách đột nhập mạng phòng thủ của Microsoft. Tháng 5 năm nay, Bộ Tư Pháp Mỹ cũng truy tố sáu công dân Trung Cộng ăn cắp các tài liệu về sáng chế máy iPhone của Apple. Xa hơn, năm 2012, hai kỹ sư gốc Hoa làm cho của hãng General Motors bị bắt vì ăn trộm các kỹ thuật làm xe hơi hybrid vừa chạy điện vừa chạy xăng để bán cho công ty xe hơi Chery bên Tàu. Các công ty đã từng bị tin tặc Trung Cộng ăn trộm phải kể thêm Google, DuPont, Dow Chemical, Goldman Sachs. Trung Cộng là chính quyền làm công việc ăn cắp tin học với quy mô lớn nhất thế giới; nhưng các công ty Mỹ vẫn tiếp tục làm ăn với họ, vì mối lợi rất lớn. Việc đề phòng, bảo vệ các bí mật thương mại, kinh tế, kỹ thuật là việc họ phải làm thường xuyên, dù có khách hàng Trung Cộng hay không. Chính phủ Mỹ cũng có bổn phận bảo vệ an ninh cho các công ty Mỹ, với bất cứ nước thù hay bạn nào. Tính chung, các công ty trong danh sách S&P 500 mỗi năm thu được 170 tỷ Mỹ kim trong thị trường Trung Quốc. Các công ty như Qualcomm, Intel (tin học), Yum Brands (quán ăn) Wynn Resorts (du lịch, sòng bài) thu lợi ở Trung Quốc nhiều hơn tất cả các nơi khác. Hãng thông tin kinh tế Bloomberg cho biết trong chuyến thăm Mỹ lần này của Tập Cận Bình, các hãng hàng không Trung Quốc sẽ mua tổng cộng 38 tỷ Mỹ kim các máy bay của Boeing. Với những mối hàng như vậy, Boeing đã nhắm mắt bỏ qua những vụ trộm cắp vặt, như kỹ thuật làm chiếc máy bay C-17! Ðầu năm 2015 vụ ăn trộm nổi tiếng nhất được tiết lộ nhắm vào là nhân viên làm việc cho chính phủ Mỹ, với 21 triệu hồ sơ cá nhân bị mất cắp. Mỹ đã tố giác bàn tay Cộng Sản Trung Hoa trong vụ ăn cắp này. Lúc đầu Bắc Kinh nhất định chối cãi, như họ vẫn thường làm. Nhưng trước những lời đe dọa trừng phạt kinh tế, và để xoa dịu tình thế trước khi Tập Cận Bình công du, họ đã chịu nhượng bộ và ngồi xuống thảo luận. Chính quyền Mỹ đợi sau chuyến viếng thăm của Tập Cận Bình, sau những lời tuyên bố long trọng “không ăn cắp lẫn nhau” của hai nguyên thủ quốc gia, sẽ đưa ra các điều kiện cụ thể hơn vào nghị trình. Tòa Bạch Ốc có thể chính thức đưa ra trước những biện pháp có thể thi hành để trừng phạt kinh tế, nếu Bắc Kinh không cam kết làm theo các biện pháp an ninh chung. Ðối với những tay nói dối không biết ngượng và ăn cắp chuyên nghiệp, phải bày tỏ thái độ cương quyết, không nhượng bộ. Ðó là cách chính quyền Obama đối phó với nạn tin do Trung Cộng chủ mưu. Trước các lời dối trá về Trường Sa và Hoàng Sa, Cộng Sản Việt Nam phải chọn thái độ cương quyết như vậy, nếu không sẽ chịu tội trước lịch sử. Theo http://www.nguoi-viet.com
......

QUÂN ĐỘI ÔM MÁC-LÊNIN CHO ĐẢNG NGỦ MÊ

(VNC) Khi Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh cùng ra lệnh Quân đội phải kiên định với hai ông lạ hoắc người nước ngoài Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh để “bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”  thì nhân dân mạt vận là hệ qủa “tất yếu của lịch sử”. Tuyên bố của hai người đứng đầu Quân ủy Trung ương được đưa ra tại Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X (từ 21 đến  24/9/2015) ở Hà Nội. CSVN có trên 5 triệu quân chính quy và trừ bị, nhưng chỉ có 450 đại biểu dự Đại hội, đại diện cho 250,000 đảng viên trong tòan bộ Quân đội.  Như vậy đại đa số quân nhân không phải là đảng viên cũng phải chấp hành quyết định của Đại hội, trong đó có việc đồng ý Danh sách 43 đại biểu đi dự Đại hội đảng tòan quốc XII dự trù diễn ra đầu năm 2016. Danh tính và cấp bậc của 43 Đại biểu không được tiết lộ sau cuộc bầu chọn ngày 23/09 (2015). Trong Diễn văn tại Đại hội, ông Trọng nói một trong những nhiệm vụ quan trọng của Quân đội là : “ Tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bất luận trong điều kiện, hoàn cảnh nào Quân đội cũng phải tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa….Giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với quân đội; củng cố và phát triển mối quan hệ máu thịt giữa Quân đội với Nhân dân.” (Báo Quân đội Nhân dân, 22/09/2015) Chủ trương này xưa như trái đất, càng nghe càng nhàm tai. Có điều là đến bây giờ, sau 26 năm Thế giới  Cộng sản tan rã ở Đông Âu và Nga , sào huyệt của Thế giới Cộng sản, mà ông Nguyễn Phú Trọng vẫn bắt Quân đội phải đội lên đầu 3 cái xác Cộng sản vô hồn để tung hô thì nước tụt hậu và dân tiếp tục chậm tiến là chuyện phải có như gieo gió thì gặt bão. Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng  Phùng Quan Thanh cũng nói  như vòi nước máy của người mới ra từ hang động: “ Kiên định quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và quán triệt sâu sắc đường lối, chủ trương của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.”  (báo Quân đội Nhân dân, 21/09/2015) THÙ ĐỊCH HAY BỊ MA ÁM ? Bên cạnh những thành qủa  5 năm của khoá đảng XI mà đảng bộ Quân đội đã đóng góp, ông Trọng  cảnh giác đất nước vẫn đang phải đối phó với tình trạng mà ông gọi là: “Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ, thúc đẩy phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, phi chính trị hóa quân đội để chống phá sự nghiệp cách mạng, phá hoại sự ổn định của đất nước.” Nhưng thù địch là ai, ít hay nhiều, đàn ông hay đàn bà, hình thù như thế nào mà ghế gớm thế ? Không một đầu óc thông thái nào (nếu có) của Hội đồng Lý luận Trung ương hay Ban Tuyên giáo , kể cả Tổng Bí thư Trọng, cũng không biết chúng là ai, mặt mũi là dân nước nào trên thế giới.  Đảng chỉ biết phát điên lên khi thấy sau 30 năm gọi là “đổi mới nhưng không đầu màu, hội nhập mà không hòa tan”  đã có một số không nhỏ đảng viên và nhân dân không muốn dính dáng gì với đảng nữa mà còn bài bác cái chủ nghĩa thoái trào Cộng sản khiến Lãnh đạo run chân, đảng viên dao động gây rạn nứt trong nội bộ nên gọi đại là “các thế lực thù địch” chứ biết nói sao bây chừ ? Tuy nhiên ông Trọng lại biết rõ mục tiêu chống đảng của kẻ thù khi nói rằng: “ Đối với nước ta, mục tiêu xuyên suốt, nhất quán của các thế lực thù địch là tìm mọi cách xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta, đưa Việt Nam đi theo ý đồ, quỹ đạo của họ. Thủ đoạn của họ là tiếp tục đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hòa bình", tăng cường sử dụng các biện pháp "tấn công mềm", tập trung làm chuyển biến về chính trị tư tưởng, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa " từ trong nội bộ ta ; kích động, chia rẽ, thực hiện âm mưu phi chính trị hóa quân đội; hạ thấp, phủ nhận vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng; xóa bỏ mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội… “ Nhưng “họ” là ai mà cứ cáo buộc vu vơ như thế cả chục năm rồi ? Chẳng nhẽ  kẻ thù lại đang nằm ngay trong tay áo đảng mà lãnh đạo không dám nói ra ? Điển hình như chuyện đảng càng nói dai nói dài chống tham nhũng-lãng phí  “đã tiến một bước”  thì tình hình lại  tiếp tục “vẫn còn nghiêm trọng, tinh vi và phức tạp” năm này qua nằm khác ? Nếu lãnh đạo thật tâm muốn diệt thì cũng chẳng khó, nhưng đàng này  lại nể nang nhau, sợ vứt dây sẽ động đến rừng nên tham nhũng mới có đất thăng hoa. Hay như “truyện dài” cải tổ hành chính thì càng cải lại càng  hành dân hơn. Một số không nhỏ cán bộ, đảng viên cấp lãnh đạo cũng chi biết  “phép vua thua lệ làng” hay chi biết  “sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi” nên chuyện đâu vẫn còn nguyên đó. Còn  hàng ngàn chuyện tréo cẳng ngỗng khác cũng đang diễn ra trong lĩnh vực kinh tế như chủ trương giở người gọi là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, hay tiếp tục  khăng khăng  “kinh tế nhà nước” (hay khối doanh nghiệp có vốn đầu tư của  nhà nước) phải “ giữ vai chủ đạo”  nền kinh tế, dù khối quốc doanh này đã ăn hại đái nát hết năm này qua năm khác khiến nhân dân phải gánh nợ khốn đốn. Trước những bất mãn thiếu công bằng, trì trệ trong phát triển và vướng mắc trong hành động, bộ máy điều hành việc nước đã rơi vào tay các phe nhóm có quyền trong đảng khiến quân đội, thành phần có kỷ luật nhất  cũng bị hoang mang, mất định hướng. Vì vậy ông Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới yêu cầu Quân đội phải : “Chủ động, nhạy bén đấu tranh với các quan điểm, nhận thức sai trái, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, góp phần làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch; chủ động phòng, chống có hiệu quả "tự diễn biến", "tự chuyển hóa ", "phi chính trị hóa quân đội" . Tuyệt đối không được mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác.” Cũng đã lâu lắm không thấy lãnh đảo đảng gọi những cán bộ sao lãng việc học tập chính trị đã  “chệch hướng tư tưởng” . Bây giờ những người này  chẳng nhữ chỉ  “suy thoái tư tưởng” mà còn mất cả “ đạo đức, phẩm chất đảng viên”  và làm nhiều gương mù trong đời sống khiến đảng mất dần cán bộ trong Quân đội, lực lượng rường cột tựa lưng của đảng. Tưởng bấy nhiêu thôi cũng đã đủ  cho tòan quân học tập mệt nghỉ. Nào ngờ Phùng Quang Thanh lại rút kíp cho nổ tiếp qủa lựu đạn khói để phụ họa lấy điểm: “Đối với nước ta, các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động chống phá thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Cùng với đó, tình trạng tội phạm, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp; nền kinh tế còn khó khăn, thiên tai xảy ra ở nhiều nơi… đã tác động trực tiếp đến nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.” Khi cả Tổng Bí thư và Bộ trường Quốc phòng cùng nói một ngôn ngữ “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” và “phi  chính trị hóa” trong quân đội thì vấn đề không còn là chuyện nhỏ mà đã nan giải đe dọa đến sự sống còn của đảng và chế độ. Do đó không lạ khi thấy Thượng tướng Ngô Xuân Lịch, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đã kêu gọi trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội: “Trước những diễn biến phức tạp của tình hình và yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng bộ Quân đội và toàn quân luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tuyệt đối trung thành với Đảng, luôn gương mẫu đi đầu trong mọi khó khăn; là chỗ dựa tin cậy, vững chắc của Đảng, Nhà nước và Nhân dân; chấp hành tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nội bộ đoàn kết thống nhất, có chuyển biến quan trọng về năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; cán bộ, chiến sĩ luôn nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.” VIỂN VÔNG ĐỂ NGỦ MÊ Nhìn chung, các điểm nhấn từ 3  diễn văn của các ông Trọng, Thanh và Lịch  tại Đại hội X của đảng bộ Quân đội chỉ tập trung vào cảnh giác đề phòng  “diễn biến hòa bình”, “các thế lực thù địch” và phải ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “phi chính trị hóa lực lượng võ trang” để quân đội tập trung sức mạnh vào nhiệm vụ bảo vệ Chế độ và tuyệt đối trung thành với Đảng. Tuyệt nhiên không thấy lãnh đạo nói gì đến việc bảo vệ chủ quyền biển đảo đang bị đàn anh Trung Quốc lăm le chiếm thêm ở Biển Đông, hay giành lại Hòang Sa bị quân Tầu chiếm từ tay Việt Nam Cộng hòa tháng 1/1974, hoặc lấy lại 6 bãi đá và đảo Gạc Ma  bị quân Trung Quốc chiếm ở vùng Trường Sa từ năm 1988. Trung Quốc đã biến Hòang Sa thành một thành phố hành chính và các vùng chiếm được ở Trường Sa thành các đảo tân tạo kiên cố để xây dựng căn cứ quân sự, xây sân bay và bến cảng. Ông Nguyễn Phú Trọng bảo Quân đội phải :”Kiên quyết, không để tình hình diễn biến phức tạp và không để các thế lực thù địch lợi dụng tạo cớ can thiệp.” “Kẻ thù địch nào”  mà có thể “tạo cớ can thiệp” ngoài láng giềng Trung Quốc vì ông Nguyễn Phú Trọng đã rất hài lòng với kết qủa trong chuyến thăm Mỹ đầu tháng 7/2015 để đưa quan hệ hai nước Việt-Mỹ lên tầm cao mới. Đối với nước Nga thì chả có vấn đề gì phải lo vì Tổng thống Viladimir Putin đã quyết định coi Việt Nam là đồng minh “quan trọng nhất” của Nga ở vùng Á Châu. Quan hệ Quốc phòng Việt-Nga là một bằng chứng. Việt Nam đã trao việc trang bị khí tài, tân trang,mua vũ khí và để Nga huấn luyện quân đội Việt Nam. Hai nước cũng đã đồng ý thiết lập nhà máy sản xuất vũ khí chung tại Việt Nam, tiếp theo sau các chuyến thăm Nga và thăm Việt Nam của Lãnh đạo cấp cao nhất và Bộ trưởng Quốc phòng hai nước. Nhưng Việt Nam lại đang chuẩn bị đón Chủ tịch, Tổng Bí thư đảng Cộng sản Trung Hoa Tập Cận Bình dự kiến sang thăm Việt Nam cuối năm 2015, ngay trước thềm Đại hội đảng kỳ XII. Tổng thống Mỹ Barack Obama cũng rất có thể sẽ thăm Việt Nam vào tháng 11/2015, sau Hội nghị APEC (Asia-Pacific Economic Cooperation) tại Thủ đô Manila, Phi Luật Tân  từ 18 đến 19/11/2015. Như vậy, thật khó mà hiểu được hậu ý của ông Tổng Bí Thư đảng CSVN khi nói đến ”các thế lực thù địch lợi dụng tạo cớ can thiệp” , tất nhiên phải từ ngoài vào Việt Nam. Và khi đã nói đến hai chữ “can thiệp” thì cũng nên hiểu đó phải là nước “mạnh hơn Việt Nam”. Vậy quốc gia nào mạnh hơn và đang trực tiếp đe dọa Việt Nam, nếu không phải là Trung Hoa phiá  bắc ? Vì vậy, trong diễn văn, ông Trọng đã chỉ thị Bộ Quốc phòng phải : “Tập trung chăm lo xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, kiên định, vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... đi đầu trong đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.… bảo đảm cho Đảng thường xuyên nắm chắc và lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội.” Ông nói: “ Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, Đảng ta chủ trương phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa , hiện đại hóa đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc và bảo vệ nền văn hóa dân tộc; củng cố quốc phòng, giữ vững môi trường hòa bình, an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.” Trong nhận thức của ông Trọng thì không ai nhìn thấy ông có tư tưởng dùng Quân đội  để bảo vệ chủ quyền và sự tòan vẹn lãnh thổ  tổ quốc lại có cùng kế họach chống lại âm mưu mở rộng chủ nghĩa bá quyền và bành trướng lãnh thổ bất hợp pháp vào Việt Nam của “anh bạn “16 vàng” và “4 tốt” Trung Quốc. (“láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và  “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.” ) Nhưng khi ông Trọng muốn có sức mạnh để bảo vệ độc lập, chủ quyền và tòan vẹn lãnh thổ thì liệu ông có biết rằng ông sẽ trắng tay nếu  ông và tướng Phùng Quang Thanh chỉ biết buộc Quân đội phải kiện định Chủ nghĩa đã bị ruồng bỏ Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh và phải tuyệt đối trung thành, bảo vệ đảng lãnh đạo tuyệt đối quân đội và nhân dân, dù mọi người có muốn hay không. Nếu ông Trọng cứ tiếp tục viển vông và tiếp tục vùi đầu ngủ mê với chủ nghĩa  Cộng sản đã bị nhân loại lên án, ruồng bỏ và chôn vùi để áp đặt lên quân đội và nhân dân thì đất nước và nhân dân sẽ mãi mãi đói nghèo, lạc hậu. -/- Phạm Trần
......

Người Việt cố giàu lên, để làm gì?

Trong những ngày mưa ngập lụt lội nhiều nơi tại Việt Nam, có một người đàn ông đi xe hơi hạng đắt tiền đã giận dữ bỏ đi giữa làn nước, vốn đã lên đến thắt lưng, để lại chiếc xe của mình một cách đau đớn bất lực. Như hàng vạn người nghèo khó khác đã ngụp lặn, lội qua giòng nước ô nhiễm đó, chèo kéo từng chiếc xe honda, xe đạp của mình để về nhà, người đàn ông đó chắc cũng có chung một câu hỏi không lời đáp về tương lai mà tiền của là vô nghĩa trước những biến động đang ập đến ngay cửa nhà mình. Qua những biểu đạt than phiền về ngập lụt khắp nơi, qua các trang mạng hay báo chí, có thể thấy rằng không phải con người Việt Nam đã quá sức chịu đựng, mà họ như sực tỉnh trước một giấc mộng dài được vỗ về bởi những người lãnh đạo về sự hoa lệ của đô thị, về những chỉ số phát triển… nhưng chỉ trong tíc tắc đã lộ ra rằng mọi thứ chỉ là sân khấu tạm thời rực rỡ. Khi cánh màn nhung và những lời tuyên bố vừa dứt, hiện thực đã hiện ra tàn nhẫn với tương lai về nhà đen ngòm. Người Việt rầm rộ làm giàu từ nhiều năm nay, tập bỏ quên mọi thứ khác chung quanh mình, mà tưởng chừng miếng cơm manh áo no đủ sẽ giải quyết tất cả, nhưng mọi thứ lại không phải như vậy. Chưa bao giờ người Việt ào ạt in và ngấu nghiến đọc những công thức dạy làm giàu, dạy thành đạt như bây giờ. Thậm chí liều thuốc cường dương dựng đứng giấc mơ thành đạt của Mã Vân (Jack Ma) cũng được nhắc đi nhắc lại như một kim chỉ nam “quá 35 tuổi mà còn nghèo là tại bạn”. Thế nhưng những phong trào uống, chích các loại thuốc như vậy không hề có việc ghi chú chống chỉ định rằng việc thành đạt nóng, phải giàu có cho bằng được đôi khi cũng tạo ra loại ác thú núp kín sau bộ mặt niềm nở với đồng loại của mình. Rất nhiều người trẻ ở Việt Nam muốn nhanh giàu có, nên đã bơm hoá chất vào heo gà và rau xanh, hoặc trở thành những kẻ cướp máu lạnh. Tệ hơn nữa là những kẻ luồn lách và làm giàu bằng gian lận và tham nhũng tiền thuế của nhân dân. Làm giàu và khoe giàu đã trở thành một tín chỉ quan trọng để vuơn lên, leo vào một chuồng trại khác trong xã hội Việt Nam hôm nay. Già hay trẻ cũng vậy! Sự tôn thờ vật chất đã có rất nhiều ví dụ đau lòng như con giết cha mẹ để lấy nhà, lấy đất cho đời thụ hưởng. Nhưng rồi sự giàu có đó, sự tách biệt hãnh tiến đó bất chợt vỡ toang như những chiếc bong bóng xà phòng khi cơn mưa đem lụt lội đến. Họ nhận ra rằng mặt bằng cuộc sống không an sinh, khônh có gì cân bằng với giáo dục, môi trường, an ninh… Mọi hợp đồng bảo hiểm chỉ là trò tận thu chứ không hề cứu rỗi lúc tai ương. Mọi lời hứa vĩ đại trôi qua năm tháng, chìm vào hiện thực. Tương tự  như sự kiện “ngày đen tối” của thị trường chứng khoán Việt Nam ảnh hưởng bởi thị trường chứng khoán Trung Quốc, trong tháng 9/2015 với gần 10 tỷ USD bốc hơi trong vài ngày, đã nhắc khéo rằng dường như mọi lâu đài đang được dựng lên bằng ảo tưởng của một đám đông, và bằng thực tế đáng giá của một vài kẻ đứng sau cánh gà. Một chị bạn để dành được ít tiền sau những năm dài vật lộn mưu sinh, đã gọi hỏi tôi rằng có cách nào đưa con đi du học nước ngoài thật nhanh. Khi tôi hỏi lý do vì sao chị gấp gáp như vậy, thì câu trả lời – không phải của riêng một người – rằng chị cảm thấy lo lắng và muốn đưa con đến một môi trường sống và giáo dục tốt hơn. Một thế hệ mới của người Việt đang tự cào cấu với khát vọng đổi thay cuộc sống của mình nhưng bất lực, nên đành chọn cách chạy đi? Câu chuyện của chị bạn xảy đến cùng lúc với tin những học trò nghèo ở Huế chưa đóng được học phí bị bêu tên dưới cột cờ. Công ty Tôn Hoa Sen kêu gọi từ thiện nhưng chặn nguồn nước của dân thiểu số ở Đạ Mri đế ép lấy đất. Công ty Tân Hiệp Phát thì thay vì xin lỗi người tiêu dùng, bãi nại cho người tố cáo sản phẩm lỗi bị gài bẫy đi tù… thì thay giám đốc người nước ngoài để rửa mặt. Và ở Hà Nội, quan lại chia nhau cai trị trong họ hàng của mình ở huyện Mỹ Đức. Đã có bao nhiêu người Việt đang gắng làm giàu, chỉ để tìm cách cho mình hay con em mình rời xa quê hương? Chắc không ít, và cũng chắc chắn không phải là một khuynh hướng tạm thời. Nhan nhãn trên các trang báo, cũng như tin nhắn rác, là các dịch vụ môi giới đầu tư hay học nghề… ám chỉ việc ra đi, định cư ở nước ngoài. Một người bạn làm công việc này cho biết lượng người gọi vào, tìm hiểu, làm đơn hay hy vọng đang tăng đến mức kinh ngạc, thậm chí diện EB-5 của Mỹ, đòi hỏi phải có ít nhất 500.000 USD cũng vậy . Trong các bài phóng sự đuợc dịch từ báo nước ngoài cho thấy người Trung Quốc làm ra tiền đang ùn ùn tìm cách chuyển tài sản ra khỏi nước hoặc tìm cách di cư sang các nước phương Tây. Chỉ tính trong 10 năm, từ năm 2000 đến 2011, Trung Quốc đã chảy máu hơn 3.500 tỷ USD do người giàu Trung Quốc chuyển ra ngoài. Chưa có con số thống kê nào về người Việt Nam nhưng tin tức vẫn hay hé mở cho biết các đại gia Việt luôn trong thế “an toàn” khi tất cả nhà cửa, tài sản, gia đình… được sắp xếp ở Mỹ, Canada… thậm chí ở ngay Singapore. Cũng như người Trung Quốc, họ đã cố gắng làm giàu bằng mọi cách trên quê hương mình nhưng không chọn tồn tại ở nơi đó. Điều này có ý nghĩa gì? Có cái gì đó thật khó nghĩ về cách vồ vập muốn làm giàu của người Việt hôm nay, kể cả cách sau đó họ che mặt ra đi, bất chấp Việt Nam vẫn đang sáng rực tên trên các bản tin bình chọn là một trong những quốc gia hạnh phúc và đáng sống nhất thế giới. Trong bài thơ Quê hương của nhà thơ Đỗ Trung Quân, đời thật đẹp với những chùm khế ngọt.  Nhưng dường như một lớp người Việt hôm nay không chỉ tranh nhau hái trái, đốn hạ cây mà âm mưu sở hữu bán cả mảnh đất cha ông đã trồng cây để đầy túi. Nhưng lạ thay, sau đó họ lại lặng lẽ  gói ghém ra đi thật xa. Người Việt đang cố gắng làm giàu thật nhanh rồi như vậy, vì sao? Xin đừng ai trả lời. Đừng nói một lời nào cả. Chúng ta hãy cùng lặng im và suy ngẫm. (Hết phần 1) nguồn: Blog Tuấn Khanh
......

Phá Chiến Lược “Xoay Trục Sang Châu Á”: Trung Quốc Tìm Cách Đạt Được Thỏa Thuận Ngầm Để Đi Đêm Với Mỹ Ở Biển Đông

Ngay trước khi Trung Quốc trở thành cường quốc kinh tế số hai thế giới vào năm 2010, nhà nước Cộng sản Trung Hoa đã không hề giấu giếm tham vọng bành trướng, bá quyền của mình! Tháng 5/2009, Trung Quốc trình lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa Liên Hợp Quốc bản đồ “hình lưỡi bò” (còn gọi là bản đồ hình chữ U hoặc đường 9 đoạn) nuốt trọn trên 80% diện tích biển Hoa Nam (tức Biển Đông) và tuyên bố đấy là “lãnh thổ nội thủy” của Trung Quốc. Sau đó Trung Quốc còn khẳng định rằng họ coi Biển Đông là lợi ích cốt lõi của mình cũng như lợi ích của họ đối với Tây Tạng, Tân Cương hay Đài Loan. Cách đây đúng một tuần, hôm 14/9/2015, một Phó Đô đốc Hải quân Trung Cộng dốt nát về kiến thức địa lý nhưng lại thừa máu tham Đại Hán ngang nhiên tuyên bố Biển Đông là của Trung Quốc vì nó mang tên là biển Nam Trung Hoa! Trong vòng 5 năm qua, từ khi trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới, Trung Cộng không che giấu ý đồ muốn Hoa Kỳ lùi lại để họ làm bá chủ Châu Á, trước hết là để yên cho họ độc chiếm Biển Đông, Biển Hoa Đông, và tiếp đó là chia đôi Thái Bình Dương: Trung Quốc nửa phía Tây, Hoa Kỳ nửa phía Đông Thái Bình Dương! Trung Quốc cho rằng đây là sự “phân chia” sòng phẳng và hợp tình, hợp lý giữa hai siêu cường, bất chấp dư luận, đạo lý và pháp luật quốc tế! Trước những bước đi táo bạo của Trung Quốc ở Biển Đông và biển Hoa Đông, Hoa Kỳ đã kịp thời điều chỉnh lại chiến lược của mình ở khu vực này. Chính sách “Xoay trục sang Á châu” của Mỹ ra đời! Ngày 22/7/2011 tại Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN ở Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton tái khẳng định lập trường của Mỹ tại Châu Á-Thái Bình Dương khi bà tuyên bố Hoa Kỳ coi tự do hàng hải và hàng không ở biển Hoa Nam (Biển Đông), biển Hoa Đông cũng như trên Thái Bình Dương và các khu vực khác trên thế giơi là lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ! Một thông điệp rất rõ ràng: Mỹ không chấp nhận và để cho Trung Cộng biến Biển Đông thành cái ao nhà của họ! Khái niệm về chiến lược “Xoay trục sang Châu Á” của Mỹ bắt đầu hình thành! Bốn tháng sau (11/2011), Tổng thống Barack Obama tuyên bố điều động 2.500 lính thủy đánh bộ Mỹ đến đồn trú ở Darwin (Australia). Đây là bước đi cụ thể và mở đầu cho việc triển khai chiến lược “Xoay trục sang Châu Á” hay còn gọi là chiến lược “Tái cân bằng lực lượng” của Hoa Kỳ ở Châu Á – Thái Bình Dương. Trung Quốc vô cùng tức tối và lớn tiếng lên án và tố cáo Mỹ. Song qua những lời tố cáo và lên án này, Trung Quốc càng bộc lộ cho thế giới và các nước Châu Á, đặc biệt các quốc gia ĐNA, thấy rõ dã tâm và tham vọng của chính mình! Ở Châu Á có 3 quốc gia đã, đang và sẽ tác động vào nền chính trị cận đại của Hoa Kỳ và để lại cho cường quốc số 1 thế giới những hệ quả, bài học và cả kinh nghiệm lịch sử vui buồn khó quên : Trước hết là Nhật Bản: Từ cựu thù trong Chiến tranh Thế giới II, Nhật Bản và Mỹ mất có 15 năm để xây dựng mối quan hệ bền chặt rồi trở thành đồng minh chủ yếu của nhau ở Châu Á và Thái Bình Dương khi 2 nước ký Hiệp ước An ninh Mỹ-Nhật vào đầu năm 1960. Khó có thể tưởng tượng được trong hơn nửa thế kỷ qua, tình hình vùng Viễn Đông nói riêng và Châu Á – Thái Bình Dương nói chung sẽ ra sao nếu Hoa Kỳ và Nhật Bản không phải là đồng minh của nhau và giữa 2 quốc gia không tồn tại Hiệp ước An ninh Nhật-Mỹ? Đây là một tấm gương mẫu mực cho mối quan hệ hiện đại trong một thế giới hội nhập ngày nay. Thực tế hơn nửa thế kỷ qua, Hiệp ước An ninh Nhật-Mỹ thực sự là hòn đá tảng cho hòa bình và ổn định ở khu vực này. Nó không chỉ có vai trò bảo đảm hòa bình ở đây mà nó còn giúp xây dựng một nền kinh tế phát triển và tạo nên một nền khoa học-kỹ thuật tiên tiến và hiện đại, phục vụ thiết thực cho lợi ích của nhân dân mỗi nước! Thứ hai là Việt Nam: Cũng là cựu thù của nhau trong một cuộc chiến tranh sai lầm và đẫm máu, Việt Nam và Mỹ phải mất đến 20 năm để bình thường hóa quan hệ ngoại giao với nhau (1995). Rồi hai nước phải mất thêm 20 năm nữa mới có thể trở thành bạn bè của nhau (2015). Việt Nam và Hoa Kỳ rồi đây chắc chắn sẽ là đồng minh của nhau, nhưng điều này có lẽ sẽ cần thêm một vài năm nữa. Việc Việt Nam và Hoa Kỳ có sớm trở thành đồng minh của nhau hay không, điều này không chỉ phụ thuộc vào ý chí của 2 nước mà nó còn phụ thuộc vào yếu tố khách quan của tình hình Biển Đông. Việc TBT Nguyễn Phú Trọng của ĐCSVN vừa qua được mời thăm chính thức Hoa Kỳ là một diễn biến có nhiều ý nghĩa, không chỉ đối với Việt Nam mà còn cả với các nước khác trong khu vực. Ba là Trung Quốc: Mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ trong 66 năm qua kể từ khi nước CHNDTH ra đời (1949) đã để lại nhiều dấu ấn thăng trầm trong lịch sử bang giao giữa 2 nước. Trung Quốc và Mỹ có thật tâm muốn và có thể trở thành đồng minh của nhau được không? Đây là một vấn đề không khó để trả lời! Từ khi nước Trung Hoa Cộng sản ra đời đến nay, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ Nhà nước cộng sản này muốn là bạn của Mỹ chứ đừng nói đến đồng minh! Nguyên nhân vì sao ư? Rất dễ hiểu: Người Trung Hoa vốn từ lâu đã tự coi mình là trung tâm của thiên hạ, giới cầm quyền của họ luôn có máu bành trướng bá quyền, muốn làm bá chủ địa cầu, nay cộng thêm bản chất độc quyền toàn trị cộng sản thì làm sao họ có thể là đồng minh của Mỹ, đi cùng Mỹ để “chia sẻ trách nhiệm” trong việc gìn giữ hòa bình và phát triển phồn vinh ở trên thế giới này? Ngay từ thập niên 1960s, khi thực lực còn hạn chế, nhưng Trung Quốc đã luôn tìm mọi cách tranh giành ảnh hưởng với Liên Xô để trở thành kẻ cầm đầu của cái gọi là “Phe Xã hội Chủ nghĩa” và “Phong trào Cộng sản Quốc tế” đấy thôi? Cuộc chiến tranh biên giới Xô – Trung năm 1969 đã phần nào lột tả tham vọng này của Trung Quốc! Trong 66 năm qua và từ nay về sau, Trung Quốc nếu không là kẻ thù giấu mặt thì cũng là đối thủ công khai của Mỹ, chưa khi nào là bạn của nhau, còn đồng minh thì không bao giờ! Người Mỹ cần ghi nhớ điều này kẻo sẽ rất dễ bị Trung Quốc lừa phỉnh và huyễn hoặc! Điểm lại những sự kiện của mối quan hệ trong hơn 60 năm qua giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, người ta không khó để thấy thực chất của mối quan hệ này. Ngay sau khi Trung Hoa cộng sản ra đời, Mao Trạch Đông đã xúi Kim Nhật Thành gây ra cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) với mưu đồ đẩy Mỹ đương đầu với Liên Xô để họ ở giữa trục lợi. Ngược lại, Staline cũng âm thầm nuôi ý đồ mong cuộc chiến này sẽ dẫn đến đụng độ Mỹ-Trung để mình “tọa sơn quan hổ đấu”! Rồi đến cuộc chiến tranh Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc đều ra sức giúp đỡ miền Bắc Việt Nam với ý đồ và động cơ riêng của mỗi nước, nhưng có điểm chung là nhằm làm cho Mỹ phải “sứt đầu mẻ trán”. Khi bị sa lầy, Mỹ thấy nếu không rút ra khỏi cuộc chiến này thì sẽ thất bại, nên mùa hè năm 1971, Nixon cử Kissinger bí mật đi Bắc Kinh để tìm lối thoát. Và rồi việc gì phải làm đều đã được làm! Tháng 2/1972, Richard Nixon thăm Trung Quốc và Thông cáo chung Thượng Hải được ký kết: Trung Quốc giúp Mỹ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam “trong danh dự”, đổi lại Mỹ chia sẻ quyền lực với Bắc Kinh ở Châu Á, bật đèn xanh cho Trung Quốc xâm chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, rồi Mỹ chơi “con bài Trung Hoa” (China Card) để biến Trung Quốc thành “đồng minh trên thực tế” nhằm ngăn chặn và chống lại Liên Xô! Bắt đầu từ đây, Mỹ đã tạo ra “một con quái vật Frankenstein” để rồi sau đó Mỹ phải ra sức đối phó cho đến tận bây giờ! Sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Mỹ và chiếm được chiếc ghế thường trực ở Hội đồng Bảo an LHQ, Trung Quốc đã mở chiến dịch thâm nhập sâu rộng và dữ dội vào lãnh thổ Hoa Kỳ, từ liên bang đến khắp 50 tiểu bang để đánh cắp mọi bí mật quốc gia của Mỹ: Từ bí mật kinh tế, bí mật quân sự đến các bảo bối KHKT của đối thủ, nhất là các bí mật hạt nhân và hàng không vũ trụ! Trung Quốc đã thả cửa thu thập và đánh cắp đủ thứ, không loại trừ lĩnh vực nào. Sau 40 năm nhìn lại, chú Sam bừng tỉnh và hoảng hốt thấy rằng con quái vật mình tạo ra nay đang thực sự thách thức và đe dọa chính mình! Sau 4 thập kỷ tung hoành trên đất Mỹ, đội quân thứ năm Hoa kiều đã giúp nước mẹ trở thành một siêu cường thực thụ. Trung Quốc không giấu mình nữa, nó muốn trỗi dậy càng nhanh càng tốt, nó cảm thấy đã đủ lông đủ cánh để xưng hùng xưng vương với thiên hạ. Nó thực sự là con quái vật Frankenstein mà chính Mỹ đã tạo ra. Nay đã đến lúc nó thực hiện “Giấc mơ Trung Hoa” (China Dream). Ai có đủ dũng khí để ngăn cản nó đây, kể cả kẻ đã tạo ra nó? Tuy vậy, để cho chắc ăn phải làm phép thử. Phép thử đầu tiên là quần đảo Senkaku. Phải đòi Nhật Bản “trả lại”, nếu không sẽ dùng vũ lực “thu hồi”! Mỹ liền tuyên bố: “Quần đảo Senkaku là nằm trong phạm vi bảo vệ của Hiệp ước An ninh Nhật-Mỹ”! Nhà cầm quyền Bắc Kinh thấy khó nuốt, liền buông. Trung Quốc chuyển sang thử sức ở Biển Đông và coi đây là chiến trường chính. Đầu tiên là dùng giàn khoan HD981 để đo phản ứng của dư luận. Thấy không thuận, họ tạm lui. Nhưng quan trọng hơn là Trung Quốc đã táo bạo và ráo riết bồi đắp, tôn tạo các đảo đá và san hô mà họ đã chiếm được ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam thành các đảo nhân tạo, xây dựng nhiều đường băng và các công trình quân sự ở đây, biến chúng thành các căn cứ quân sự nhằm kiểm soát Biển Đông. Tới đây, nhiều khả năng Trung Quốc sẽ lập vùng nhận dạng hàng không (AIDZ) trước khi hiện thực hóa việc độc chiếm Biển Đông! Trước tình hình đó Mỹ đã mạnh mẽ lên tiếng phản đối và yêu cầu Trung Quốc dừng ngay các hoạt động này lại. Ngày 18/7/2015, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ là Đô đốc Scott Swift đã trực tiếp dùng máy bay trinh sát hiện đại P-8A Poseidon bay thị sát trên quần đảo Trường Sa nơi Trung Quốc đang xây dựng các cơ sở quân sự trên các đảo nhân tạo. Sau đó Hải quân Mỹ tuyên bố sẽ điều phi cơ và tàu chiến đi tuần tra vào vùng không phận và hải phận 12 hải lý nơi Trung Quốc đang bồi đắp, tôn tạo các đảo san hô và đảo đá chìm. Trung Quốc thực sự lo sợ nếu Mỹ tiến hành các hoạt động này. Nhưng rất tiếc cho đến nay, Hải quân Mỹ chưa được lệnh thực hiện lời tuyên bố trên. Điều này đã đánh đi một tín hiệu sai rằng Mỹ ngại đối đầu! Một tháng rưỡi sau, ngày 2/9 vừa qua, Trung Quốc điều 5 tàu chiến tới eo biển Bering, ngoài khơi bờ biển Alaska của Mỹ và “vô tình đi ngang qua” hải phận 12 hải lý của chuỗi đảo Alieutian thuộc tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ. Bằng động thái này, ngoài việc thử phản ứng của Mỹ, rõ ràng Trung Quốc muốn thể hiện sức mạnh quân sự nhằm mục đích đổi chác với Mỹ sau này! Ngoài ra, thời gian qua Mỹ tố cáo và mạnh mẽ lên án việc Trung Quốc tiến hành cuộc tấn công mạng nhằm đánh cắp bí mật quân sự, công nghệ và sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ. Tin tặc của quân đội Trung Quốc đã thâm nhập vào hàng triệu máy tính trên đất Mỹ để lấy cắp các dữ liệu cá nhân của các quan chức Chính phủ Hoa Kỳ. Chắc chắn Trung Quốc sẽ dùng những “ngón võ” này để đòi đổi chác nhằm ép Mỹ phải thỏa thuận ngầm với họ trong những vấn đề song phương khác, nhất là các vấn đề ở Biển Đông. Trung Quốc là bậc thầy trong việc dụ nước khác đi đêm cùng họ trong những vấn đề quốc tế để họ trục lợi hoặc để họ tránh đối đầu với địch thủ chính một khi họ ở thế yếu! Con quái vật Frankenstein do chính Mỹ tạo ra trước đây thì ngày nay nó đang quay lại thách thức Mỹ. Liệu Mỹ có bị khuất phục? Nếu Mỹ bị khuất phục, chấp nhận thỏa thuận ngầm và đi đêm với Trung Quốc thì hẳn Mỹ sẽ mất nhiều và rồi sẽ mất hết, không chỉ quyền lợi quốc gia mà cả bạn bè, đồng minh của Mỹ tại khu vực chiến lược rộng lớn này của thế giới! Rồi chẳng bao lâu sau đó, con quái vật Frankenstein to lớn hơn sẽ gõ cửa nước Mỹ để đòi chia đôi tài sản cho mà xem! Người Mỹ có câu: “Better soon than late, better late than never”! Tuy con quái vật Frankenstein này do Mỹ tạo ra từ những năm 1970s, nay dù đã lớn mạnh nhưng vẫn chưa đủ sức để so găng với Mỹ. Nước Mỹ vẫn còn kịp để hành động! Nhưng nếu nước Mỹ ngày nay lại mắc sai lầm như 40 năm về trước, chắc chắn Trung Quốc sẽ được đằng chân lân đằng đầu! Bởi vậy nhất thiết đừng để con quái vật Frankenstein này trở thành con quái thú Frankenstein hung bạo gấp nhiều lần hiện nay. Đến lúc đó nước Mỹ dù có quyết tâm đến đâu cũng khó lòng còn ngăn chặn được nó! Hà Nội, ngày 21/9/2015. N.Đ.Q. Nguồn: http://boxitvn.blogspot.com/2015/09/pha-chien-luocxoay-truc-sang-chau-tr...
......

Rõ chán!

Trong khi lãnh tụ các quốc gia khác có những hành động gần dân thì lãnh tụ Việt Nam lại thích gần với nghị quyết, với lý thuyết cộng sản và nhất là gần với chủ trương xã hội chủ nghĩa. Loa tuyên truyền trên đường phố Hà Nội. Trơ lì đến độ khó hiểu Mỗi lần đi đâu làm gì, những chiếc loa phường thu nhỏ ấy lại phát biểu như mở lại cái loa cho dân chúng nghe còn khuôn mặt, nét biểu cảm, nụ cười… giống như những chiếc mặt nạ bằng sáp, bóng nhẫy và trơ lì đến độ khó hiểu. Tại sao một cơ thể có sự sống bên trong lại tự trang bị cho mình chiếc mặt nạ của người chết như vậy? Người chết ấy là Lenin, là Hồ Chí Minh và ngay cả Chủ nghĩa xã hội vừa mới sinh ra cũng đã chết non tự thuở nào rồi. Còn người sống thì hình như các bậc minh quân đời nay có vẻ lảng tránh, càng xa càng tốt. Lảng tránh vì nếu lỡ miệng nói vô mà làm không được thì không biết xử sao cho tiện. Chẳng hạn như “mùa mưa trên thành phố Hồ Chí Minh” mà người dân đang nghêu ngao hát khi dắt xe bì bõm trên con đường từ sở về nhà. Cái cảnh lụt trên cạn năm nay hình như hơn vài năm trước nhưng người dân không biết kêu ai. Họ biết quá rõ hệ thống này vì không ai là người trách nhiệm cả. Mọi ông quan lớn nhỏ đều có cách trả lời rập khuôn với nhau, những chiếc khuôn đúc từ thời cải cách ruộng đất nay vẫn tỏ ra vừa vặn với mọi tình huống. Hỏi ông giám đốc hệ thống thủy lợi thành phố thì báo chí đã hỏi rồi. Ông ấy nói chắc như đinh đóng cột rằng đến năm 2020 thì sẽ không còn lụt lội trong thành phố thân yêu của chúng ta nữa. Nói thế cho vuông vì suy cho cùng thì ông ta cũng chỉ là tép riu, có quyền lực gì mà giải quyết một vấn nạn to đùng như cơn hồng thủy hiện nay cho được. Ông to hơn là UBND thành phố thì nói phải cần gần 70 ngàn tỷ mới có thể thu vén nước “vào một mối”. Ý của mấy ông này thì người dân biết tỏng, ra giá cho trung ương, các anh không chi hay chi không đủ thì bọn này không làm. Nói theo kiểu bài phé, thấu cáy xem ai là người lạnh chân chạy trước. Nhưng mấy ông Sài Gòn lầm tợn. Trung ương là ai mà dễ bị bắt nọn vậy các ông? Họ là trời phật, là thánh thần là thượng đế chứ nào phải người phàm mắt thịt mà các ông hăm dọa? Các thượng đế đang vắt trán suy nghĩ chuyện to lớn chứ hơi sức đâu mà để ý tới vụ lụt lội. Có ai chết không? Có ai vì nước ngập mà mất nhà mất cửa không? Có trường học nào bị đóng cửa vì ngập không? Có quán bia ôm nào ế không thay thậm chí có tiệm cà phê nào vì ngập mà lên giá không? Có ông nào bị ngập cả ba chân mà mất khả năng chi trả cho vợ không? Đấy, tất cả những câu hỏi rất… kinh tế, rất sát sườn này không có câu trả lời nào phủ định cả thì chúng tôi tại sao lại bận tâm tới chứ? Chúng tôi còn phải lo sang Nhật, sang châu Âu xin tiền về lo hạ tầng cơ sở cho mấy người nữa kia. Nhà cháy phải chữa từ nóc, tiền xin về phải có nơi bỏ vào, không lẽ lại bỏ vào cái lỗ đen khổng lồ của Sài Gòn mà quên đi khuôn mặt cần phải tu sửa, tân trang là các con đường xa lộ thênh thang sẽ nói lên sự phồn vinh của đất nước hay sao? Chúng tôi lo tầm vĩ mô còn chuyện nước nôi thì các người cứ tự lo lấy vậy. “Của dân, do dân, vì dân” Nhà nước là “của dân, do dân, và vì dân”, câu nói kinh điển này không bao giờ phai lạt. “Của dân” thì liệu mà vun quén, tại sao vung tay quá trán cho nhiều vào bây giờ lụt lội lại than thân trách phận. “Do dân” là như vậy đấy, hãy tự xét lại xem do dân là gì há chẳng phải là do các ông bà đã không tự biết quyền hạn của mình nên chúng tôi phải tự bơi vào chiếc ghế này trongkhi các người không một lời tha thiết thì nay kêu gào ai nữa? Một phụ nữ đi qua một bức tranh tuyên truyền về bầu cử ở trung tâm thành phố Hà Nội, ảnh minh họa chụp trước đây. “Vì dân” là ý nói tới chúng tôi. Này nhé, nếu không vì các vị thì chúng tôi làm gì phải lê lết ăn xin khắp chốn như vậy? Vì dân là thế, nhưng sự hy sinh nào cũng có giới hạn của nó. Bảo nhà nước lạnh nhạt và vô tư trước các công trình công cộng thì cũng đúng phần nào nhưng trên tổng thể nó còn những lý do khách quan khác mà nhà nước chưa khắc phục được. Chẳng hạn như muốn làm hệ thống thoát nước cho hiệu quả thì khoa học kỹ thuật của ta chưa xứng tầm đành phải nhờ cậy bạn bè bốn phương. Mà bạn bè thân thiết có tiền bạc, có khả năng nhất là…Trung Quốc thì các người lại đãi bôi, chê khen này khác. Còn Nhật thì làm cái gì cũng đòi hỏi đúng tiêu chuẩn quốc tế. Họ không chịu hiểu hoàn cảnh của chúng ta là chưa theo kịp những chuẩn mực ấy trong thời gian hiện nay, họ đòi phải công khai, phải minh bạch thì lấy đâu ra trong khi cả hệ thống của chúng ta cũng công khai minh bạch trong nội bộ lắm rồi. Công khai ra hết để bọn xấu lợi dụng đánh phá còn thời giờ đâu mà xây dựng chủ nghĩa xã hội? Bọn xấu đầy rẫy ra đấy chứ nào phải ít ỏi gì. Ngay cái tượng đài của bác được dựng lên tại Sơn La để người dân tộc anh em trên đó thỏa lòng khao khát thì bọn xấu lại nói là phung phí, mượn cớ tham nhũng đục khoét. Có ai chứng minh được số tiền 1.400 tỷ là quá dư so với công trình kiến trúc đồ sộ mà nhân dân Sơn La ao ước muốn được thấy hay không? Người nghèo thì nhiều như trấu làm sao giải quyết một ngày một bữa mà hết?  Tại sao không trang điểm bên ngoài một chút để gây thanh thế với thế giới, để họ hiểu rằng ta không tôn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ bằng cái miệng mà chúng ta hết lòng hết sức vì sự nghiệp của người, (viết hoa). Nước lên rồi nước sẽ xuống. Dân ướt thì có lúc sẽ khô, chỉ có chúng tôi là trăm bề khó khăn, khốn đốn. Ăn không no vì lo cho dân mà nào ai hiểu. Bọn xấu lại nói là chúng tôi tiệc tùng thái quá nên trời phạt bao tử bị dội thực. Chúng tôi không sợ ai đến nỗi phải nói lời dối trá cả, chỉ lo cho thân phận người dân nước Việt thua kém người ta mà sinh ra quẩn trí. Nỗi lo ấy cộng thêm với Hội nghị Trung ương thứ 12 gần kề càng làm cho anh em chúng tôi thao thức. Hãy suy nghĩ kỹ lại đi, các người chỉ lội nước có một khúc mà la trời la đất. Chúng tôi đã và đang lội ngược dòng cuộc sống mà có ai đưa tay ra kéo phụ một khúc hay chưa? Rõ chán. Cánh Cò, Việt Nam 17/09/2015
......

Quyền tự do lập hội và những bất cập trong dự thảo luật về hội

Quyền tự do hội họp, lập hội của công dân được qui định trong điều 10 trong bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam vào năm 1946. Và cho tới ngày 20 tháng 5 năm 1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ký sắc lệnh số 102/SL/L004 để ban hành Luật về Hội. Tiếp theo các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều ghi nhận quyền tự do lập hội. Và bản Hiến pháp mới năm 2013 qui định quyền tự do lập hội tại điều 25. Tọa đàm về dự thảo Luật về Hội do Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam tổ chức, ảnh minh họa chụp trước đây. Trải qua gần 70 năm kể từ khi quyền lập hội được xác nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên thì công dân Việt Nam vẫn chưa được tự do và tự nguyện thành lập lên các hội đoàn, các tổ chức, đảng phái chính trị của mình. Có rất nhiều các tổ chức hội đã được thành lập trong thời gần 70 năm, nhưng đó là các tổ chức hội đoàn của nhà nước, do nhà nước thành lập để thực hiện các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền, không phải theo mục đích và ý trí của Nhân dân. C ác tổ chức này nhận sự tài trợ từ ngân sách, chịu sự kiểm soát về hoạt động cũng như về nhân sự của cơ quan nhà nước và đảng cầm quyền. Cơ quan quản lý nhà nước có quyền can thiệp vào hoạt động cũng như nhân sự lãnh đạo của các tổ chức hội đoàn. Điều này làm mất đi bản chất của tổ chức hội là tự do, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm của các thành viên. Vừa qua, Quốc hội Việt Nam đã đưa dự thảo Luật về Hội ra xin ý kiến Nhân dân. Với tư cách là một công dân, một luật sư đã hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền từ năm 2000. Tôi đưa ra những nhận xét, đánh giá riêng của mình về các qui định trong bản dự thảo Luật về hội. Theo đó, Dự thảo luật về hội đã trao cho cơ quan quản lý nhà nước quyền can thiệp quá sâu vào quá trình thành lập, nhân sự và hoạt động của hội. Dự thảo luật đã không tôn trọng nguyên tắc tự do, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm của tổ chức hội, và nhằm mục đích hạn chế, kiểm soát quyền tự do thành lập hội. Đồng thời các qui định này cũng đi ngược với luật pháp quốc tế. Theo đó, lời nói đầu của Nghị quyết 15/21 của Hội đồng Nhân quyền khẳng định: “Quyền tự do lập hội là một trong những thành tố thiết yếu của xã hội dân chủ." ‘Các qui định xâm phạm trực tiếp đến quyền tự do lập hội’ 1/ Khoản 3 điều 9 qui định về điều kiện thành lập Hội: “Lĩnh vực hoạt động chính không trùng lắp với lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập hợp pháp trước đó trong cùng phạm vi hoạt động.” Qui định này sẽ hạn chế các tổ chức mới được thành lập sau này. Bởi các hội do chính quyền thành lập trước đó đã bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Qui định này cũng không tạo ra sự cạnh tranh trong hoạt động hợp pháp của các tổ chức hội. Qui định này tạo ra sự độc quyền và độc đoán của các tổ chức hội do nhà nước thành lập. Qui định này đã tước quyền tự do lựa chọn hay thành lập tổ chức hội theo nhu cầu của công dân. Bởi vậy, cần phải loại bỏ khoản 3 điều 9. 2/ Khoản 1 điều 10: “Công dân, tổ chức VN có nhu cầu thành lập hội phải dự kiến danh sách những người tham gia ban vận động hội, đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận ban thành lập hội.” Ban vận động thành lập hội có ý nghĩa quyết định đến việc thành lập hội. Ban vận động thành lập hội mà không được chính quyền công nhận thì hội sẽ không bao giờ được thành lập. Qui định này buộc ban vận động thành lập hội phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận là vô lý. Đây sẽ là điều kiện để chính quyền loại bỏ ngay từ đầu những người tham gia thành lập hội mà chính quyền không ưa thích. Hội Anh Em Dân Chủ. (Ảnh minh họa) Để đảm bảo quyền tự do thành lập hội thì Ban vận động thành lập hội chỉ cần gửi danh sách đăng ký với cơ quan có thẩm quyền mà không cần có văn bản chấp thuận. Bởi vậy, khoản 1 điều 10 phải được sửa lại như sau: “Công dân, tổ chức VN có nhu cầu thành lập hội phải dự kiến danh sách những người tham gia ban vận động hội, danh sách được gửi đăng ký với cơ quan có thẩm quyền mà không cần có văn bản chấp thuận.” 3/ Khoản 4 điều 21 qui định: “Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và bãi nhiệm chức danh người đứng đầu hội.” Việc bầu người đứng đầu hội là do đa số các thành viên của hội tự do lựa chọn và quyết định. Cơ quan quản lý nhà nước không có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của hội. Và không có quyền công nhận hay bãi nhiệm chức danh người đứng đầu hội. Bởi vậy, cần phải hủy bỏ khoản 4 điều 21 ra khỏi dự thảo luật. ‘Các qui định can thiệp thô bạo vào thủ tục, hồ sơ và quá trình thành lập hội’ 4/ Khoản c điều 11 qui định: “Trong hồ sơ đăng ký thành lập hội phải có Quyết định công nhận danh sách thành viên ban vận động thành lập hội;” Khoản 1 điều 10 đã được sửa đổi, nên phải loại bỏ khoản c điều 11. 5/ Khoản d điều 11 qui định: “phải có danh sách và đơn đăng ký tham gia hội của công dân, tổ chức.” Qui định này là không cần thiết, đơn đăng ký tham gia hội thuộc quyền lưu trữ của tổ chức hội. Cơ quan quản lý nhà nước không cần giữ các đơn đăng ký tham gia hội của công dân. Nên loại bỏ khoản d điều 11. 6/ Khoản 3 điều 13 qui định: “Ban lãnh đạo hội phải gửi báo cáo kết quả đại hội, đề nghị công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Khoản 4 điều 13 qui định:“Cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận điều lệ và chức danh người đứng đầu hội.” Qui định này cho phép cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào tổ chức hội. Điều lệ hội và người đứng đầu hội là do đa số các thành viên của hội thông qua và bầu lên. Bởi vậy không cần cơ quan quản lý nhà nước công nhận. Qui định tại khoản 3 của điều 13 này cần phải sửa lại: “Ban lãnh đạo hội phải gửi thông báo kết quả đại hội, điều lệ và chức danh người đứng đầu hội đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Hủy bỏ qui định tại khoản 4 điều 13. 7/ Vì khoản 3 của điều 13 phải được sửa đổi và khoản 4 phải bị hủy bỏ. Do vậy phải bỏ qui định về thẩm quyền công nhận điều lệ và người đứng đầu hội trong khoản 1 điều 14. Các qui định tiếp theo dưới đây can thiệp vào quá trinh hoạt động của hội. 8/ Khoản 6 điều 20 qui định: “30 ngày trước khi đại hội, ban lãnh đạo hội phải gửi thông báo bằng văn bản tới cơ quan nhà nước có thẩm quyền và chỉ được tổ chức đại hội khi có ý kiến chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.” Qui định này cho phép cơ quan quản lý nhà nước can thiệp vào các hoạt động nội bộ của tổ chức hội. Qui định này vi phạm nguyên tắc hoạt động độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức hội. Ban lãnh đạo hội chỉ cần gửi thông báo về thời gian, địa điểm diễn ra đại hội của tổ chức hội. Không cần phải có ý kiến chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước. Do vậy phải hủy bỏ khoản 6 điều 20 ra khỏi dự thảo. 9/ Trong khoản 7, 8 điều 20 lập lại qui định theo khoản 3,4 của điều 13. Do vậy phải hủy bỏ khoản 7, 8 của điều 20. 10/ Điều 27 qui định việc tạm đình chỉ hoạt động của hội: Khoản d điều 27 qui định việc tạm đình chỉ hoạt động khi hội tổ chức đại hội mà chưa có ý kiến của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do khoản 6 điều 20 phải hủy bỏ, nên khoản d điều 27 cũng phải hủy bỏ. Khoản đ, điều 27 qui định: “Hết thời hạn 06 tháng kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu hội giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhưng hội không giải quyết để tranh chấp kéo dài.” Việc giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ hội sẽ do ban lãnh đạo và các thành viên tự giải quyết. Việc không thể giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng hòa giải nội bộ thì sẽ chuyển sang giải quyết tại tòa án theo thẩm quyền. Cơ quan quản lý nhà nước không nên can thiệp vào vấn đề này. Do vậy cần phải hủy bỏ khoản đ điều 27 ra khỏi dự thảo luật. 11/ Điều 31. Nội dung quản lý nhà nước về hội. Bỏ thẩm quyền công nhận điều lệ và người đứng đầu hội ở khoản 2; Bỏ thẩm quyền quản lý việc ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế, gia nhập các tổ chức quốc tế của hội, triển khai các hoạt động đối ngoại, tiếp nhận viện trợ của các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Bởi qui định này cho phép cơ quan quản lý nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động độc lập của hội. 12/ Điều 32. Trách nhiệm quản lý nhà nước về hội Qui định này trao thẩm quyền cho UBND cấp tỉnh trong khoản 4 và UBND cấp huyện trong khoản 5 về việc công nhận điều lệ và người đứng đầu hội. Các qui định này cần phải bãi bỏ vì nó cho phép cơ quan quản lý nhà nước can thiệp vào nội bộ của tổ chức hội. Vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện, tự chịu trách nhiệm của tổ chức hội. Kết luận: Qua các phân tích trên cho thấy dự thảo luật về hội chưa tôn trọng quyền tự do lập hội của Nhân dân. Các qui định trong dự thảo luật về hội hạn chế các công dân, tổ chức Việt Nam thành lập các hội mới có lĩnh vực hoạt động chính trùng với các hội thành lập trước đó. Bởi chỉ khi có nhu cầu thì công dân và tổ chức Việt Nam mới tiến hành thành lập hội nhằm mục đích thỏa mãn các nhu cầu sinh hoạt của mình. Trong khi các hội đã được thành lập trước đó không phù hợp hay không đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của họ. Dự thảo luật về hội đã trao cho cơ quan quản lý nhà nước quyền can thiệp quá sâu vào quá trình thành lập,nhân sự và hoạt động của hội. Dự thảo luật về hội đã không tôn trọng nguyên tắc tự do, tự nguyện và tự chịu trách nhiệm của tổ chức hội. Rất rõ ràng, dự thảo luật về hội nhằm mục đích hạn chế, kiểm soát quyền tự do thành lập hội của công dân. Đồng thời các qui định này cũng đi ngược với luật pháp quốc tế. Lời nói đầu của Nghị quyết 15/21 của Hội đồng Nhân quyền có viết: “Quyền tự do lập hội là một trong những thành tố thiết yếu của xã hội dân chủ. vì nó cho phép các thành viên "bày tỏ quan điểm chính trị, tham gia vào các mục tiêu văn học và nghệ thuật và các hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa khác, tham gia vào việc thờ phụng tôn giáo và các niềm tin khác, hình thành và gia nhập các tổ chức công đoàn và hợp tác xã, bầu chọn những người lãnh đạo đại diện cho mình và buộc họ phải chịu trách nhiệm" Đồng thời chính sự tác động qua lại và phụ thuộc giữa quyền tự do hội họp và lập hội với các quyền khác khiến chúng trở thành những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ nhà nước tôn trọng việc hưởng thụ các quyền con người khác của công dân. Vì vậy để đảm bảo quyền tự do lập hội của công dân, dự thảo luật cần phải loại bỏ, sửa đổi những điều luật không phù hợp. LS Nguyễn Văn Đài, viết từ Hà Nội - - - Luật sư Nguyễn Văn Đài là một nhà hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền từ năm 2000. Năm 2006, tôi đã giúp phục hoạt đảng Dân chủ Việt Nam; Thành lập tổ chức Công Đoàn Độc lập; thành lập Ủy Ban Nhân Quyền Việt Nam. Tôi là sáng lập viên của Hội Anh Em Dân Chủ, một tổ chức XHDS được thành lập một cách tự do, tự nguyện từ tháng 4 năm 2013. Trong hơn 2 năm qua, tôi cũng đã tư vấn và giúp đỡ cho nhiều tổ chức XHDS độc lập khác ra đời. Nguồn: RFA
......

Cuộc đấu tranh này đâu phải của riêng ai?

Tin tức Tù Nhân Lương Tâm Tạ Phong Tần được trả tự do (và chị đồng ý) lên đường đi Mỹ loan nhanh trên Facebook và một lần nữa (tương tự như khi anh Điều Cày ra đi cách đây 1 năm) có nhiều dư luận vui/buồn và kể cả bất bình/thất vọng trước sự việc này. Ở một góc độ cá nhân nhiều người vui cho chị, mừng cho chị thoát cảnh ngục tù, chấm dứt 8 năm nghiệt ngã. Và cũng ở một góc độ cá nhân nhiều người buồn khi kết cục của sự việc trả tự do là một cuộc lưu vong, chị không còn được lưu lại trên quê hương mình. Ở một thái cực (extreme) khác, một số người chê trách cho rằng “vậy là xong” đi là hết. Là bỏ cuộc, là thất bại. Ra nước ngoài thì coi như hết, khỏi đấu tranh gì nữa, v.v… Tôi không nghĩ thế. Mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau. Khi chúng ta chưa thể, hay không thể dốc toàn cuộc sống (hay mạng sống) của chính mình cho công cuộc đấu tranh thì chúng ta lấy quyền gì để đòi hỏi người khác phải tiếp tục hy sinh [thay mình]??? Cuộc đấu tranh này là của cả một dân tộc, chứ có phải của riêng Điếu Cày, hay Tạ Phong Tần hay Linh mục Lý để rồi đòi hỏi những người đó phải suốt đời đứng đầu sóng ngọn gió … [thay cho mình]? Mỗi người có một sự lựa chọn và quyền được lựa chọn làm gì với những ngày tháng của đời mình. Chính chúng ta (những người Việt hải ngoại) cũng đã từng quyết định ra đi 20-30 năm trước thì ngày hôm nay chúng ta có thẩm quyền gì để chê trách người khác cũng phải ra đi [như mình]? Và sau cùng, cho dù ra tới hải ngoại, chị Tạ Phong Tần hay anh Điếu Cày có giảm mức độ đấu tranh hay có ngưng luôn đi nữa thì đã sao? Họ có cái quyền được làm điều đó. (Cũng như chúng ta, làm hay không làm là do mình, chẳng ai có quyền bắt buộc mình phải làm hay phải ngưng.) Cuộc đấu tranh này không phải của riêng ai hay vì bất cứ một người nào. Nó sẽ vẫn tiếp tục đi, đi nhanh, bởi cùng với những người hiện tại, sẽ còn có nhiều người mới, nhiều tầng lớp khác nhập dòng. Cuộc đấu tranh này không phải của riêng ai.
......

Blogger Tạ Phong Tần được trả tự do và trên đường tới Mỹ

Tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần được thả trước thời hạn và trên đường tới Mỹ. Theo nguồn tin đã được kiểm chứng mà chúng tôi có được cho biết bà Tạ Phong Tần đã rời nhà tù và lên phi cơ trên đường đến Hoa Kỳ. Sau khi ghé Taipei tối nay vào lúc 11 giờ 30 bà Tần sẽ tiếp tục bay đến phi trường Los Angeles bằng chuyến bay China Air 8 và sẽ đáp xuống phi trường LAX vào lúc 8 giờ 35 tối giờ California. Đi cùng với bà Tạ Phong Tần là tham tán chính trị của Hoa Kỳ ông David Muehlke. Bà Tạ Phong Tần là người thứ ba được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ can thiệp và trả tự do ngay tại nơi giam giữ. Người đầu tiên là TS Luật Cù Huy Hà Vũ được thả vào ngày 7 tháng 4 năm 2014. Ba tháng sau người thứ hai là blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải được thả và tới Mỹ vào ngày 21 tháng 10 năm 2014. Bà Tạ Phong Tần từng là một sĩ quan công an. Bà bị bắt về tội tuyên truyền chống nhà nước với bản án 10 năm tù giam. Bà là thành viên sáng lập Câu Lạc Bộ Nhà báo tự do cùng với blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải. Sáng ngày 30 tháng Bảy năm 2012, bà Đặng Thị Kim Liêng, mẹ của Tạ Phong Tân, đã tự thiêu bên ngoài Ủy ban Nhân dân tỉnh Bạc Liêu để phản đối việc bắt giữ con gái bà. Bà Liêng chết vì các vết bỏng quá nặng trên đường đến bệnh viện. Chúng tôi sẽ tiếp tục theo dõi và loan tin ngay sau khi bà đặt chân tới Mỹ.
......

ĐẤT NƯỚC CỦA NHỮNG ĐƯỜNG CONG

Vừa trải qua cuộc hành trình ba ngàn cây số, và hai đêm gần như thức trắng lái xe chở mấy ông bạn từ Việt Nam cỡi ngựa xem hoa, dọc mấy nước Tây Âu. Sáng nay, vẫn còn tơ lơ mơ gà gật, chợt có tiếng luận đàm từ trên kênh VTV4 làm tôi tỉnh hẳn. Một ông nhà đài dẫn kịch và ba ông tai to mặt lớn trong ngành nông nghiệp đang diễn, tụng ca công cuộc đổi mới. Từ hợp tác xã đói nghèo, Đảng, chính phủ đã sáng tạo ra khoán mười, và tư nhân hóa đồng ruộng đi đến cường thịnh, là nước xuất khẩu lúa gạo đứng thứ ba trên thế giới… Giời đất ạ! Có lẽ Đảng, chính phủ và mấy ông tuyên truyền coi chín mươi triệu người dân đất Việt trong và ngoài nước là con nít chăng? Phải nói thẳng, từ đứa trẻ thò lò lỗ mũi đến các cụ sắp trở về với đất, ai cũng thừa biết, mở cửa, đổi mới sáng tạo của Đảng là trở về cái cội nguồn, cái chính sách kinh tế, qui luật đúng đắn từ ngàn năm qua của cha ông ta. Tức là Đảng đang đổi về cái quan hệ sản xuất cũ. Cái mà Đảng đã tự tay bóp chết bằng cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất, sau khi cướp được chính quyền. Thật vậy! Đây là sự che đậy cái dốt nát, lưu manh một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất, kể từ ngày lập quốc đến nay. Và sự lưu manh hóa truyền hình (sống bằng tiền của dân), để đánh bóng, phục vụ cho một cá nhân, hay tập đoàn là cái tận cùng của bẩn thỉu, trơ trẽn. Không những thế, dây thần kinh mắc cỡ, xấu hổ của lãnh đạo và giới truyền thông cũng đã hoàn toàn bị đứt bỏ. Và tuy không phải ngày nói phét tháng tư, mà là ngày đàn ông tháng năm ở Đức, trong lúc nhậu nhoẹt, ông bạn giáo viên trường Đảng cao cấp đã bị tuột xích, rất chăm chỉ đọc báo trong nước còn thông báo rất hùng hồn: Sau Thái Lan, là một số nước Tây, Bắc Âu trong đó có Đức sang Việt Nam học tập, trao đổi kinh nghiệm về trật tự an toàn giao thông và phòng chống tham nhũng đấy. Các ông đã thất kinh chưa? Làm mấy ông ngồi cạnh nhao lên, hỏi tới tấp: Ông lấy thông tin ở đâu? Hay lại từ trang Webseite của công ty rác rưởi, vệ sinh (Reinigungsfima) bình bầu cho đồng chí Ba Ếch, Tư Nhái dạo năm ngoái? -Đây là tin thứ thiệt từ trong nước, đã qua kiểm chứng, kiểm duyệt của anh Huynh (Đinh Thế Huynh), tổng biên tập của 700 tờ báo. Chắc như bắp. Có lẽ, trong cái xã hội à uôm, lộn nhộn này, không chỉ có giới lãnh đạo, truyền thông mà dường như cả giới trí thức văn nghệ sĩ cũng mắc chứng tụng ca hão huyền này. Tuy rất yêu mến tài năng của nhà thơ quân đội Nguyễn Hữu Qúy, nhưng hôm rồi đọc lời tụng ca nhà thơ Trần Đăng Khoa của ông, làm tôi nhột hết cả người: “TRẦN ĐĂNG KHOA GIỎI THẬT! Năm 1969, thần đồng thi ca Việt,Trần Đăng Khoa viết bài thơ ”Kể cho bé nghe” có mấy câu sau cùng thế này: Người em yêu thương Là chú bộ đội Chăm ngoan học giỏi Là bạn thiếu nhi Ngu xuẩn nhất nhì Là tổng thống Mỹ… Thời ấy, tôi còn bé, nhưng rất thuộc bài thơ này, đến bây giờ còn nhớ mồn một như thế. Bây giờ, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã bỏ mấy câu trên và thay nó bằng những câu như sau: Đêm ngồi đếm sao Là ông cóc tía Ríu ran cành khế Là cậu chích choè Hay múa xập xoè Là cô chim trĩ… GIỎI THẬT! TRẦN ĐĂNG KHOA GIỎI THẬT! THỜI NÀO CŨNG GIỎI!“ (Trần Đăng Khoa giỏi thật- Nguyễn Hữu Qúy) Không ai có thể phủ nhận, nhà thơ Trần Đăng Khoa ngay từ thuở thiếu thời cho đến nay có khá nhiều bài thơ và những câu thơ hay. Và tôi cũng là một trong những người đọc yêu mến ông. Nhưng với những câu vần vè thì, là, mà của cả hai đoạn thơ trên của Trần Đăng Khoa, quả thật chưa phải là thơ, và không có giá trị nghệ thuật gì ở đây. Những câu dạng vần vè, nặng tính nhồi sọ, tuyên truyền ngay từ tuổi ấu thơ như thế này, ta có thể nghe (bắt gặp) rât nhiều, từ những đứa trẻ trên lưng trâu thuở ấy, hay từ những ông phó cối trong giờ giải lao vui đùa. Đã lâu rồi, tôi có đọc nhà thơ Trần Đăng Khoa viết bốc thơm nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, nói tiếng Anh nghe như người Mỹ, trong một lần cùng dắt tay nhau đến xứ sở này. Không biết đây là câu khen đểu, hay khen thật của bác Khoa. Đã du học ở Tây, chắc bác Khoa cũng thừa biết, tiếng Việt ta đơn âm, tiếng Tây âm kép do vậy, chỉ có các cháu sinh đẻ, hoặc từ nhỏ học ở Tây mới phát âm được như Tây. Còn dạng sang Cu Ba học tiếng Tây như bác Thiều, hoặc nửa nạc nửa mỡ như chúng tôi dù có sống mấy chục năm ở Tây, cũng chỉ là giọng Tây giả cày, rau muống mà thôi. Có thể, mấy bài (vần) vè chúc mừng năm mới: “Năm qua thắng lợi vẻ vang/ Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to…”  vì của lãnh tụ (Hồ Chủ Tịch), nên các bác bốc lên là thơ, còn là thơ tuyệt tác nữa. Rồi xúm vào tụng ca thật lực, bắt học sinh học và phân tích qua rất nhiều thế hệ…Điều này, dân chúng và người đọc còn có thể hiểu được. Chứ không rõ, các bác nhà thơ, nhà văn ở trong nước cứ lòng vòng bốc thơm nhau, nhằm mục đích quái quỷ gì? Nhìn vào cơ cấu tổ chức chính trị, văn nghệ tuyên truyền phình ra như hiện nay, ta có thể thấy, quân đội Việt Nam quá cồng kềnh, không có sức mạnh chiến đấu, và chẳng giống ai. Bởi, chẳng có nước tân tiến nào quân đội lại đẻ ra cả một trường đại học sân khấu nghệ thuật và các đoàn ca kịch, hội nhà văn, tuyên truyền từ trên xuống từng đơn vị, cơ sở. Vì phải nuôi quá nhiều các văn nhân, nghệ sỹ, báo chí tuyên truyền ương ương dở dở, tào lao chi khươn. Và bác nào bác nấy cứ đến hẹn lại lên, nhiều sao lắm gạch, tiền dân chịu sao cho thấu. Gánh nặng này, là một trong những nguyên nhân làm cho quân đội ì ạch, yếu đuối cũng là phải. Có nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam chưa có giới trí thức thật sự. Bởi trí thức, nghệ sỹ văn nhân ngoài kiến thức, tài năng còn phải có nhân cách, chí khí, luôn luôn đối đầu, phản biện với chính quyền, xã hội đương thời. Dù xã hội có dân chủ, tự do, đời sống xã hội cao như các nước Âu- Mỹ cũng vẫn phải cần những tri thức, chí khí ấy, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển tốt đẹp hơn nữa. Nhưng cũng có những biện hộ, Trí thức Việt Nam đói quá buộc phải thúc thủ theo chính quyền là lẽ đương nhiên. Tôi nghĩ, không hẳn như vậy. Chúng ta có thể thấy, “đại trí thức“ như Ngô Bảo Châu không hề bị đói khát, bởi lương Giáo sư ở Mỹ của ông rất cao. Thế mà ông vẫn bị (hay được) chặn họng bằng căn nhà giá trị nhiều triệu Dollars. Do vậy, ông bị nghẹn, nên lúc nào cũng ú a ú ớ như mắc rọ, trước đời sống, xã hội khổ đau của người dân quê ông. Tuy nhiên, ngoái nhìn lại lịch sử ta thấy, không riêng gì Ngô Bảo Châu, phục vụ (tụng ca) chế độ (nếu coi là) chính thống, để ôm chặt quyền lợi, dường như đó là đặc điểm chung của sĩ phu, trí thức Việt (?). Và chính lòng tham, cũng như nhân cách ấy đã giết dần tri thức của họ. Sau tết vừa rồi, tôi ngồi lai rai bia rượu với nhà văn Nguyễn Hoàng Đức trên đường Nguyễn Trãi, Hà Nội. Dù yêu cầu nhà hàng đóng hết các cửa sổ, nhưng vẫn nghe tiếng cưa cây ầm ầm ngoài đường. Tôi hỏi, sao lại chặt cây đồng loạt như vậy, Nguyễn Hoàng Đức cười buồn, hết nạc vạc đến xương thôi, chúng đã đến lúc ăn quẩn rồi. Vậy là Hà Nội đã trở thành thành phố trọc đầu, dưới bàn tay của những kẻ trí thức giả, tiến sỹ đểu đang nắm quyền. Trong cái trầm ngâm u buồn đó, chợt hiện ra trước mặt, đường tàu điện trên cao cong keo đang dở dang xây dựng, như mũi tên gẫy găm vào lòng người. Và không biết bao nhiêu những đồng tiền dơ bẩn cùng với bàn tay nham hiểm, đê tiện của ngoại bang đang luẩn quất đâu đó. Và phía sau nơi tôi ngồi, đường Trường Chinh (Tàu Bay) đã bị bẻ cong, trở thành đường “cong mềm mại“ một mỹ từ che đậy của lũ đội lốt trí thức, sâu mọt quan tham, để nghiền nát nhiều nghìn tỉ đồng của nhân dân, đất nước. Thật vậy, nếu một đất nước, giới trí thức đã bán linh hồn cho quỷ, hay đang tự ru mình, ru người bởi những danh vọng, hoặc vật chất tầm thường, thì chế độ, xã hội đó đã đến ngày mạt vận. Đây không phải là bài văn nghị luận, mà chỉ là những câu chuyện không đầu, không cuối lộn xộn, được ghi lại trong cuộc hành trình du ngoạn Tây Âu cùng hai ông bạn thuở hoa niên. Hai thằng này, đều là Đảng viên cấp cao, nhưng nói như đại tá Bùi Văn Bồng: “Tuy là Đảng viên, nhưng hai thằng này vẫn còn chơi được”. Và những câu chuyện vặt này, đã được khép lại, bởi câu hỏi của tôi trước khi hai ông bạn lên máy bay trở về Việt Nam: Hai thằng mày đều là cán bộ cấp cao, sang chơi với thằng bạn đã từng bị an ninh Việt Nam trục xuất về Đức vì can tội viết văn, không sợ bị liên lụy, hay bị đấng ngồi trên cho đi tàu suốt sao? Cả hai thằng cười khầng khậc: Yên tâm đi, đất nước đang lộn tùng phèo, không biết thằng bé sợ thằng to, hay thằng ngồi trên sợ thằng ngồi dưới. Thằng nào cũng có cái Thóp để bóp cả. Đường cong nhìn thấy, chưa hẳn là cái đáng sợ. Đường cong trong lòng người mới là cái kinh tởm hơn. Vâng! Và đất nước tôi cứ nằm trong vòng cong kinh tởm như vậy. Leipzig ngày 17-9-2015 Đỗ Trường Theo badamxoevietnam2.wordpress.com
......

Độc đảng thì đã sao?!

Ít ai biết "Lú" là căn bệnh mang tính ghiền. Người bệnh khó cưỡng lại áp suất bộc phát của nó. Sau những lời khen ngợi từ nhiều phía về hiện tượng TBT Nguyễn Phú Trọng không có tuyên bố dại dột nào trong suốt chuyến đi Mỹ vào đầu tháng 7/2015, thì nay chứng bệnh của ông đã tái phát, và ngay trước ngày lên đường đi Nhật xin viện trợ vào giữa tháng 9/2015. Để trả lời câu hỏi của báo chí Nhật ngày 12/9 về tuổi thọ của loại thể chế độc tài nay đã trở nên "rất hiếm" và chỉ còn tại vài nước như Việt Nam, ông Trọng dùng nhiều từ ngữ văn hoa và khá dông dài nhưng đại ý có thể tóm gọn thành: Thể chế độc đảng cũng tốt thôi. Thể chế tại Việt Nam đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân nên nó sẽ sống lâu bền. Khá rõ ông Nguyễn Phú Trọng đắc ý với phát biểu này và đã cho báo chí đăng tải hàng loạt. Có lẽ chính vì vậy mà chẳng có vị cố vấn nào, đặc biệt bên Bộ Ngoại Giao, dám chỉ ra giùm ông các điểm "lú" đã quá hiển nhiên. Thế giới ngày nay đã nghe quá nhiều lần và tởm loại giải thích đó lắm rồi. Từ những tay độc tài nổi tiếng du đãng như Hugo Chávez của Venezuela đến anh em lãnh tụ Castro của Cuba đến ngay cả đám hồi giáo cực đoan ISIS đều dùng luận điểm đó. Tóm tắt đó là loại lý luận láu cá và đã quá nhàm. Tại sao thế giới xem đó là loại lý luận "láu cá"? Câu trả lời nằm ở chỗ: đâu là nguyện vọng của nhân dân. Ngày nay thế giới đã biết rõ cái gọi là "nguyện vọng của nhân dân" trên báo đài do đảng độc quyền kiểm soát khác xa những nguyện vọng do chính người dân bày tỏ, đặc biệt qua phương tiện mạng Internet. Trong trường hợp Việt Nam, các thí dụ về sự khác biệt có thể thấy đầy rẫy trong mọi lãnh vực: - Trong khi dân muốn xây những cây cầu đơn sơ đủ để trẻ em đi học không chết đuối hàng ngày thì lãnh đạo đảng bảo dân muốn xây các tượng đài ở cấp ngàn tỉ. - Trong khi dân ai oán cảnh biển nước bao la ngay giữa lòng Hà Nội, Sài Gòn và nhiều thành phố lớn thì đảng bảo dân muốn vắt hết ngân quĩ quốc gia xây đường cao tốc, lò nguyên tử, và phi trường quốc tế. - Trong khi dân lo âu về các hiểm hoạ chủ quyền, các đe dọa môi sinh, và tiềm năng lỗ lã nặng nề nếu khai thác Bôxít Tây Nguyên thì lãnh đạo đảng khẳng định đại khối nhân dân ủng hộ "chủ trương lớn của đảng". - Trong khi ngư dân Việt sợ hãi, bơ vơ trước mũi súng của hải quân Tàu, chẳng thấy bóng dáng hải quân Việt ở đâu thì lãnh đạo đảng ghi nhận tinh thần ngư dân tình nguyện bám biển, quyết làm "cột mốc sống". - Trong lúc dân sôi sục xuống đường phản đối TQ xâm lược và kêu gọi bảo vệ đất nước thì lãnh đạo đảng tuyên bố tại Bắc Kinh nhân dân Việt Nam trân quí 16 chữ vàng và thề hứa sẽ "giải quyết triệt để" những người Việt biểu tình. - Và vô vàn thí dụ khác nữa. Cùng lúc đó, người dân nào dám vận động nhiều người cùng nói lên nguyện vọng thật của đồng bào mình đều bị liệt ngay vào thành phần phản động, bị kết án theo đủ loại điều luật hình sự, và bị bịt miệng trong tù ngục. Chí ít họ cũng bị đủ loại "công cụ bạo lực cách mạng" đến tận nhà chăm sóc. Có thể nói hiện nay, cả giới truyền thông quốc tế và các sứ quán nước ngoài có mặt tại Việt Nam đều đã nhận chân sự thật: thể chế độc tài tại Việt Nam tồn tại không dựa trên nguyện vọng của người dân mà dựa trên khả năng bóp chết các nguyện vọng đó. Và vì vậy, câu trả lời của ông Trọng với báo chí Nhật về thể chế độc tài hiện nay sẽ tiếp tục sống hùng sống mạnh cũng tương đương với lời đảm bảo gởi tới dân Nhật rằng: các quan chức đảng CSVN chắc chắn sẽ chia nhau số tiền viện trợ mà ông ... sắp xin chính phủ Nhật. Lý do đơn giản là vì chế độ độc đảng hiện nay không có cơ chế nào đối trọng hay giám sát. Nó vừa không có khả năng vừa không muốn ngăn chận nạn tham nhũng nữa. Bình quí nay đã là nhà chung của tất cả họ chuột, như chính ông Trọng đã nói. Tệ nạn rút ruột ODA trong quá khứ sẽ chỉ có thể trầm trọng hơn trong tương lai vì số chuột sinh sản ngày một đông hơn. Chế độ độc tài này cũng sẽ tiếp tục phung phí mọi nguồn viện trợ và tài nguyên quốc gia vào những dự án sai nhu cầu nhưng khổng lồ ở hàng chục tỉ mỹ kim để chia nhau. Nghĩa là viện trợ cho Việt Nam chỉ như muối bỏ biển. Và quan trọng hơn nữa, chế độ độc đảng đầy những người tham lam đó cũng sẽ tiếp tục lén lút bán đứng nhiều loại chủ quyền Việt Nam cho Bắc Kinh khi giá đủ cao, trong lúc tiếp tục nhận viện trợ từ các nước chống Bắc Kinh. Đặc biệt nghiêm trọng là việc tiếp tục cho phép các căn cứ của công nhân TQ trá hình hiện diện tại những vùng trọng yếu trên đất nước Việt Nam. Trên căn bản biết nhau quá rõ đó, giới quan sát có thể thấy chính sách của chính phủ Nhật chỉ nhắm tách rời anh du đãng nhỏ Hà Nội ra càng lâu càng tốt, để hy vọng giảm bớt vây cánh của anh du đãng lớn Bắc Kinh mà thôi, chứ không mơ hồ gì về bản chất du đãng của cả hai. Thật đau lòng cho dân tộc Việt Nam khi những tấm bảng cảnh cáo kẻ cắp chỉ viết bằng tiếng Việt tiếp tục xuất hiện ngày càng nhiều tại các thành phố lớn tại Nhật, bồi thêm bằng những bản tin và hình ảnh trên đài truyền hình về các vụ buôn hàng lậu, hàng ăn cắp của nhân viên hàng không và các viên chức nhà nước Việt Nam, rồi đến tin từng đoàn lãnh đạo đảng CSVN lần lượt đến nước này xin tiền viện trợ. Cảnh đón tiếp lịch sự của thủ tướng Abe đối với phái đoàn ông Nguyễn Phú Trọng không xóa được chút nào hình ảnh thực tế hiện nay trong đầu cả công luận lẫn chính phủ Nhật, và chỉ làm câu nói của Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Hoàng Bình Quân trên báo Nhật "Hai nước luôn có sự tin cậy, tôn trọng nhau, coi trọng lẫn nhau" càng thêm mỉa mai, oái oăm, và đau lòng cho những người Việt còn tự trọng dân tộc. Liệu còn ai muốn hỏi "độc đảng thì đã sao" nữa không? http://vnctcmd.blogspot.com/
......

Bóng đen kinh tế Trung Quốc đè nặng lên Việt Nam

Bài viết này tổng hợp nhiều dữ kiện cập nhật từ các nguồn uy tín như Wall Street Journal, New York Times, CNN, Reuters, Forbes, the Economist, Bloomberg ... đặc biệt, từ bài “China’s Stock Bubble Burst Is Only Half Done”, của John S. Tobey đăng trên Forbes ngày 29-8-2015 và bài “For China, a Plunge and a Reckoning” của Orville Schell, giám đốc Trung Tâm Quan Hệ Hoa-Mỹ của hiệp hội Asia Society, đăng trên WSJ ngày 28-8-2015. * Trong mấy tháng qua, Trung Quốc (TQ) đã trở thành trung tâm địa chấn của nền kinh tế toàn cầu với thị trường chứng khoán rớt tới hơn 40% và đồng yuan bị phá giá liên tiếp trong 3 ngày, dẫn tới hàng loạt phản ứng tiêu cực tương tự trên khắp thế giới. Có nhiều lý do để giải thích tình trạng suy trầm của nền kinh tế TQ.     a. Những chính sách sai trái của nhà nước can thiệp vào thị trường đang bị phản ứng ngược, và hệ thống kinh tế dựa vào đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, dựa trên các thống kê bịa đặt, dối trá, chính trị định đoạt kinh tế, thẩm quyền nằm trong tay những người không có kiến thức kinh tế.     b. Sau gần 3 thập niên phát triển vượt bực trong vai trò công xưởng của thế giới, kinh tế Trung Quốc đang đi vào ngã rẽ khi giá nhân công và chi phí nói chung không còn cạnh tranh nổi với các quốc gia láng giềng. Ngoại tệ dự trữ của TQ, dù ở mức lớn nhất thế giới, nhưng cũng đang giảm dần. Trong tháng 7 vừa qua, TQ đã mất $43 tỷ, tháng 8 mất $93.9 tỷ vì các nhà đầu tư ngoại quốc rút vốn ra khỏi nước, đồng thời người TQ giầu có đã tẩu tán tài sản vì những bấp bênh của thị trường, chính phủ cũng đã phải bỏ ra một lượng lớn ngoại tệ để cứu cấp thị trường chứng khoán, và khi đô la lên giá, ngân hàng trung ương TQ đã phải dùng ngoại tệ để mua đồng yuan hầu có thể giữ tỷ giá hối đoái không thay đổi so với Mỹ kim. Các chuyên gia nhận định là áp suất phá giá đồng yuan cũng như tụt dốc chứng khoán sẽ tiếp tục gia tăng vì nền kinh tế TQ đang gặp khó khăn, và chế độ Bắc Kinh không hề có những cải cách căn bản cần thiết về cả kinh tế lẫn chính trị. Ảnh hưởng lên Việt Nam ra sao? Vụ nổ bong bóng chứng khoán và phá giá đồng yuan đã ảnh hưởng sâu rộng trên thị trường quốc tế, trong đó có Việt Nam. Kinh tế gia Sarah Boumphrey tại trung tâm Euromonitor International thấy rằng các nền kinh tế Á Châu gần TQ như Hồng Kông, Đài Loan và Việt Nam bị ảnh hưởng tai hại nhất nếu TQ tiếp tục phá giá để cứu vãn kinh tế - và điều này gần như không thể tránh khỏi trong thời gian trước mặt. Riêng Việt Nam bị ảnh hưởng lớn trên bốn mặt nhập siêu, nợ công, xuất khẩu và du lịch. Khi TQ phá giá tiền tệ, không những VN gặp khó khăn xuất cảng vào TQ vì giá bán gia tăng, mà còn phải cạnh tranh với hàng rẻ từ TQ tràn vào VN, khiến mức thâm thủng mậu dịch sẽ gia tăng và hàng rẻ TQ sẽ giết chết các mặt hàng nội địa (chưa kể đến những thứ hàng hóa độc hại chết người tuôn vào VN). Thương mại hai chiều Việt - Trung đạt 59 tỷ đôla năm ngoái (chưa kể hàng lậu), trong đó Việt Nam ghi nhận mức thâm hụt là 29 tỷ đôla. Trong 7 tháng đầu năm 2015, thâm thủng mậu dịch với TQ đã tăng lên mức $19.33 tỷ, tệ hơn mức $14.88 tỷ thâm thủng năm ngoái. Tình trạng nhập siêu từ Trung Quốc vào Việt Nam sẽ tiếp tục gia tăng nếu việc hạ giá đồng Yuan tiếp tục. 12 năm trước VN là thị trường xuất khẩu lớn thứ 15 của TQ, tính đến quý 1 năm nay thì VN đã là thị trường xuất khẩu lớn thứ 7 của TQ. Trong khi đó chưa thấy nhà nước CSVN có đối sách hiệu quả cho tình trạng chênh lệch thương mại quá lớn giữa VN và TQ. Việt Nam cũng rơi vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan” khi phải phá giá đồng bạc để đối phó với đồng yuan hạ giá hầu gia tăng mức cạnh tranh trong xuất cảng, nhưng do VN nhập cảng nhiều hơn xuất cảng, nhất là các nhu liệu cần thiết cho sản xuất, nên càng phá giá đồng VN thì càng bất lợi vì hàng nhập cảng sẽ trở nên đắt hơn. Tiền nợ công cũng gia tăng vì những khoản vay tính bằng tiền Đô la. Một áp suất phá giá nữa là mối tương quan với các tiền tệ khác trong vùng. Tuy đã phá giá 3 lần trong năm, đồng VN vẫn chưa phá giá bằng tiền tệ của các quốc gia trong khối ASEAN. Thí dụ đồng baht của Thái đã giảm tới 8%, đồng rupiah của Indonesian đã mất 12%, và đồng ringgit của Mã Lai đã giảm 17%. Và như vậy có nghĩa là áp lực phá giá đồng VN sẽ còn tiếp tục để gia tăng tính cạnh tranh với các quốc gia trong vùng. Ngoài những lo lắng từ việc TQ phá giá thêm đồng yuan, Việt Nam còn phải canh chừng việc tăng lãi suất của ngân hàng trung ương Hoa Kỳ, có thể xảy ra vào tháng 9 này, đưa đến việc các nhà đầu tư vào VN rút ngoại tệ về để đầu tư vào cổ phiếu hay trái phiếu Hoa Kỳ. Hiện tượng tẩu tán tài sản ra ngoại quốc do tình hình bất ổn chính trị ở Việt Nam cũng đang gia tăng làm suy giảm trầm trọng nguồn dự trữ ngoại tệ. Việt Nam cũng bị kéo căng giữa hai áp suất giảm giá và tăng giá: cần giảm giá tiền đồng để tăng khả năng cạnh tranh cho xuất cảng, nhưng tiền đồng cũng bị áp suất tăng giá vì neo với đồng đô la hiện đang trở nên mạnh hơn. Nền du lịch của Việt Nam cũng đang gặp khó khăn, giảm tới 11% trung bình cho năm 2015 (World Bank). Hy vọng hạ giá nội tệ sẽ giúp nền du lịch vào VN khá hơn từ những quốc gia có nội tệ mạnh hơn, nhưng đối với các quốc gia lân cận đã phá giá nặng hơn VN thì không hy vọng; ngược lại, nền du lịch từ VN tới các quốc gia có ngoại tệ mạnh hơn lại bị thiệt hại vì đắt đỏ hơn. Với bản chất của hệ thống và lỗi hệ thống giống hệt nhau giữa hai nước cộng sản anh em và nền kinh tế “tư bản dưới định hướng xã hội chủ nghĩa”, Hà Nội và Bắc Kinh sau 25 năm (1991 - 2015) gắn kết chặt chẽ mọi phương diện chắc chắn sẽ cùng dắt tay nhau song hành trên... tử lộ. Bóng đen kinh tế Trung Quốc Bài phân tích của tờ Wall Street Journal vào cuối tháng 8/2015 có tựa “China’s Reckoning (Ngày Trung Quốc Bừng Tỉnh) đã nêu ra một yếu tố quan trọng mà một cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán có thể tạo ra những thiệt hại to lớn hơn cả những tổn thất đầu tư. Đó là xuyên thủng hình ảnh thần bí mang tính toàn năng - có thể sửa sai mọi chuyện - của lãnh đạo TQ nói chung và của Tập Cận Bình nói riêng, giúp mọi người thức tỉnh từ niềm tin mù quáng do bị nhồi nhét hay đánh lừa là những kẻ lãnh đạo TQ đã có thể kiểm soát được sức mạnh của thị trường tư bản, và đã tạo ra một nền kinh tế tăng trưởng vô địch và hoàn hảo. Chấn động này đủ lớn để làm thay đổi mối tương quan giữa kẻ thống trị và những người bị trị, hy vọng giảm bớt độ kiêu căng, cứng ngắc, hiếu chiến và lời lẽ hống hách của Bắc Kinh, và buộc Bắc Kinh phải chọn nghệ thuật tương nhượng thay cho thói quen đàn áp, bắt nạt. Khi thị trường chứng khoán Trung Quốc bắt đầu lao dốc, Bắc Kinh gần như ngay lập tức can thiệp, bỏ tiền mua cổ phiếu giá trị hàng trăm tỷ đô la và giảm lãi suất để kích thích vay tiền mua cổ phiếu, cấm các doanh nghiệp nhà nước bán cổ phần, cấm các hãng mới cổ phần hóa ... Đó là những quyết định chết người: can thiệp của họ ngay lập tức biến thị trường thành một cơ quan mà họ sở hữu, bị bóp méo, làm lệch lạc mọi quyết định đầu tư và càng chữa thì càng hỏng. Mọi sự sẽ tốt hơn nếu đừng đụng tới thị trường vì nó là một đối tác bướng bỉnh không thể kềm chế. Thị trường chỉ đáp ứng theo định hướng giá trị của các tác nhân. Thị trường chứng khoán Trung Quốc còn phải rớt xuống nhiều nữa trước khi có thể tẩy sạch tâm lý tiêu cực của vụ nổ bong bóng này. Hơn nữa, hệ quả liên đới tới các lãnh vực kinh tế, tài chính khác cũng như chính trị - khiến việc đầu tư vào cổ phiếu Trung Quốc trở thành một vấn đề rủi ro hơn, và sẽ khó vực dậy hơn. Những điều xảy ra trong mùa hè năm nay đã lột trần bản chất thật của nền kinh tế Trung Quốc bên dưới bề mặt có vẻ thành công vượt bực trong hơn 2 thập niên qua. Thực tế của quốc gia đứng hàng thứ hai kinh tế trên thế giới này vẫn chỉ là một quốc gia với lợi tức trung bình, một nền tảng kinh tế lung lay, một hệ thống chính trị khuất tất và vô trách nhiệm, một mạng lưới tham nhũng dầy đặc, đầy những nhóm lợi ích chỉ chăm chăm cho quyền lợi của mình mà không màng gì đến quyền lợi chung của quốc gia. Quyền lực của họ Tập đang lung lay Là nhân vật quyền lực nhất nước, ông Tập Cận Bình có vẻ hài lòng với khả năng thâu tóm và sử dụng quyền lực của mình - buộc các quốc gia láng giềng yếu ớt phải quỵ lụy và thế giới tuân phục. Nhưng ông ta vừa bị một cú đánh thức giật bắn người. Một xã hội quen với thói coi thường bất cứ ai mà họ không thích - kể cả nước Mỹ, đã bị chấn động bởi một thị trường không chịu nghe lời. Giới lãnh đạo Cộng sản Trung Hoa giờ đây phải đối mặt với một con quái vật do chính họ dựng nên hiện đang vươn dậy với cung cách riêng, hoàn toàn miễn nhiễm từ những nỗ lực áp chế của chế độ. Ông Đặng và những nhân vật tiền nhiệm đã khoác lác rằng họ đã sáng tạo ra một mô hình mới siêu việt hơn hẳn chủ nghĩa tư bản dân chủ và phóng khoáng của Tây Phương, đó là nền “kinh tế tư bản dưới định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”. Trong hơn 2 thập niên rưỡi qua, “phép lạ kinh tế Trung Quốc” đã lên vùn vụt như trong môi trường không trọng lực. Khi bong bóng chứng khoán ở Thẩm Quyến (Shenzhen) phình to ở mức 70:1 cho tỷ số P/E (price to earning = giá mua/tiền lời), so với tỷ số P/E trung bình của S&P 500 khoảng 17, không lãnh đạo nào của TQ ý thức trái bóng sẽ nổ. Hàng triệu dân thường đã được nhà nước và các cơ quan tuyên truyền của chế độ cổ võ để trút hết tiền mượn, thậm chí đem nhà đi cầm, để ném vào canh bạc đỏ đen chứng khoán đang được thổi phồng là thị trường hùng mạnh đang mới chỉ bắt đầu. Sức mạnh và sự giàu có mới đã khiến lãnh đạo TQ trở nên quá tự tin và kiêu ngạo, càng ngày càng dương oai giễu võ đối với thế giới và rõ rệt nhất là thái độ gây hấn trên Biển Đông, trơ tráo vẽ đường lưỡi bò khổng lồ liếm trọn vùng vịnh thuộc Việt Nam và Philippine đến tận Indonesia để tự nhận là hải phận nước mình, đưa đến những căng thẳng không cần thiết với các quốc gia láng giềng và ảnh hưởng tai hại đến mối bang giao với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Ngoài vấn nạn vỡ bong bóng chứng khoán, các dữ liệu kinh tế cho thấy hoạt động sản xuất đã giảm thấp chưa từng có trong hơn 6 năm qua, xuất cảng giảm rõ rệt trong tháng 7, vì vậy mà chế độ phải hạ giá đồng yuan, tạo nên một địa chấn thứ hai trong vòng 1 tháng. Các dữ kiện kinh tế của TQ cho tới ngày 8-9-2015 đều ảm đạm. Theo tin của Bloomberg, cả xuất cảng lẫn nhập cảng và chỉ số chứng khoán Thượng Hải đều tuột dốc, giảm lần lượt 5.5%, 14%, và 2.5%. Như chưa đủ xui xẻo, ngày 12 tháng 8, kho chứa hóa học tại Thiên Tân lại phát nổ làm thiệt mạng ít nhất 160 người và bị thương hơn 700 người, tàn phá cả khu vực rộng lớn với những đe dọa chất độc hại lan tỏa. Hai vụ nổ tiếp theo ở Quảng Đông ngày 23 và 31 tháng 8, được bồi thêm một vụ nổ thứ tư ngày 7-9 tại Zhejiang càng làm hình ảnh các lãnh tụ TQ lung lay như đèn trước gió. Trước tình trạng khốn khó, chế độ đã tìm cách ém nhẹm tin tức xấu như vẫn thường làm kể cả việc bịt miệng những chỉ trích trên thế giới về sự cải tổ kinh tế quá chậm cũng như sự vắng bóng hoàn toàn của những cải cách chính trị cần thiết. Mất niềm tin vào lãnh đạo, vào hệ thống đã đang là một yếu tố trầm trọng trong xã hội TQ từ lâu nay, thì một loạt những diễn biến tiêu cực lớn lao vừa kể sẽ khiến người dân nổi cơn thịnh nộ và trút vào chế độ, mà lãnh đạo TQ không còn có thể đổ lỗi cho thế giới bên ngoài như họ đã từng làm, vì mọi thất bại đều là nội tại – “made in China”. Mất uy tín và tính chính danh là điều mà lãnh đạo đảng lo sợ nhất. Mao đã hình dung ra một TQ tự túc, tự cường - zili gengsheng. Những sự việc xảy ra đã dạy cho họ Tập và tập đoàn thống trị của ông ta một bài học là TQ không thể nào là một ốc đảo – và không thể nào thành công trong thế đứng một mình, đừng nói chi tới việc còn gây hấn với những nước láng giềng và Hoa Kỳ. Dẫu là một cường quốc đi chăng nữa, TQ vẫn bị chi phối bởi những sức mạnh bên ngoài trong thế giới liên lập ngày nay và đặc biệt, những sức mạnh này nằm ngoài khả năng kiểm soát của đảng cộng sản. Một quốc gia thực sự lớn mạnh phải biết học hỏi nghệ thuật tương nhượng trong bang giao, thương lượng hầu như lúc nào cũng tốt hơn đe dọa và gây chiến. Sự thỏa hiệp không phải là một chỉ dấu của sự yếu kém hay đầu hàng. Đây là cơ hội để TQ thức tỉnh, cải thiện để ổn định và thu phục sự kính nể của thế giới mà họ hằng mong ước. Tuy nhiên, với bản chất và hồ sơ của chế độ nói chung, cũng như của Tập Cận Bình nói riêng, không ai dám lạc quan! Khi “bên Tàu có loạn” cũng là cơ hội để nhà sản VN học bài học đắng cay mà từ bỏ chủ nghĩa lạc hậu đã bị thế giới và nhân dân nguyền rủa. Rất tiếc là ngoài chuyến đi Mỹ của ông Nguyễn Phú Trọng vào tháng 7 vừa qua và một vài tuyên bố có vẻ “thoát Trung” để ... chạy tội, chưa có một chỉ dấu nào cụ thể để có thể nói là VN đã thức tỉnh từ mối tương quan “16 vàng, 4 tốt” và bài học thất bại của TQ. Với bản chất và hồ sơ trầm trọng của chế độ CSVN, không ai dám lạc quan! Ts.Trần Diệu Chân
......

Về hiện tượng giết người hàng loạt tại Việt Nam gần đây

Cách đây 4 năm, vào ngày 24/08/2011, người dân cả nước đã bàng hoàng về sự kiện gia đình 4 người của Tiệm vàng Ngọc Bích ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang bị thảm sát. Chỉ với mục đích kiếm một số tiền nhỏ để chuộc xe, hung thủ Lê Văn Luyện - một thiếu niên chưa đầy 18 tuổi, đã nhẫn tâm xuống tay hạ sát cả nhà nạn nhân. Tuy nhiên ngoài ý muốn của Luyện, bé gái 8 tuổi may mắn thoát chết - không xấu số như cha, mẹ và đứa em 18 tháng của mình. Vụ án điển hình này có thể được xem là khởi điểm cho thực trạng sát nhân nhiều người cùng một lúc trong xã hội Việt Nam, tính từ sau năm 1975. Năm 2015 là cột mốc đánh dấu 70 năm CSVN cướp chính quyền, rồi cầm quyền ở miền Bắc, cũng như 40 năm cưỡng chiếm miền Nam. Thế nhưng đây cũng chính là thời điểm mà xã hội Việt Nam bùng phát hàng loạt vụ thảm sát nhiều người cùng một lúc trên cả nước. Đặc biệt là trong tháng 7 và tháng 8 vừa qua. Khởi đầu trong số đó là vụ án Vi Văn Hai (20 tuổi) hạ sát một gia đình 4 người, trong đó có một đứa trẻ 11 tháng, vào ngày 02/07/2015 tại huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An - chỉ vì mâu thuẫn khi gã này hái trộm chanh nhà nạn nhân. Tiếp theo là vụ Nguyễn Hải Dương và Vũ Văn Tiến (cùng 24 tuổi) ra tay giết sạch cả gia đình 6 người, trong đó có cả người yêu cũ của Dương, vào ngày 07/07/2015 tại huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước - xuất phát từ việc Nguyễn Hải Dương hận tình bị phụ bạc. Kế tiếp là vụ Đặng Văn Hùng (26 tuổi) truy sát cả nhà 4 người hàng xóm, trong đó có một đứa bé 2 tuổi, vào ngày 12/08/2015 tại huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái - từ nguyên do mâu thuẫn tranh chấp nương rẫy. Và mới nhất là vụ Vũ Văn Đản (39 tuổi) xách dao rượt chém 7 người kể cả thân nhân và láng giềng, khiến 4 nạn nhân vong mạng, 3 người trọng thương, vào ngày 23/08/2015 tại huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai - chỉ vì “giận cá chém thớt”, do không đòi được nợ từ một người khác. Hiện tượng giết người hàng loạt này tuy xuất phát từ nhiều nguyên do khác nhau, nhưng tựu trung liên hệ đến 3 vấn nạn của xã hội Việt Nam hiện nay. Đó là tính Nhân Bản của xã hội bị sói mòn trầm trọng; Thang Giá Trị xã hội như ý thức, tự trọng, trách nhiệm bị băng hoại; Giết Người trở thành thủ đoạn cướp đoạt tài sản bằng con đường tắt nhanh nhất. Có nhiều tác nhân trực tiếp và gián tiếp dẫn đến thực trạng xuống cấp trầm trọng hiện nay của cả ba vấn nạn trên, tuy nhiên trong đó nguyên nhân chính yếu vẫn là đường lối giáo dục dựa trên “đấu tranh giai cấp” của chủ nghĩa cộng sản mà Hà Nội đã áp dụng kể từ sau năm 1945 ở miền Bắc và tiếp tục ở miền Nam sau năm 1975. Mặc dù ngày hôm nay, CSVN không còn đề cập đến đấu tranh giai cấp, nhưng bản chất cai trị độc tài, quyền lực tập trung trong tay một thiểu số thống trị theo kiểu cha truyền con nối, đã đưa đến một thực trạng xã hội nát bấy: vô nhân, vô cảm và vô pháp hiện nay. Đó chính là mầm móng tạo ra những hành vi ác độc mà hiện tượng giết người hàng loạt xảy ra gần đây, biểu hiện qua hai hậu quả nguy hiểm cho xã hội: 1/ Hậu quả của việc tuyên truyền tư tưởng cực đoan “bạo lực”. CSVN đã liên tục nhồi sọ sự căm thù, ý chí trả thù, noi gương giết người… ngay từ những đứa trẻ mới bắt đầu đi học. Việc bị nhồi sọ thường xuyên về đấu tranh tiêu diệt “giai cấp tư sản”, căm thù đế quốc, noi gương những “tuổi trẻ diệt Mỹ”, noi gương “dũng sĩ diệt Mỹ”, hay noi gương các “biệt động Sài Gòn”; cũng như việc chứng kiến, xem và nghe kể các sự kiện “đấu tố” của tòa án nhân dân, “cải cách ruộng đất” đã khiến giới trẻ Việt Nam dần dần quen với những hành vi như thủ tiêu, ám sát, trả thù, tàn sát, hay khủng bố… Kết cuộc là các thế hệ tuổi trẻ Việt Nam dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa hoàn toàn không cảm thấy những hành vi trên là vô nhân đạo, mà là những tấm gương cần học tập và rèn luyện… để tiến thân. Dần dần sau 70 năm CSVN cầm quyền, tính Nhân Bản của con người sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa bị sói mòn trầm trọng. Tính “bạo lực” ngày càng trở thành một thuộc tính đặc trưng. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy trong vài ví dụ về những cuộc huyết chiến bảo vệ gái làng ở miền Bắc; những trận đánh cho tới chết và đốt xe những tay trộm chó; hay đơn giản là tinh thần cổ vũ bóng đá đầy máu ăn thua của giới trẻ Việt Nam hiện nay. 2/ Hậu quả của việc tiêm nhiễm ý đồ “đạt được mục đích bằng mọi thủ đoạn” Với ý đồ “đạt được mục đích bằng mọi thủ đoạn”, CSVN đã liên tục thực hiện những hành vi lật lọng, ám sát, nướng quân, thảm sát và khủng bố... từ năm 1945 cho đến nay từ bên trong đảng ra đến bên ngoài xã hội. Ngoài những hành vi như tiêu diệt các đảng phái đối lập, lật lọng hiệp định Geneva 1954 và Paris 1973 với mục tiêu “cướp chính quyền bằng mọi giá”, CSVN còn sẵn sàng nướng quân trong các trận chiến khiến sinh mạng và cuộc sống con người không còn được coi trọng nhất. Đặc biệt, việc này thể hiện rõ trong vụ thảm sát dân thường ở Huế năm 1968, hay hàng loạt vụ khủng bố ở miền Nam trước năm 1975. Trong nội bộ đảng, do những đấu đá quyền lực, các phe nhóm trong thượng tầng lãnh đạo sẵn sàng sát hại nhau qua những vụ án như “xét lại chống đảng”, hay đầu độc chết một số cán bộ lãnh đạo như Đinh Bá Thi, Tướng Lê Trọng Tấn, Nguyễn Bá Thanh… Khi sinh mạng và cuộc sống con người không còn được tôn trọng, thì các thế hệ tiềm ẩn sẵn tính “bạo lực” suốt 70 năm kia sẵn sàng dùng bất kỳ thủ đoạn nào để đạt được mục đích. Những cá nhân hay tổ chức “bạo lực” khi nắm quyền lực sẽ dùng “luật rừng” và sức mạnh các bộ máy cầm quyền… nhằm cưỡng chế cướp đoạt đất đai, tài sản… của dân thường một cách nhanh nhất, dù người dân có lâm cảnh cùng cực hay thậm chí mất mạng. Còn những cá nhân “bạo lực” không nắm quyền lực trong tay sẽ sẵn sàng dùng các thủ đoạn như đả thương, giết người…, nhằm đạt được mục đích nào đó, ví dụ như cướp của, xâm phạm tiết hạnh, trả thù… một cách nhanh nhất. *** Tóm lại, chính đường lối giáo dục “đấu tranh giai cấp” của chủ nghĩa cộng sản, là nguyên nhân chính yếu xóa sạch tính Nhân Bản để thay bằng tính Bạo Lực trong xã hội. Hiện tượng giết người hàng loạt hiện nay chỉ có thể giải quyết thỏa đáng khi chính mỗi con người được tự do mưu tìm hạnh phúc trong một nhà nước pháp quyền thực sự. Mặc Thủy
......

Cần một Quốc khánh mới cho VN

Đặc xá cướp giết hiếp. Giam giữ tù lương tâm Đợt đặc xá quy mô lớn của chính quyền VN trước 2/9/2015 với số lượng 18.298 tù hình sự đã khiến dư luận được một phen ngỡ ngàng. Có phạm nhân giết người, tòa phạt 14 năm tù, nay ở  chưa được một nửa thời hạn đã tha bổng(có dư luận cho rằng do cô ta có thân hình bốc lửa và ở tù giùm cho một con ông cháu cha) ! Tội trộm cướp, tham nhũng, cướp giết hiếp, ma túy đều được đặc xá một cách  rộng rãi khác thường. Riêng người có lương tâm, vô tội, chỉ đấu tranh cho sự thật và tự do nhân quyền như Trần Huỳnh Duy Thức, anh Ba Sàm, Tạ Phong Tần, Nguyễn Ngọc Già, Bùi Hằng.. và nhiều người khác thì cho đến nay vẫn bị giam cầm dù người VN và thế giới đã nhiều lần lên tiếng phản đổi. Cung cách quản lý xã hội như vậy chính là đặc trưng của 70 vận hành chính thể sau cách mạng tháng 8 và quốc khánh 2/9. 70 năm dân thành ‘Khách Trọ‘ Những ngày cuối tháng 8/2015, người VN chứng kiến tại Malaysia một sự kiện mà dù đã gần một thế kỷ mơ ước và gẳng gỏi, người VN cũng không thể có được. Người dân đã thực hiện quyền làm chủ đất nước và vận mệnh của mình bằng cách rầm rộ xuống đường biểu tình yêu cầu thủ tướng đương nhiệm Najib Rajak của họ phải từ chức chỉ vì phát hiện ra ông ta có dấu hiệu tham nhũng. Chính quyền không đàn áp họ, vì đó là quyền đương nhiên của dân, không ai có quyền xâm phạm. Trong khi ở VN, nhà cầm quyền đàn áp tất cả những người ôn hòa bày tỏ nguyện vọng chống TQ xâm lấn lãnh hại, dân oan đi khiếu kiện và những người chống tham nhũng, những trí thức bất đồng chính kiền. Đó là nghịch cảnh rõ ràng tố cáo bản chất của nền chính trị, thể hiện người dân là khách trọ hay là chủ trên đất nước của mình. Người dân trong một nước tôn trọng dân chủ và nhân quyền thì mới thực sự có đất nước. Tại VN, dân không có quyền tự do ngôn luận, không có quyền thay đổi thể chế chính trị và nhà cầm quyền khi họ không làm những cảm kết trước dân, người dân đương nhiên chỉ là những kẻ  phải lưu vong trên chính Tổ quốc của  mình. VN là một trong những thể chế chính trị độc tài cộng sản cuối cùng trên thế giới đã dùng những thủ đoạn khôn khéo để tồn tại, Cái gọi là thành quả đổi mới – thực chất là đổi mới nửa vời chỉ cốt để cứu thể chế chính trị cộng sản toàn trị VN khỏi sụp đổ dây chuyền theo hệ thống xã hội chủ nghĩa,  nới một chút nút thắt cổ người dân để họ làm kinh tế rồi bóc lột của họ tận xương tủy để làm giàu cho cá nhân. Mặc dù đời sống kinh tế của người VN hiện nay có cao hơn so với thời cách đây 70 năm, nhưng trong cùng một thời gian đó, kinh tế các nước có cùng xuất phát điểm thấp như VN trong khu vực đã tăng cả 7, 8 lần. Với bộ máy tham nhũng hiện nay, chi thường xuyên đã chiếm tới 72% ngân sách, tiền trả nợ lên tới 25%, chỉ còn khảng 3% ngân sách là chi cho đầu tư phát triển. Quan chức chính quyền, cơ quan đoàn thể nay còn không thèm giấu bộ mặt vô liêm sỉ, trơ trẽn tha hồ cấu kết với nhau cướp đoạt tiền của dân trên mọi lĩnh vực từ thuế phí chí, buộc dân phải hối lộ, đổi tiền lấy chữ ký trên mọi lĩnh vực, kể cả vay tiền nước ngoài hay cho phép đầu tưcng xuyên thất thoát, kém hiệu quả. Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng nói “Cứ vay tiền ào ào thì không phát triển đất nước, trả nợ không được thì đến ngày là sụp“. Dân “một cổ ba tròng“ Tỉ lệ thuế và phí dân VN phải chịu  đóng/GDP cao từ 1,5 đến 3 lần các nước trong khu vực. là để nuôi tới 3 bộ máy chồng chéo chéo chức năng, nhiệm vụ với nhau: đảng cộng sản, chính phủ, các tổ chức  đoàn thể, chính trị xã hội trong Mặt trận tổ quốc từ TW tới địa phương. Sau 70 năm cách mạng Tháng tám thành công, dân một cổ thêm ba tròng. Tiền thuế của dân đã phải trả cho giới cai trị bóc lột và để bảo vệ cho một chế độ xã hội bất công. Ông Nguyễn Công Khế, nguyên Tổng Biên tập Báo Thanh niên đã nhận định rằng từ 50- 70% ngân sách nhà nước đã rơi vào túi quan tham. Người dân sẽ bị đàn áp nếu không chịu nô lệ, nhẫn nhục đóng thuế, phí nuôi bộ máy cai trị. Lấy tiếng rằng nông dân được miễn giảm tiền thuế sử dụng đất nông nghiệp,, nghe tưởng rằng nhà nước nhân đạo lắm, nhưng trên thực tế khác hẳn. Nông dân phải gánh trên 1.000 loại phí và lệ phí! Sự tham lam tàn bạo này chưa từng có trong lịch sử VN. Sáng 10/8/2015, báo cáo  Ủy ban thường vụ QH tại phiên thảo luận dự thảo Luật phí và lệ phí cho biết, như với nông nghiệp, dù vừa qua đã ra soát bỏ nhiều loại nhưng vẫn còn 937 khoản phí và 90 lệ phí. Ông Nguyễn Sinh Hùng than: “một quả trứng mà gánh tới 14 loại phí thì đúng là …trời đất ơi(theo Vnexpress 10/8/2015. Nông dân vẫn chịu trên 1000 loại phí và lệ phí“) . Những lời hứa trịnh trọng được nêu trong Tuyên ngôn độc lập về thực thi quyền tự do, bình đẳng, quyền con người, điều đã khiến người VN tin và do đó đã dốc toàn lực ra ủng hộ Việt Minh và đảng cộng sản, qua 70 năm, càng ngày càng chứng minh rằng đó chỉ là mớ giấy lộn, một lá bùa hữu hiệu để chính quyền cộng sản độc tài cướp đoạt quyền con người, quyền tự chủ của người dân mà thôi. Đặc trưngThời đại Hồ Chí Minh: huynh đệ tương tàn, tụt hậu xa so với thế giới, dân bị nô lệ hóa Về việc tự vỗ ngực khen ngợi và che giấu những tội ác của mình, ít ai bằng đảng cộng sản VN. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói không một chút căn cứ thực tế :“ Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử VN, đánh dấu kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó, chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thừa nhận là VN đang đứng chót bảng xếp hạng tỏng nhóm ASEAN-6, thậm chí có lĩnh vực còng thấp hơn cả Lào, Campuchia, Myanmar, ba nước được coi là kém phát triển nhất trong khối. Lời vỗ ngực tự khen trên của Nguyễn Phú Trọng cũng không khác gì lời tự khen trên xương máu những nạn nhân trong cải cách ruộng đất của Hồ Chí Minh cách đây gần 70 năm tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội VNDCCH: Luật cải cách ruộng đất của chúng ta là chí nhân chí nghĩa, hợp lý hợp tình…“. Cần cách mạng thể chế 70 năm minh chứng sự bất lương của thể chế độc tài cộng sản là đã quá đủ.. Thậm chí không một nỗ lực cải cách nào có thể thay đổi được nó về bản chất. Những người muốn cài cải cách như Trần Xuân Bách, Võ Văn Kiệt đã có quyền lực lớn nhưng cũng bó tay hoặc bị hãm hại vì cải cách là đụng đến quyền lợi riêng nhiều quan chức, chưa kể có một bộ máy tình báo Hoa Nam đứng đằng sau. Nguyên nhân nào đã khiến người VN ngày nay nổi tiếng thế giới, nhiều nơi phải ghê tởm người VN khi VN liên tục xuất khẩu sự vô văn hóa, gái điếm, trộm cắp, buôn lậu, ma túy, sự giết chóc ra toàn thế giới? Những ác quỷ tàn sát cả mẹ cha, chồng vợ, bạn bè, thân chỉ vì vài đồng bạc từ đâu ra? Đều là những sản phẩm của con đường vạch ra từ 70 năm trước. Khi xã hội không có công bằng, người dân không tương lai, và hình mẫu của họ là những quan chức dối trá, cướp ngày thì được vinh thân phì gia, nhiều người dân, đặc biệt là lớp trẻ, sẽ tuyệt vọng và noi gương quan chức, cũng sống như ác quỷ. Vì thế, cần một ngày Quốc khánh khác cho VN. Không phải quốc khánh đau thương và lọc lừa 2/9. VTH Theo rfa.org/vietnamese/blog
......

Hai cuộc diễu, trăm chuyện hài

Thế là sau biết bao chuẩn bị tốn kém kéo dài cả năm trời, 2 cuộc diễu binh liên tiếp ngày 2/9 tại Hà Nội và 3/9 tại Bắc Kinh đã qua nhanh và không để lại gì đáng kể. Hơn thế nữa, vì 2 thời điểm quá sát, hầu như toàn bộ ống kính truyền thông quốc tế đều tập trung vào Bắc Kinh. Chẳng mấy ai nhắc tới cuộc diễu binh tại Hà Nội, dù chỉ vài câu hay vài chữ. Nhưng cũng khó trách các ký giả ngoại quốc khi chính người Việt còn không thiết tha gì đến sự kiện này. Đại đa số dân chúng Hà Nội chỉ thấy bực mình vì bị chận đường xá, ngay cả trong những trường hợp phải đưa trẻ em đi cấp cứu như một đoạn phim đang lan tràn trên Internet về cảnh một bà mẹ đành ôm con đi về. Còn đại đa số dân chúng trên cả nước xem đó là trò phí phạm; chẳng khác gì chuyện xây tượng đài, bắn pháo hoa,... thay cơm. Có quan chức biện hộ: "Diễu binh làm tăng lòng yêu nước và tự hào về sức mạnh của ta chứ". Chuyện "tự hào" sẽ nói sau, nhưng đụng đến chữ "tăng lòng yêu nước" thì nhiều người giật mình cãi ngay: "Lãnh đạo đã khẳng định nhiều lần bằng cả lời nói và hành động rồi. Dân không nên tự ý yêu nước vì dễ mắc sai lầm và sẽ bị kẻ xấu lợi dụng. Ai yêu nước đã vào trại phục hồi nhân phẩm cả rồi. Vì vậy dân có còn dám "yêu nước" đâu mà tăng với giảm". Thế còn diễu binh để thêm niềm tự hào về sự hùng mạnh của quân đội thì sao? Câu trả lời cũng thế, niềm tự hào này bị thổi tắt từ lâu lắm rồi bởi hàng ngàn bài diễn văn của các quan chức đủ loại, ra rả thuyết phục toàn dân: Quân Tàu mạnh lắm, quân ta yếu lắm nên tránh xung đột là cách hành xử đầy trí tuệ. Rồi để chứng minh quân đội ta yếu thật, lãnh đạo ra lệnh cả hải quân tầu ngầm lẫn cảnh sát biển tầu nổi cứ đứng trên bờ "theo dõi sát" các ngư dân Việt ra biển làm "cột mốc sống". Cho đến nay, nhu cầu "chứng minh" này vẫn đang tiếp diễn. Thế thì có rặn cũng không ra được tự hào khi xem diễu binh. Đó là chưa kể tình trạng hàng giả. Khi dân cư mạng phát hiện một chị rõ xinh được tivi chiếu cận cảnh đang đeo quân hàm trung tá giả, lập tức lãnh đạo cho một ông tướng lên báo đài cải chính. Ông bảo: "Đó là qui định" chứ không phải cô này tự đeo. Nói cách khác, ông bộc lộ cho dân biết chị này không phải là trường hợp duy nhất mà còn cả trăm, cả ngàn cái lon giả khác trong cuộc diễu binh này, vì đó là chính sách! Chuyện hài "không đánh mà khai hàng giả" này gợi lại trong đầu người dân những bức hình, do chính báo đảng chụp, ngoại hình bóng láng của chiếc tàu ngầm mới vừa đưa về Việt Nam, nhưng hình chụp với thủ tướng bên trong con tàu lại đầy loang lổ rỉ sét. Có người khen ngợi trí tuệ lãnh đạo nằm ở khoản sai biệt trong chính sách "mua tàu cũ với giá mới". Cuộc diễu binh bên Tàu cũng diễu không kém. Trước hết Chủ Tịch Nước, kiêm Tổng Bí Thư Đảng, kiêm Bí Thư Quân Ủy Trung Ương, kiêm Chủ Tịch 6 ủy ban khác nữa thuộc Bộ Chính Trị, ông Tập Cận Bình, nhất định không mặc áo vét, cà vạt như mọi lãnh tụ khác trên lễ đài. Ông mặc, và chỉ riêng ông được mặc, áo đại cán để tô đậm quan điểm mà Ban Tuyên Giáo đã nỗ lực đẩy ra trong khoảng 6 tháng qua. Đó là lãnh tụ Tập Cận Bình xứng đáng đứng ngang tầm với những "2 nhà lái tàu vĩ đại" Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Và cũng để nhìn cho giống các lãnh tụ vĩ đại trước đây hay đọc diễn văn trên lễ đài, ông Tập cho gắn 4 cây vi âm (microphone) rõ to, không phải tại bục đọc diễn văn nhưng trên nóc xe mà ông dùng để cùng đi diễu hành. Không ai hiểu máy vi âm đó để làm gì và có thực sự cắm điện hay không. Có người Việt thắc mắc: không nhẽ lại theo kiểu "vừa đi vừa kể chuyện" của nước ta? Thế là hình đồ chơi chú gấu Winnie The Pooh ngồi xe lập tức lan tràn mạng Internet tiếng Hoa đến độ Ban Tuyên Giáo phải cho hình này vào danh sách lưới lọc để cấm đăng hay truy tìm. Cảnh hài kế tiếp là hình ảnh đầm ấm giữa Tập Cận Bình với 2 người tiền nhiệm Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào trên khán đài chính. Không chỉ người dân Trung Quốc mà cả giới quan sát quốc tế đều thấy cảnh diễu này quá trơ trẽn. Hiện nay con số đảng viên cộng sản trung và cao cấp đang bị nằm tù, bị điều tra, hay đã tự tử, đột tử đã lên đến trên 400 ngàn người, phần lớn đều thuộc mạng lưới quyền lực của ông Giang và ông Hồ, kể cả những nhân vật tay trái, tay phải của 2 ông này như Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu, Bạc Hy Lai, Quách Bá Hùng, ... Thế giới cũng mỉm cười khi nghe ông Tập đọc diễn văn: "Trung Quốc sẽ không bao giờ bá quyền ... Không bao giờ gieo đau khổ cho các nước khác." Hàng chục triệu người Tây Tạng và Ngô Duy Nhĩ chắc phải tắt máy ngay lúc đó để khỏi phải ném cả cái tivi xuống cống. Và còn rất nhiều chuyện khôi hài oái oăm khác nữa mà các sử gia quốc tế chỉ ra, như: đảng CSTQ theo mưu của Mao Trạch Đông luôn tránh và đùn đẩy việc đánh Nhật cho Quốc Dân Đảng dưới quyền Tưởng Giới Thạch. Họ Mao chỉ tập trung chuẩn bị lực lượng để đánh Tưởng một khi Nhật rút về. Chính ông Mao trong những năm sau đó đã rất tự hào về "mưu lược" này và còn hận Stalin vì có lúc đã ép ông phải đánh Nhật để bớt áp suất cho Liên Xô. Công trạng kết thúc Thế Chiến II của đảng CSTQ là sản phẩm tưởng tượng. Trong khi đó, các kinh tế gia tìm mãi trong bài diễn văn của ông Tập vẫn không thấy chữ nào về hiện tượng thị trường chứng khoán Tàu đang sụp hố, chỉ số phát triển GDP đang rơi tới mức báo động, và các bong bóng địa ốc, ngân hàng cứ chực chờ bùng vỡ. Nhưng có lẽ 2 điều làm thế giới và người Việt phải cau mày suy nghĩ là: 1- Ông Tập tuyên bố ngay tại cuộc diễu binh 3/9 sẽ cắt giảm 300 ngàn quân trong số 2 triệu lính Tàu hiện nay. Phải chăng đây là cách biểu lộ quyền lực tuyệt đối của ông đối với quân đội? Câu trả lời chắc còn phải chờ thời gian mới biết được. 2- Ông Tập đẩy ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước CHXHCNVN, xuống hàng ghế rất thấp kém, thua xa cả những nước thuộc Liên Xô cũ mà theo lý thuyết không còn là những nước XHCN nữa; thua luôn cả Myanmar là nước vừa công khai cự tuyệt ảnh hưởng Trung Quốc. Vị trí trọng vọng nhất được dành cho tổng thống Nga và Hàn Quốc. Phải chăng đây là cách biểu lộ quyền lực tuyệt đối của ông Tập đối với Hà Nội: biết bị gọi đến để chịu nhục mà vẫn phải đến? Câu trả lời đã rất rõ và từ nhiều năm rồi. http://vnctcmd.blogspot.de/…/hai-cuoc-dieu-tram-chuyen-hai.…
......

Đòn độc: đẩy ông Sang đi dự lễ 3/9

Giữa không khi dân chúng ghê tởm và ghét cay ghét đắng mọi thứ dính dáng tới đám lãnh đạo Bắc Kinh ngang ngược và trong lúc giới lãnh đạo đảng CSVN đang ùn ùn "bỏ Tàu chạy lấy người" trước thềm Đại Hội Đảng XII, người ta khá ngạc nhiên khi đọc tin ông Trương Tấn Sang sẽ dẫn đoàn Việt Nam đi dự lễ diễu binh tại Bắc Kinh ngày 3 tháng 9 sắp tới. Có người bảo ông Sang đi là đúng rồi vì ở vai trò đại diện cao nhất của chính phủ. Nhưng ai cũng biết và giới lãnh đạo TQ lại càng biết rõ trong hệ thống XHCN, tổng bí thư đảng CS mới là vai trò quyền lực cao nhất. Và ngược lại, nếu bảo ông Sang có vị trí đại diện chính phủ cao nhất thì tại sao ông bị thẳng tay thay thế bởi ông Nguyễn Phú Trọng trong chuyến sang Mỹ gặp Tổng thống Obama vừa qua? Ngoài lý do vai vế, ai cũng biết ông Nguyễn Phú Trọng trong suốt mấy thập niên qua luôn chứng tỏ mình là học trò xuất sắc của Trung Quốc. Ông được huấn luyện cán bộ cấp cao nhiều lần tại Trung Quốc; Ông luôn đòi buộc cả nước phải tôn quí 16 chữ vàng và 4 tốt; Ông rất kể lể mình đã đẻ ra cụm từ "Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN" sau khi Bắc Kinh công bố "Kinh tế thị trường với đặc tính Trung Quốc"; và ông luôn tuyên bố tại Quốc Hội: "Không đem chuyện Biển Đông vào nghị trình vì không có diễn tiến gì mới".... Nhưng nay, ông Trọng nhất quyết không đi. Đến cả tướng Nguyễn Chí Vịnh và Phùng Quang Thanh , những người luôn to tiếng khẳng định sẽ "giải quyết triệt để" những người Việt yêu nước mỗi lần Bắc Kinh làm nhục Việt Nam, hay rất lo lắng khi thấy dân Việt ghét quân xâm lược quá, cũng cự tuyệt không đi dự buổi diễu binh 3/9. Có thể nói chuyến này tương đương với "dấu chấm hết" cho cả sự nghiệp chính trị lẫn mạng lưới đàn em bên dưới ông Sang. Hiển nhiên, về mức độ thì "bị đẩy đi dự lễ 3/9 tại Bắc Kinh" chưa nặng bằng "bị đẩy vào làm trưởng ban điều hòa sinh đẻ" như Tướng Giáp, nhưng chủ đích của hai đòn cực độc đó giống hệt nhau. Đó là cố tình dùng sự bất lực tuyệt đối và sự chịu nhục đến mức mất liêm sỉ của chủ tướng để dập tắt hoàn toàn hy vọng nơi hàng ngũ cán bộ dưới trướng. Sau đó, chẳng cần làm gì thêm, toàn bộ đội ngũ này sẽ vẫn nhanh chóng tan rã hoặc bỏ đi đầu quân nơi khác. Ai còn chút hy vọng ông Sang sẽ làm một hành động vì nước vì dân nào đó như tiếng gầm cuối cùng của con hổ trước khi mãi mãi tắt tiếng sau Đại Hội XII, thì nay cũng đều thất vọng, nhìn cảnh ông Sang lầm lủi, ngậm miệng đi Tàu. Những người bực mình hơn vì đã ủng hộ ông Sang nhiều năm qua, nay đang phê phán: Không lẽ ông Chủ tịch nước chỉ có dáng vẻ "sang" bề ngoài còn trong gan ruột lại thiếu "dũng" tới mức đó!? Đến như Phùng Quang Thanh còn biết dùng mưu ngã bệnh ung thư giả để thoát hiểm! Nguồn: https://www.facebook.com/radiochantroimoi/posts/961748467202039:0
......

Thảm kịch xét tuyển Đại học 2015

Trong những ngày trung tuần tháng Tám 2015 vừa qua, song song với tin tức về hàng loạt vụ thảm sát nhiều người cùng một lúc xảy ra trên khắp Việt Nam như ở Nghệ An, Bình Phước, Yên Bái, Tây Ninh, Gia Lai… giới truyền thông quốc nội cũng đã sôi động dồn dập với những bài viết về sự bất bình của dư luận liên quan đến Kỳ xét tuyển Nguyện vọng 1 Đại học - Cao đẳng 2015, diễn ra từ 1/8 đến 20/8. Hình ảnh các hội trường chật kín người với những gương mặt phờ phạc của phụ huynh và thí sinh nộp đơn; hay câu chuyện chiếc xe cấp cứu 115 được thuê chỉ để chở mẹ con một thí sinh đại học ra Hà Nội rút hồ sơ sao cho kịp nộp vào một trường khác; hoặc hành động của hàng trăm ngàn Facebooker kêu gọi Bộ trưởng Giáo dục Phạm Vũ Luận hãy có một lời xin lỗi, đồng thời từ chức; và đặc biệt nhất là cảnh một thanh niên trẻ đứng biểu tình trước văn phòng Bộ Giáo dục với một tấm hình chú chuột bạch sắp bị tiêm thuốc, cùng dòng chú thích “Học sinh, sinh viên không phải là Chuột Bạch”… đã cho chúng ta thấy rõ nỗi thất vọng và sự bất bình của dư luận đối với cách thức tổ chức của kỳ xét tuyển đại học vừa qua. Nhìn lại quá khứ… Trước năm 1975, nền giáo dục theo tinh thần Nhân bản, Dân tộc, và Khai phóng của Việt Nam Cộng Hòa quy định con đường vào đại học có 2 cách là Thi tuyển và Ghi danh. Hệ Thi tuyển chỉ dành cho các ngành đào tạo chuyên môn, số lượng tuyển sinh khá giới hạn, vì vậy những thí sinh trúng tuyển đều là những học sinh thuộc loại khá. Còn hệ Ghi danh thì mở rộng cho tất cả những ai muốn nâng cao kiến thức, với đầu vào rất dễ dàng đơn giản, nhưng đầu ra thì vô cùng khó, đòi hỏi sinh viên phải thật sự có lực học - xứng đáng đúng trình độ cử nhân tốt nghiệp đại học. Sau năm 1975, mặc dù nền giáo dục theo tinh thần “cách mạng” của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã liên tục thực hiện nhiều cuộc cải cách - tính đến nay đã có được 40 lứa “chuột bạch” vào đại học và còn 11 lứa nữa đang trên các mái trường phổ thông - nhưng loay hoay mãi vẫn chưa thấy đâu là điểm dừng hợp lý. Từ năm 1975 cho đến những năm 89-90, nhà cầm quyền CSVN siết chặt con đường vào đại học. Đầu vào đại học chỉ có một cách là vượt qua kỳ thi tuyển. Đề thi thì vẫn được giao cho các trường tự ra. Học trò đạt điểm thì đậu, không đạt thì rớt - chẳng oán hận ai, chỉ biết trách mình. Tuy nhiên, cửa ải lý lịch của CSVN đã khiến nhiều thế hệ không thể có cơ hội bước vào ngưỡng cửa giảng đường. Từ những năm 91-92, luồng gió mới của thời kỳ “đổi mới” cũng đã tác động vào ngành giáo dục. Với sự xuất hiện một số trường đại học tư và ngành học mới, đầu vào đại học được mở ra thông thoáng hơn. Đề thi vẫn do các trường tự ra, nhưng thí sinh có thể tham gia đến 3 kỳ thi đại học trong một mùa. Tuy nhiên, một điều tệ hại là từ thời kỳ này giới chức CSVN bắt đầu hé cửa cho việc tuyển sinh tràn lan, thả nổi chất lượng đào tạo - hướng toàn xã hội quen với tư tưởng trọng bằng cấp hơn thực học, hay còn gọi là chạy theo bằng cấp. Từ năm 2005 trở đi, việc xuất hiện ồ ạt hàng loạt trường đại học cấp tỉnh và đại học tư (được coi là những bộ máy kiếm tiền và là nơi bố trí chỗ ngồi mới cho các quan chức cộng sản về hưu) đã khiến cho xã hội Việt Nam lâm cảnh “người người học đại học, nhà nhà học đại học”. Các trường thi nhau chạy theo lợi nhuận nên bùng phát thực trạng tuyển sinh tràn lan, và thả nổi chất lượng đào tạo. Bộ Giáo dục bắt đầu nắm giữ luôn quyền ra một đề thi chung duy nhất cho toàn quốc. Do số lượng trường quá nhiều, dẫn đến việc điểm chuẩn để đậu vào các trường không đồng đều, có những trường lấy điểm chuẩn rất cao, nhưng lại cũng có nhiều nơi chọn điểm chuẩn thấp không thể tưởng. Không ít trường chỉ đạt 8 điểm/3 môn - tức là trung bình mỗi môn chưa tới 3/10 điểm. Xã hội bắt đầu xuất hiện cảnh tréo ngoe, nhiều thí sinh điểm cao thì rớt đại học, còn vô số học sinh điểm thấp thì lại đậu. Để chữa cháy, Bộ Giáo dục tiếp tục ban hành quy chế Điểm Sàn, nhằm quy định mức điểm tối thiểu được cho phép vào đại học cho có vẻ công bằng. Tuy nhiên từ khi xuất hiện đến nay, chưa năm nào khung Điểm Sàn vượt quá ngưỡng 13.5 điểm/3 môn - tức là mỗi môn tối đa chỉ đạt mức 4.5/10 điểm. Từ thời kỳ này, bắt đầu xuất hiện cảnh chạy đua rút và nộp hồ sơ vào những trường điểm thấp, tuy nhiên không đến nỗi gây ra thảm cảnh như hiện nay, vì thí sinh biết rõ điểm chuẩn của trường mà mình chạy đến nộp đơn. Cũng từ thời gian này các ngôi trường sinh sau đẻ muộn, nhất là các trường tư, bắt đầu được Bộ Giáo dục cho phép đào tạo một lúc cả 3 hệ, gồm Trung cấp, Cao đẳng và Đại học. Tất cả những thí sinh dù thi đại học chẳng có được điểm nào vẫn có thể ghi danh học hệ Trung cấp (tương đương vào học lại trung học phổ thông) ở một trường đại học nào đó, sau đó sẽ chuyển tiếp lên bậc Cao đẳng, rồi tiếp tục liên thông lên bậc Đại học - cuối cùng cũng đường hoàng tốt nghiệp đại học, chỉ có điều là chịu mất thời gian hơn lâu chừng 2 năm (so với 4 năm của hệ đại học bình thường). Thực trạng này tất yếu thúc đẩy chất lượng giáo dục xuống đến mức cùng cực. Xuất hiện hàng triệu cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ học giả bằng thực, dẫn đến thực trạng có bằng cấp cao nhưng thất nghiệp tràn lan. Thảm kịch năm 2015 Năm 2015, Bộ Giáo dục CSVN tiến đến một bước cải cách mới là bỏ hẳn kỳ thi Đại học, các trường chỉ xét tuyển Đại học căn cứ điểm thi tốt nghiệp Trung học phổ thông. Với tư tưởng đầy chất “bạo lực cách mạng” hơn hẳn tính “nhân bản giáo dục”, Bộ trưởng Giáo dục Phạm Vũ Luận hùng hồn khẳng định đây là “trận đánh lớn”. Thế nhưng, tầm nhìn chiến lược của những bộ óc “đỉnh cao trí tuệ cộng sản” này đã khiến hàng triệu thí sinh lâm cảnh “kẻ bại trận” trước “trận đánh lớn” của Bộ Giáo dục. Họ hoảng loạn quay cuồng giống như các nhà đầu tư đang chạy theo những chỉ số của “thị trường chứng khoán” trong suốt 20 ngày của tháng Tám vừa qua. Nguyên cớ gây ra sự hoảng loạn và phẫn nộ của dư luận chính là thời gian ấn định nộp hồ sơ xét tuyển quá dài - đến 20 ngày. Với 20 ngày này, những thí sinh “khôn ngoan” sẽ án binh bất động hơn 2/3 thời gian để chờ xem xét tình hình. Trong khi đó hầu hết các thí sinh khác đều đã nhanh chóng đi nộp hồ sơ vào ngôi trường mình đã dự định ngay những ngay đầu tiên. Sau khi đã nắm bắt rõ được điểm số dao động và mức giới hạn an toàn, vào lúc gần đến kỳ hạn chót, những thí sinh “khôn ngoan” sẽ bắt đầu nắm quyền chủ động nộp hồ sơ vào những trường mà họ biết mình chắc chắn giành được chỗ, không cần quan tâm đến việc sẽ học ngành nghề gì, chỉ cần là có nơi để học đại học là được. Việc này dẫn đến làn sóng rút hồ sơ tháo chạy tán loạn của hàng loạt những thí sinh có điểm thi thấp nhưng đã nộp hồ sơ trước đó, sau đó ào ào tìm đến các trường khác nộp - rồi tiếp tục lập lại điệp khúc rút nộp ở nhiều nơi khác… gây ra một thảm cảnh tan tác như ong vỡ tổ. Nguyên ủy vấn đề Nhìn kỹ thực trạng giáo dục từ sau 1975 đến nay, chúng ta có thể tóm lược sơ khởi 4 nguyên do dẫn đến thảm cảnh giáo dục hiện thời. 1/ Nguyên do đầu tiên là bởi giới chức CSVN chạy theo lợi nhuận trước mắt, cho phép thành lập quá nhiều trường đại học. Việc này dẫn tới sự mất cân bằng cung cầu, không cân đối được đầu ra sau khi tốt nghiệp, đưa đến mất cân bằng xã hội. Các trường vì chạy theo doanh thu nên thả nổi chất lượng cả đầu vào lẫn chất lượng đào tạo - đồng thời kéo cả xã hội lao đầu vào duy nhất một con đường học đại học. 2/ Nguyên do thứ nhì là Bộ Giáo dục hiện nay không giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các trường, khiến họ lâm cảnh bị động trong việc quyết định chất lượng đầu vào và mức điểm chuẩn của mình. 3/ Nguyên do thứ ba là hệ quả trực tiếp từ nguyên do đầu tiên - đó là thực trạng thả nổi chất lượng đào tạo. Thực trạng thả nổi chất lượng đào tạo ở các cấp trung học khiến hầu hết thí sinh không hề nắm bắt được học lực thực sự của mình nằm ở mức nào. Điền này dẫn đến số lượng thí sinh cùng lúc dồn vào một số trường rất cao, dù năng lực thật chưa đạt tới. Kết cuộc tất yếu là cảnh họ phải tháo chạy khi những thí sinh có điểm số cao hơn kéo đến áp đảo. 4/ Nguyên do thứ tư cũng là hệ quả trực tiếp từ nguyên do đầu tiên - đó là thực trạng chạy theo bằng cấp. Thực trạng này khiến hầu hết phụ huynh luôn dồn ép con cái mình phải bằng mọi giá học đại học cho nở mày nở mặt. Dẫn đến việc thí sinh nhắm mắt lao vào con đường đại học chứ không chọn đi theo một hướng khác thực tế hơn và phù hợp năng lực hơn cho tương lai sau này của chính mình. Để có thể chấn chỉnh được thực trạng hỗn loạn trong việc xét tuyển hiện nay, đồng thời dần dần đưa nền giáo dục Việt Nam trở lại quỹ đạo phát triển chung, nhà chức trách chắc chắn còn rất nhiều điều cần phải làm. Nhưng 3 việc cần kíp nhất phải ưu tiên giải quyết là 1/giảm số lượng trường Đại học xuống cho phù hợp với nhu cầu xã hội; 2/giao quyền chủ động tuyển sinh cho những trường đó theo con số lượng thực mà xã hội cần; và 3/chấn chỉnh lại chất lượng đào tạo ở cả các cấp phổ thông cũng như bậc đại học, theo hướng thực nghiệm và khai phóng với thế giới bên ngoài. Mặc Thủy 27/8/2015
......

Hai tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật và Thái Văn Dung mãn án tù

Hai tù nhân lương tâm trẻ Trần Minh Nhật và Thái Văn Dung thuộc nhóm thanh niên Công giáo- Tin Lành bị kết án tù về tội ‘âm mưu lật đổ chính quyền’ theo điều 79 Bộ Luật Hình Sự Việt Nam vừa mãn án tù. Sau khi ra khỏi nhà giam họ chia sẽ lại một số điều trong thời gian bị bắt, bị tù tội và những suy nghĩ lúc này với biên tập viên Gia Minh, Đài Á Châu Tự Do trong phần sau. Không nhận tội Phiên tòa sơ thẩm xử nhóm hơn chục thanh niên Công giáo- Tin Lành diễn ra tại thành phố Vinh trong hai ngày 8 và 9 tháng giêng năm 2013. Họ bị buộc tội có hoạt động nhằm lật đổ chính quyền Hà Nội hiện nay và là đảng viên của Đảng Việt Tân trụ sở chính tại Hoa Kỳ. Các phiên xử sơ thẩm hay phúc thẩm đều được nói là công khai, thế nhưng rất ít người thân của những thanh niên bị đưa ra xét xử được cho vào phòng xử án; bởi vậy đó thông tin về việc họ nhận tội ra sao cũng không được nhiều người tường tận. Theo các cựu tù nhân sau khi ra khỏi nhà giam thì suốt thời gian từ khi bị bắt cho đến lúc đưa đi thụ án và trước ngày mãn án, họ đều bị áp lực phải ký giấy nhận tội; nhưng điều này không được đáp ứng như lời của anh Trần Minh Nhật sau khi về đến nhà từ trại Gia Trung vào trưa ngày 27 tháng 8 như sau: “ Tôi không phạm tội gì cả mà tôi không phạm tội thì không ai có thể ép tôi ký nhận tội cả. Dĩ nhiên trước đó họ có đưa vào một bản cam kết không tái phạm tội; nhưng tôi đã xé bản cam kết không tái phạm tội vì tôi tự hỏi ‘tôi phạm tội gì’; thế nên những đơn đó không có giá trị với tôi” Cựu tù nhân lương tâm Thái Văn Dung, người mãn án hôm ngày 19 tháng 8 vừa qua cũng nói về điều này: “ Tất nhiên 3 tháng, 6 tháng, quí xét giảm ản họ đưa ra các bản cam kết để xét giảm án, nhưng tôi ghi trong đó không nhận tội. Tôi không công nhận điều 79 Bộ Luật Hình sự.” Đấu tranh trong tù Trong thời gian bị giam giữ, những cựu tù nhân chính trị như các anh Trần Minh Nhật, Thái Văn Dung …đấu tranh đòi hỏi quyền lợi cho bản thân cũng như những tù nhân khác. Họ từng phải áp dụng biện pháp cuối cùng là tuyệt thực. Chúng tôi không đòi hỏi gì nhiều mà chỉ đòi hỏi con người cần được tôn trọng và nhân quyền cần được bảo đảm Trần Minh Nhật Anh Trần Minh Nhật cho biết đáp ứng của trại giam sau những lần tuyệt thực của các anh em tù chính trị như bản thân anh trong nhà tù: “ Tôi thấy tại những trại giam tôi qua, họ có một số cơ chế trong đó áp bức những người tù, đặc biệt phân biệt đối xử một số đối tượng. Họ không tôn trọng và không bảo đảm những qui định đã cam kết. Chúng tôi không đòi hỏi gì nhiều mà chỉ đòi hỏi con người cần được tôn trọng và nhân quyền cần được bảo đảm. Thế nhưng họ đã phớt lờ. Chúng tôi làm đúng thủ tục đến cùng rồi mới phải dùng đến hình thức tuyệt thực. Thật đáng tiếc khi người ta không cư xử với nhau bằng trái tim thì họ có những cách hành xử không đúng mực. Đó là điều tôi rất tiếc về những người thi hành pháp luật. Còn dĩ nhiên sau khi tuyệt thực có những thứ cải thiện mang tính hình thức. Tôi nói hình thức vì ví dụ như Trại Phú Sơn 4, Thái Nguyên, gọi là ‘thay đổi’ nhưng chỉ là hình thức mang tính chiếu lệ thôi!” Thái Văn Dũng cũng kể lại việc thực hiện biện pháp tuyệt thực và kết quả của những lần đó: “ Lần tuyệt thực nhiều nhất là vào ngày 1 tháng 1 năm 2015, tức kỷ niệm 1 năm Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ra đời, mà quyền tự do tín ngưỡng họ không thực thi cho mình. Hiến pháp chỉ có trên giấy tờ chứ không có tính thực tiễn, áp dụng vào đời sống của mọi người. Lúc đó tôi tuyệt thực 12 ngày đòi hỏi quyền lợi về sách tôn giáo, họ vẫn không cho mình đọc. Vào tháng 12 năm 2014, họ chuyển từ K5 Trại giam Thanh Hóa, tức là thời điểm trại Thanh Cẩm chuyển về K 3 Thanh Hóa thì trong buồng có TV và quạt điện, còn sách tôn giáo họ vẫn không cho mình đọc.” Tiếp tục con đường đã chọn Cựu tù nhân lương tâm Trần Minh Nhật trong ngày đầu ra khỏi trại giam có những chia xẻ như sau: “ Có một điều phải nói rằng có một điều mà tôi sẽ không bao giờ đánh đổi những gì mà tôi đã trải qua vì đó là một bài học vô giá. Bài học để tôi có thể nhìn nhận về con người, trong đó tôi nhận thấy rằng một xã hội không đặt nền tảng trên sự bình đẳng, không đặt nền tảng trên công lý và yêu thương giữa con người với nhau thì đừng nói gì đến văn minh hay tiến bộ cả. Tôi nghĩ rằng tôi cần phải trả món nợ đó. Món nợ đối với gia đình của tôi, những người yêu thương tôi, món nợ đối với tổ quốc nơi tôi dã sinh ra trong tư cách một công dân- nơi mà người dân của tôi dường như đang bị những áp bức không cần thiết; và món nợ với niềm tin mà tôi đã sống, và nhờ đó mà tôi vượt qua được những năm tháng tù đày. Tôi nghĩ rằng tôi luôn sống trong tư cách của một người công dân, và với tôi là người có niềm tin, tôi sẽ sống như tôi cần phải sống; tôi thấy rằng tôi sẽ luôn tôn trọng tất cả mọi người như tuân thủ pháp luật, nhưng tôi là một con người tự do nên tôi sẽ hành xử như một con người tự do.” Tất nhiên sẽ có một số vấn đề, sắp đến họ sẽ tìm cách trù dập mình, họ làm một số vấn đề cho mình nhụt chí. Đối với những vấn đề đó tôi đã chuẩn bi tâm lý sẵn sàng rồi, cần thiết cũng có thể đi vào tù lần thứ hai Thái Văn Dung Thái Văn Dung cũng cho biết hướng công việc hiện nay của bản thân: “ Mình công khai hoạt động nên bây giờ mình hoạt động một số vấn đề về các tổ chức xã hội dân sự, đấu tranh đòi những quyền lợi chính đáng mà con người chúng ta cần được hưởng. Tất nhiên sẽ có một số vấn đề, sắp đến họ sẽ tìm cách trù dập mình, họ làm một số vấn đề cho mình nhụt chí. Đối với những vấn đề đó tôi đã chuẩn bi tâm lý sẵn sàng rồi, cần thiết cũng có thể đi vào tù lần thứ hai.” Xin được nhắc lại anh Phao lô Trần Minh Nhật bị bắt tại Sài Gòn vào ngày 27 tháng 8 năm 2011 và bị kết án 4 năm tù giam và 3 năm quản chế. Tuy nhiên theo anh này thì tại phiên phúc thẩm, tại tòa Hội đồng xử án chỉ tuyên bố anh bị 4 năm tù giam mà không nói gì đến quản chế, thế nhưng trong văn bản lại có. Anh tỏ ra thắc mắc về cách làm việc này của tòa Việt Nam. Giaon Thái Văn Dung bị bắt vào ngày 19 tháng 8 năm 2011 tại Hà Nội. Anh bị kết án 4 năm tù giam và 4 năm quản chế. Trong nhóm những thanh niên Công giáo- Tin Lành bị đưa ra xét xử ở Vinh có 2 người chịu mức án cao nhất 13 năm tù cho mỗi người là Hồ Đức Hòa và Đặng Xuân Diệu. Nhóm này còn có Nguyễn Đặng Minh Mẫn hiện thụ án 8 năm tù tại Trại giam Yên Định, Thanh Hóa. Đây cũng là nơi giam giữ cô Tạ Phong Tần, bị tuyên án 10 năm tù với cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam’. http://www.rfa.org/…/new-release-2-prison-of-concien-082720…
......

Mặt trận truyền thông của đảng

Trong Đại hội lần thứ X Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức ở Hà Nội ngày 9/8/2015, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo truyền thông báo chí nhà nước cần tỉnh táo trước thông tin lợi dụng dân chủ đòi đa nguyên đa đảng, lợi dụng chống tham nhũng để bôi xấu chế độ và chia rẽ nội bộ. Những chỉ đạo vừa kể của ông Nguyễn Phú Trọng được ông Nguyễn Bắc Son, bộ trưởng bộ Thông Tin và Truyền Thông, lập lại trong đại hội Đảng bộ Bộ TT&TT lần thứ IV hôm 20/8 vừa qua, nhưng lần này ông Nguyễn Bắc Son nhắm vào môi trường internet. Ông Nguyễn Bắc Son nói rằng: “Các thế lực thù địch vẫn tăng cường lợi dụng môi trường internet để tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ; kích động, xúi giục các phần tử cơ hội, thoái hóa chống đối chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, gây chia rẽ nội bộ”. Nhìn chung thì những chỉ đạo của ông Nguyễn Phú Trọng và ông Nguyễn Bắc Son cho truyền thông đảng chẳng khác gì nhiều so với những chỉ đạo tương tự của ông Trương Tấn Sang 5 năm trước, hay thậm chí của ông Nông Đức Mạnh 10 năm trước. Có khác chăng là thêm những cảnh giác, đề phòng về các vấn đề mà trước đây đảng chưa phải bận tâm nhiều; chẳng hạn như đa nguyên, đa đảng, minh bạch thông tin, v.v... Như thế có nghĩa là, mặc cho sự liên tục “tăng cường lãnh đạo của đảng”, những chỉ đạo dồn dập của lãnh đạo đảng trên trận địa thông tin, cả hai mặt trận báo chí và internet của đảng đều ngày càng trở nên bị động, co cụm trước sự lớn mạnh của truyền thông tự do trong thời đại tin học ngày nay. Một thí dụ gần đây nhất cho tình trạng trên là chỉ trong tháng 7 vừa qua, vụ tướng Phùng Quang Thanh, vụ bình nước miễn phí cho dân nghèo ở Hà Nội và vụ xây dựng tượng đài ông Hồ Chí Minh ở Sơn La; trong cả ba vụ việc, báo chí và truyền thông lề đảng gần như bị tê liệt trước sự tấn công tới tấp của truyền thông lề dân, đặc biệt là trên mạng xã hội. Truyền thông lề dân không có những lợi thế để được tiếp cận thông tin như truyền thông lề đảng, nên có khi chỉ dựa vào những tin đồn trong những chuyện mờ ám cấp cao, về bí mật cung đình, về đấu đá nội bộ trong thượng tầng lãnh đạo đảng, về sự lũng đoạn của các nhóm đặc quyền... Tuy nhiên, do không phải tránh nét các “vùng nhạy cảm”, cùng sự phân tích logic, rạch ròi để làm sáng tỏ vấn đề; truyền thông lề dân thường đáp ứng được sự khao khát thông tin của công chúng. Đó là hệ quả tất yếu của một xã hội bất minh, sự thật bị che giấu, sự dối trá lên ngôi và quyền được thông tin của người dân không được tôn trọng. Thế nhưng đối với đảng CSVN, một đảng vốn có bản chất bất minh, thì lãnh đạo đảng không dám nhìn vào sự thực đó, nên họ thường biện minh bằng cách “đổ lỗi”. Trước đây thì đổ lỗi cho “hậu quả chiến tranh”, cho “tàn dư mỹ ngụy”, nay thì đổ lỗi cho “các thế lực thù địch”. Khi ông Nguyển Phú Trọng cảnh giác báo giới về những tin tức lợi dụng phòng chống tham nhũng để bôi xấu chế độ thì người ta tự hỏi có loại tin tức nào bôi xấu chế độ cho bằng lời phát biểu của ông: “Bây giờ ra khỏi nhà, cái gì cũng phải tiền, không tiền không trôi. Tham nhũng lớn cũng có, tham nhũng nhỏ cũng có, như ngứa ghẻ, rất khó chịu.”;hoặc lời phát biểu của ông chủ tịch nước Trương Tấn Sang rằng: “Trước kia chỉ có một con sâu làm rầu nồi canh. Nay thì nhiều con sâu lắm! Nghe mà thấy xấu hổ. Không nhẽ cứ để mãi như vậy, mai kia người ta nói là cả một bầy sâu, tất cả là sâu hết. Thế đâu có được! Một con sâu đã nguy hiểm rồi. Một bầy sâu là chết cái đất nước này!”; hay lời phát biểu của bà Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan rằng: “Bây giờ người ta ăn của dân không chừa một thứ gì“. Thế lực thù địch nào có khả năng tạo nên những vấn đề nhức nhối mà những người lãnh đạo cao nhất của đảng phải thừa nhận như vừa kể? Thế lực thù địch nào “bắt“ ông uỷ viên trung ương đảng Trần Văn Truyền “phải“ sở hữu đến mấy toà lâu đài? Hoặc “dụ“ được giám đốc công an Quảng Nam xây dựng trái phép một biệt thự 100 tỉ đồng trong rừng đặc dụng Hải Vân? Thế lực thù địch nào “nhúng tay“ vào đời tư của bác chủ tịch Nguyễn Trường Tô nằm tô hô (với nữ sinh tuổi vị thành niên) mà hình ảnh được tán phát để bàn dân thiên hạ thấy mặt thực “đời sống đạo đức“ của một trong những lãnh đạo cao cấp của đảng? Và còn bao nhiêu điều tương tự? Còn bao nhiêu “đồng chí chưa bị lộ“? Người ta có thể đặt ra hàng trăm hàng ngàn những câu hỏi về “âm mưu của thế lực thù địch“ như vừa kể, nhưng ở đây cũng nên nhắc lại một điều hiếm thấy khi người bên ngoài được biết đến. Đó là việc ông Nguyễn Phú Trọng đã phải “nghẹn ngào“ trên TV sau khi ông bị thua trong cuộc đấu đá với “đồng chí X“. Thế lực thù địch nào đã gây chia rẽ được thượng tầng lãnh đạo đảng như vậy? Ở một khía cạnh khác, ông Nguyễn Phú Trọng và ông Nguyễn Bắc Son cảnh giác giới truyền thông lề đảng về điều mà các ông gọi là thế lực thù địch lợi dụng tự do dân chủ đòi đa nguyên đa đảng, gây nghi ngờ chia rẽ nội bộ trong những ngày tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12 sắp đến, để yêu cầu báo chí cần tỉnh táo, cảnh giác và kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu “xuyên tạc, bịa đặt“. Hẳn là cả ông Trọng và ông Son đều biết rất rõ là Hiến pháp Việt Nam hiện hành không có điều khoản nào cấm lập hội, lập đảng. Không những thế, chính ông Nguyễn Tấn Dũng cũng đã từng khẳng định “người dân có quyền làm những điều luật pháp không cấm”. Như vậy, những điều ông Trọng và ông Son cảnh giác ở trên đều vi hiến và vi phạm luật pháp (thế nhưng không thấy ông Nguyễn Tấn Dũng lên tiếng về điều này). Như vậy làm sao truyền thông lề phải có thể “kiên quyết đấu tranh phản bác“ những đòi hỏi hợp hiến, hợp pháp được? Cả hai ông (Trọng và Son) đều yêu cầu báo giới và truyền thông cần quán triệt sâu sắc hơn nữa quan điểm báo chí là vũ khí sắc bén, là công cụ đắc lực của Đảng trên mặt trận tư tưởng. Thế nhưng, trong thời đại tin học ngày nay mỗi người dân đều có thể trở thành một chiến sĩ thông tin để cung cấp nhanh chóng cho quần chúng những sự thực về tình hình đất nước, về những đấu đá trong nội bộ đảng, về sự bán đất dâng biển cũng như sự quỵ luỵ của đảng đối với Trung Cộng, v.v..., truyền thông lề dân vừa soi mòn cột trụ truyền thông đảng, vừa chủ động hướng dẫn dư luận, trong khi báo đảng lúng túng như gà mắc tóc, cuối cùng phải chạy theo dư luận. Trong tình trạng như vậy thì những yêu cầu vừa kể của lãnh đạo chỉ là ước mơ không bao giờ thành sự thực. Đến đây cũng nên mở một dấu ngoặc để nhìn vấn đề một cách rộng lớn hơn, nhân việc một cậu học sinh 14 tuổi nhận định nền giáo dục của đảng nay đã “thối nát“ lắm rồi, cần một cuộc cách mạng để thay đổi; người ta thấy không chỉ lãnh vực giáo dục, mà toàn bộ các lãnh vực khác cũng đều thối nát. Chính cái đảng đang lãnh đạo đất nước và xã hội hiện nay cũng vừa thối vừa nát (không còn hình thù gì nữa), vì vậy cũng cần phải có cuộc cách mạng để tống khứ nó đi thì đất nước mới khá lên được. Tóm lại, truyền thông của đảng có thể đã có thời là vũ khí sắc bén, là công cụ đắc lực của Đảng trên mặt trận tư tưởng và từng được đảng tặng thưởng nhiều loại huân chương “ăn giỗ“ như huân chương Sao Vàng, huân chương Hồ Chí Minh, v.v..., nhưng đó là thời còn những “bức màn tre, màn sắt“ để bưng bít, để đảng độc quyền. Thời đó xa lắm rồi! Nay mọi góc cạnh thâm u của đảng đều bị truyền thông tự do soi rọi, để lộ rõ ra mọi thứ đều thối nát. Truyền thông của đảng thì bị cùn lụt, lại không còn mảnh vườn hoang để múa gậy nữa. Vì thế trận địa truyền thông của đảng ngày càng co cụm và dần dần bị vỡ trận là thế!
......

Nội Bộ Lãnh Đạo CSVN Trước Thềm Đại Hội Đảng XII

http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2015/08/20150823-ctm-... Radio Chân Trời Mới (Thanh Thảo): Trong những ngày vừa qua, báo chí tại Việt Nam đã loan tải về bản kết luận điều tra của Ban thanh tra chính phủ về việc ông Lê Hoàng Quân, chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Sài gòn đã để thất thoát 3,390 tỷ đồng tương đương với non 200 triệu Mỹ Kim tiền thuê, sử dụng đất của thành phố có nguy cơ không thu được. Đồng thời qua bản kết luận, Ban thanh tra chính phủ còn cho biết là các sở, ngành, huyện dưới quyền chỉ huy của ông Lê Hoàng Quân đã không thực hiện đúng trình tự, thủ tục về kê khai, không kê khai giá trị nhà và đất, tức là không minh bạch về tài sản. Bản kết luận điều tra của Ban thanh tra chính phủ phổ biến ngay vào lúc đảng CSVN đang cho tổ chức hàng loạt các đại hội cấp cơ sở để bầu lại thành phần lãnh đạo cấp đảng ủy trong 5 năm tới. Đặc biệt là đảng ủy Sài Gòn sẽ bầu lại thành phần lãnh đạo, trong đó ông Lê Hoàng Quân - đang là phó Bí thư - có nhiều triển vọng lên làm Bí thư thành phố thay thế ông Lê Thanh Hải sẽ về hưu. Để tìm hiểu những bí ẩn đàng sau bản kết luận của Ban thanh tra chính phủ và tương lai chính trị của ông Lê Hoàng Quân, xin mời quý vị theo dõi phần nhận định sau đây của ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân trong chương trình hôm nay. Thanh Thảo: Trước hết ông có nhận định ra sao về việc Ban thanh tra chính phủ công bố kết luận thanh tra trách nhiệm đối với ông Lê Hoàng Quân, Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Sài Gòn trong lúc đảng CSVN chuẩn bị đợt thay đổi nhân sự cho nhiệm kỳ 5 năm tới. Lý Thái Hùng: Trong bản kết luận thanh tra trách nhiệm đối với ông Lê Hoàng Quân của Ban thanh tra chính phủ đã nêu lên 3 điểm: 1/ Để thất thoát tài chánh lên khoảng 200 triệu Mỹ Kim; 2/ Thanh tra các sở, ngành, huyện trực thuộc làm việc sơ sài tức làm lấy có; 3/ Ít tiếp dân tức là không gần gũi dân chúng. Những điểm chỉ trích và quy trách nhiệm cho ông Lê Hoàng Quân nói trên không phải là điều mới lạ trong bộ máy quan liêu của chế độ Hà Nội. Nó bàng bạc ở hầu hết các Tỉnh, Thành cũng như các cơ quan trong bộ máy đảng và nhà nước vì nhu cầu “cộng sinh” giữa các quan chức của chế độ. Cán bộ không thể sống với đồng lương rẻ mạt nên đã đẻ ra tình trạng “cộng sinh” trong mọi cơ quan để giúp nhau mà sống, nên tạo ra hiện tượng tham ô nhũng lạm càng lúc càng tệ hại do độc tài, bưng bít thông tin, thiếu trong sáng, vô luật lệ và hệ thống cường quyền tạo ra điều mà chính ông Trương Tấn Sang đã mô tả là một bầy sâu. Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao vào lúc này, Ban thanh tra chính phủ lại đưa ra bản kết luận thanh tra và yêu cầu ông Nguyễn Tấn Dũng chỉ đạo kiểm điểm và làm rõ trách nhiệm của ông Lê Hoàng Quân, nhằm vào mục tiêu gì? Thứ nhất, ông Lê Hoàng Quân là một ủy viên Trung ương đảng, hiện đang là phó Bí thư Thành ủy Sài Gòn kiêm chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố. Ông Lê Hoàng Quân được mô tả là cánh tay mặt của đương kiêm Bí thư Thành ủy Sài gòn Lê Thanh Hải. Ông Quân sinh năm 1953, còn trong hạn tuổi có thể trở thành Bí thư Thành ủy và bước vào Bộ chính trị trong kỳ đại hội XII diễn ra vào tháng 1/2016. Thứ hai, nội dung kết luận thanh tra đa số đề cập về sự yếu kém của ông Lê Hoàng Quân trong việc chỉ đạo hành chánh, kiểm tra các sở, huyện về quản lý đất đai, tài chánh hay kê khai tài sản. Nói cách khác là kết luận thanh tra cho thấy ông Lê Hoàng Quân không xứng đáng là một chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố vì không có khả năng chỉ đạo. Thứ ba, bản kết luận thanh tra được công bố hai tháng trước khi Thành ủy Sài Gòn họp đại hội để bầu lại thành phần nhân sự lãnh đạo cho 5 năm tới (2015 – 2020) chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp chính trị của ông Lê Hoàng Quân. Nói cách khác, bản kết luận thanh tra tung ra vào lúc này là nhằm triệt hạ ông Lê Hoàng Quân và những người liên hệ. Tóm lại, kết luận thanh tra là một âm mưu của một phe nhóm nào đó tung ra để dọn đường cho người của họ nắm quyền lực Thành ủy Sài Gòn trong 5 năm tới. Thanh Thảo: Nếu dựa trên những phân tích của ông thì phe nhóm nào đứng đằng sau vụ tấn công nhằm triệt hạ ông Lê Hoàng Quân? Lý Thái Hùng: Ban thanh tra chính phủ trực thuộc sự chỉ đạo của ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng chính phủ. Do đó, ta có thể thấy ngay phe nhóm chủ lực triệt hạ ông Lê Hoàng Quân là ai. Hơn thế nữa, trong khi bản báo cáo được gửi lên Thủ tướng, thì một vài tờ báo như Một Thế Giới, VnExpress, Thời Báo Kinh Tế Việt Nam đã phổ biến một số nội dung dưới tựa đề mang tính giật gân; thí dụ báo Một Thế Giới: “Những sai phạm khó tin ở TP Sài Gòn dưới quyền Chủ tịch Lê Hoàng Quân”. Điều này ai cũng thấy rõ là phe Nguyễn Tấn Dũng muốn triệt hạ Lê Hoàng Quân, vây cánh của Lê Thanh Hải, đương kiêm Bí thư Thành ủy Sài Gòn để đưa người của họ vào thay thế. Theo sự phân tích của nhiều nhà bình luận quốc tế thì Lê Thanh Hải, Lê Hoàng Quân thuộc cánh của Nguyễn Phú Trọng. Nhân vật mà phe ông Nguyễn Tấn Dũng muốn đưa lên thay thế là Võ Văn Thưởng, hiện là phó bí thư thường trực Thành ủy Sài Gòn. Ông Thưởng trước đây là Bí thư Tỉnh Quảng Ngãi, nhưng được hoán chuyển vào làm việc ở Sài Gòn vào tháng 4/2014. Thanh Thảo: Nếu như đại hội toàn đảng XII dự kiến khai mạc đầu năm 2016, thì ngay thời điểm này, Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương đảng đã phải họp vào tháng 7 hay tháng 8, để sắp xếp nhân sự và chung quyết về đường lối, nhưng lý do gì Trung ương đảng chưa nhóm họp thưa ông? Lý Thái Hùng: Ban chấp hành trung ương đảng gồm 175 ủy viên chính thức và 25 ủy viên dự khuyết họp 6 tháng 1 lần tại Hà Nội và phiên họp thường kéo dài từ 5 đến 7 ngày. Ban chấp hành trung ương đảng nhiệm kỳ XI (2011-2015) cho đến nay đã họp 10 kỳ hội nghị. Hội nghị 10 đáng lý ra họp vào tháng 10/2014 nhưng đã dời đến tháng 1/2015. Trên nguyên tắc thì Ban chấp hành trung ương XI sẽ còn họp 2 khóa 11 và 12 trong năm nay, nếu Bộ chính trị CSVN vẫn còn giữ ý định tổ chức Đại hội XII vào tháng 1/2016. Đáng lý ra, Hội nghị 11 của Ban chấp hành Trung ương đã phải nhóm họp. Hội nghị này rất quan trọng vì phải làm hai quyết định tối cần: 1/ Đường lối, chính sách cho 5 năm tới; 2/ Nhân sự lãnh đạo trong Trung ương đảng, Bộ chính trị và nhất là nhân sự trong bộ tứ (tổng bí thư, chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội) cho 5 năm tới. Sự kiện Hội nghị 11 chưa có thể nhóm họp, đưa đến hai nghi vấn: Thứ nhất là chưa đạt được sự thống nhất về đường lối trong Trung ương đảng, đặc biệt là các chính sách về kinh tế, an ninh quốc phòng để đáp ứng tình hình mới. Thứ hai là có sự đấu đá gay gắt giữa các phe nhóm về vấn đề nhân sự lãnh đạo trong bộ tứ, do bàn tay khuynh loát của Trung Quốc. Chính việc Hà Nội cố tạo hình ảnh “bình thường hóa” sự hiện hữu của Tướng Phùng Quang Thanh sau những thông tin bất thường về tướng Thanh, cho thấy là áp suất của Trung Quốc vẫn còn đè nặng lên vấn đề sắp xếp nhân sự của lãnh đạo CSVN. Nói tóm lại, Hà Nội chưa có thể triệu tập Hội nghị lần thứ 11 Trung ương đảng là vì sự xung khắc giữa các nhóm quá lớn, do những tiến thoái lưỡng nan trong mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc hiện nay. Thanh Thảo: Nhiều nhà quan sát cho rằng lãnh đạo CSVN đang xoay trục từ Trung Quốc chuyển sang Hoa Kỳ và Nhật Bản để giảm thiếu các ảnh hưởng của Trung Quốc, kể từ khi ông Trọng gặp Tổng thống Obama hồi tháng 7/2015 vừa qua. Ông nghĩ sao về điều này? Lý Thái Hùng: Nhìn trên mặt hiện tượng thì đúng là Hà Nội đang chuyển từ Trung Quốc sang Hoa Kỳ, qua chuyến viếng thăm Hoa Kỳ từ ngày 6 đến 10 tháng 7 vừa qua của ông Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên ở đây chúng ta cần phải hiểu là CSVN đang muốn “chuyển” điều gì từ Trung Quốc sang Hoa Kỳ và tại sao họ phải “chuyển”. Từ năm 1990 cho đến năm 2014, mối quan hệ giữa CSVN và Trung Quốc bao trùm lên mọi lãnh vực từ đảng, kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, tình báo, văn hóa vân, vân… Từ khi xảy ra vụ Trung Quốc mang giàn khoan HD 981 vào sâu trong thềm lục địa Việt Nam (tháng 5/2014) và cho bồi đắp 7 đảo nhân tạo và xây căn cứ quân sự (2013-2015) tại Trường Sa, CSVN thấy rằng Trung Quốc không những không còn là chỗ dựa an toàn mà còn đe dọa đến chủ quyền biển đảo của Việt Nam, cụ thể là Bắc Kinh có thể đánh chiếm 21 đảo, bãi đá chìm mà Hà Nội đang kiểm soát trong quần đảo Trường Sa. CSVN tiếp cận với Hoa Kỳ và Nhật Bản nhắm vào 3 yêu cầu: Thứ nhất là mua vũ khí sát thương của Hoa Kỳ, nhận viện trợ (hiện nay là tàu bè) từ Nhật Bản để tăng cường khả năng phòng thủ trên biển Đông. Thứ hai là đàm phán để gia nhập vào TPP. Đây là thị trường rất quan trọng cho CSVN để không chỉ đưa nền kinh tế hòa nhập với các cường quốc mà để giảm bớt sự lệ thuộc vào nền kinh tế Trung Quốc. Thứ ba là qua sự ủng hộ tích cực của Hoa Kỳ và Nhật Bản, khối ASEAN sẽ gia tăng đoàn kết để áp lực Trung Quốc phải nghiêm chỉnh chấp nhận đàm phán đa phương, nhất là thi hành bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông (COC). Như vậy vấn đề “chuyển trục” của CSVN nói trên chỉ là nhằm giải quyết bài toán biển Đông với hai áp lực có ảnh hưởng trực tiếp lên sự tồn vong của chế độ, đó là: bản chất nham hiểm và bá quyền của Trung Quốc, và sự phân hóa trong thượng tầng lãnh đạo CSVN giữa hai khuynh hướng thoát Trung và bám Trung. Việc CSVN đi gần hơn với Hoa Kỳ không nhằm đưa đất nước hòa nhập vào thế giới tự do dân chủ và dứt khoát thoát khỏi sự lệ thuộc Trung Quốc, mà chỉ quanh quẩn trong ngõ hẹp của sự bảo vệ quyền lực độc tôn, tư duy nô lệ Bắc Triều, và vấn nạn Hán Hóa quá sâu không còn rút chân ra được nữa. Điều này đã giải thích lý do vì sao ông Nguyễn Phú Trọng vẫn còn những tuyên bố như: “tiếp tục duy trì mối quan hệ để cùng tồn tại và không làm lớn chuyện các khác biệt, gây đổ vỡ quan hệ láng giềng hữu nghị”, để tránh né không làm Bắc Kinh khó chịu. Thanh Thảo: Một cách tổng quát, tình hình đảng CSVN hiện nay ra sao và liệu sự chuyển giao quyền lực giữa ông Trọng với một Tổng bí thư mới có suông sẻ hay không? Lý Thái Hùng: Trong 16 thành viên của Bộ chính trị hiện nay, có 10 thành viên gồm các ông Nguyễn Phú Trọng (1944), Nguyễn Sinh Hùng (1947), Ngô Văn Dụ (1947), Tô Huy Rứa (1947), Lê Hồng Anh (1949), Nguyễn Tấn Dũng (1949), Phạm Quang Nghị (1949), Trương Tấn Sang (1949), Phùng Quang Thanh (1949), Lê Thanh Hải (1950) sẽ phải từ nhiệm vì vượt quá giới hạn tuổi 65. 6 thành viên còn lại Đinh Thế Huynh (1953), Nguyễn Thị Kim Ngân (1954), Tòng Thị Phóng (1954), Nguyễn Xuân Phúc (1954), Trần Đại Quang (1956) – có nhiều xác xuất không là tất cả – được tái nhiệm. Nhưng những nhân vật này không có đủ khả năng để được đưa lên làm Tổng bí thư thay thế ông Nguyễn Phú Trọng. Vì thế, 2 trong 10 thành viên phải từ nhiệm ở trên có thể được chọn làm Tổng bí thư đảng cho nhiệm kỳ XII (2016-2021). Đó là các ông Nguyễn Phú Trọng (lưu nhiệm) và Nguyễn Tấn Dũng. Trong thời gian qua, ông Nguyễn Tấn Dũng có rất nhiều ảnh hưởng đối với Trung ương đảng nhờ những ban phát về quyền lợi phe nhóm, và là nhân vật có những phát biểu đi gần với Mỹ và Nhật trong vấn đề biển Đông, nên có nhiều xác suất được bầu vào trách vụ Tổng bí thư. Tuy nhiên qua chuyến viếng thăm Hoa Kỳ và Nhật Bản gần đây, ông Nguyễn Phú Trọng đã chứng tỏ bản lãnh có thể “nói chuyện” với cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc để làm an lòng khối đảng viên thân Tàu và muốn thoát Tàu. Do đó có thể ông Trọng lại được lưu nhiệm thêm một nhỉệm kỳ 5 năm. Do những diễn tiến phức tạp giữa hai phe Nguyễn Tấn Dũng và Nguyễn Phú Trọng như vậy nên Hội nghị lần thứ 11 của Ban chấp hành Trung ương đảng chưa triệu tập là vì vậy. Thanh Thảo: Cảm ơn ông Lý Thái Hùng Nguồn: http://radiochantroimoi.com/
......

Khi Thứ trưởng Trương Minh Tuấn ra tay!

“Báo chí phải ngừng khai thác thông tin tội ác câu khách”: đó là thông điệp mà Thứ trưởng Bộ 4T Trương Minh Tuấn đưa ra cho báo chí trong nước như một giới hạn cuối cùng. Trong cuộc họp với các báo tuần này, ông thứ trưởng được mô tả như rất “bức xúc” trước tình trạng hàng loạt tờ báo trong thời gian qua đã ào ạt khai thác tin tức từ những vụ án giết người với mục đích câu khách. Người ta có cảm tưởng như mọi tội lỗi đều được trút lên đầu đám nhà báo tội nghiệp, đồng thời cũng là những người được Bộ Thông tin và Ban tuyên giáo nắm chặt và dạy dỗ trong bao lâu nay. Ông đã hỏi các nhà báo có mặt trong buổi họp rằng: các bạn nghĩ gì khi mỗi sáng cầm tờ báo, thấy tràn lan những thông tin man rợ được báo chí thêu dệt thêm? Dĩ nhiên, những người có mặt chẳng cần nghĩ gì vì lâu nay họ quen để cho nhà nước nghĩ thay trong mọi vấn đề thuộc về tin tức. Mặc dù đây là một tình trạng mà các báo không thể chối cãi, nhưng đó là kết quả của một thực trạng mà đáng lẽ trong cương vị một người thứ trưởng, ông Tuấn phải biết. Thực trạng xã hội đó bùng nổ gần như khắp nước không phải không có lý do. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, từ đầu tháng 7 đến đầu tháng 8/2015 tại Nghệ An, Bình Phước, Quảng Trị, Yên Bái liên tiếp xảy ra những vụ án giết nhiều người trong cùng gia đình. Nguyên nhân gây ra những vụ “thảm sát” theo các báo tường thuật, chỉ vì những lý do rất cỏn con khiến dư luận bàng hoàng đặt nhiều câu hỏi. Không cần là một nhà xã hội học, người ta cũng nhìn ra một xã hội mà nhân tính con người đang đảo lộn đến tận cùng. Từ những vụ bình thản đánh đập người trộm chó đến chết, tới hàng loạt vụ trọng án gần đây, dường như sự mất nhân tính đã trở thành phổ biến. Nhưng cũng không ai ngạc nhiên. Sau 40 năm cai trị đất nước, chế độ đã biến đổi nhanh chóng những con người hiền hòa trở thành vô cảm, không còn phân biệt thiện ác. Trong xã hội, nhìn đâu cũng thấy cảnh bạo lực và chính lực lượng công an của nhà nước chứ không ai khác, là kẻ thủ ác mà hiếm khi bị pháp luật trừng trị. Họ là tấm gương đen tối cho kẻ xấu nhìn vào soi chung. Sự kiện các báo đua nhau khai thác tin tức các vụ án không chỉ để câu khách thông thường, mà họ nghĩ đây là một khu vực an toàn nhất vì những tin loại này có vẻ vô thưởng vô phạt. Nắm quyền sinh sát toàn bộ báo chí quốc doanh trong tay, nhưng ông thứ trưởng có vẻ quên những gì Phó ban tuyên giáo Vũ Ngọc Hoàng tuyên bố hồi tháng 6/2015. Báo chí Việt Nam là một nền báo chí “4 sợ” lẫn “4 không”. Sợ viết sai, sợ nói sai, sợ bị đánh giá, sợ bị quy chụp quan điểm; nên không tìm hiểu, không nghiên cứu, không viết, không phản ảnh. Tránh né mọi đề tài chính trị xã hội “nhạy cảm”. Và thay vào đó, những vụ cướp của, giết người, hiếp dâm xảy ra hàng loạt trong xã hội chính là những đề tài để các báo khai thác tự do, an toàn mà không phải sợ điều gì. Trong lãnh vực này, nhà báo có thể moi tin ở công an điều tra, tha hồ tung hoành với những tình tiết có thể giúp tờ báo bán chạy. Hơn là ngồi chờ tin tức về sức khỏe ông Phùng Quang Thanh từ bộ đưa xuống để viết theo đúng từng câu chữ. Chẳng qua đó cũng chỉ là một cách phản ứng của báo chí để lấp đầy khoảng trống của tin tức một chiều mà ngày nay không còn ai muốn đọc. Một xã hội không lành mạnh dĩ nhiên dẫn tới một loại báo chí càng ngày càng thiên về “lá cải” để thỏa mãn thị hiếu quần chúng. Bất kể những lời rao giảng về đạo đức nghề nghiệp hay trách nhiệm với cộng đồng, mục tiêu mà đảng đề ra cho báo chí “xây dựng lòng tin vào đảng” chỉ còn là lời nói suông. Mặt khác, có thể nói chính vì báo chí bị nắm quá chặt, bị định hướng quá nặng nề nên tình trạng báo chí quốc doanh sa lầy vào việc khai thác các vụ giết người rùng rợn để câu khách chỉ là hệ quả tất yếu. Đó là nhu cầu phải có độc giả để sống vì độc giả lâu nay đã hầu như quay lưng với loại tin tức một chiều khô cằn. Đây chính là cơ hội tốt để các báo sinh tồn bằng cách cùng nhau lao vào tận tình khai thác những chi tiết giật gân nhất. Thứ trưởng Trương Minh Tuấn cuối cùng phải đưa pháp luật ra răn đe, đòi “xử lý nghiêm khắc những cơ quan báo chí vi phạm quy định của pháp luật trong hoạt động báo chí”. Nhưng cách giải quyết của ông thật ra cũng không giải quyết được gì. Đây chỉ là một kiểu định hướng trong quản lý, khi bộ cảm thấy sự xé rào hay quá đà thì đe dọa dùng luật lệ để đưa báo chí trở về lề đảng. Gốc rễ của sự sai lầm đối với báo chí không được những người cầm đầu Bộ TT-TT nhìn thấy. Báo chí là công cụ của đảng để vo tròn bóp méo trong tay nên nền tảng của đệ tứ quyền hay yếu tố tự do của báo chí đã bị triệt tiêu từ đầu và chỉ còn trên văn bản hiến pháp làm mẫu. Cho nên dù có mang cả tổng biên tập ra tòa, dù có siết chặt sợi dây thòng lọng quanh cổ họ, khuynh hướng “lá cải” vẫn tồn tại dưới hình thức này hoặc hình thức khác. Điều tốt hơn hết, nhà nước cộng sản cần trả lại vai trò đích thực của đệ tứ quyền cho xã hội pháp quyền, trong đó độc giả là người phán xét cuối cùng, chứ không phải nhà nước. Chỉ khi nào báo chí được hoàn toàn tự do, phẩm chất của báo chí không cần bàn tay phù thủy của Bộ 4T cũng nhanh chóng được khôi phục và nâng cao. Nhưng đó là một ước mơ và ước mơ ấy chỉ có thể thành hiện thực khi sự độc quyền chính trị ra đi.
......

Đi xa hỏi già, về nhà hỏi trẻ

  Câu nói xưa của ông bà để lại, nghe mà đáng giá. Lời trẻ con thật thà, có thể nói lên được những điều mà người lớn đã quên hoặc né tránh. Chuyện cậu bé lớp 8 ở Hà Nội bình luận về hiện trạng giáo dục Việt nam đang trở thành sự kiện gây tranh cãi ở nhiều nơi là một ví dụ. Giờ đây, bất luận các ý kiến phản đối hay ủng hộ cách thể hiện của cậu bé này, thì vấn đề xuống cấp của giáo dục Việt Nam được đặt ra rất rõ ràng, quả thật đang nhức nhối trong tim của hàng triệu phụ huynh.   Sự kiện này xảy ra vào ngày 12 tháng 8, trong buổi hội thảo ra mắt sách Văn và Tiếng Việt lớp 6 do nhóm Cánh Buồm, nhà giáo Phạm Toàn phụ trách và soạn thảo. Phần phát biểu của một học sinh lớp 8, tên là Vũ Thạch Tường Minh, trường Amsterdam, về sự ì ạch của nền giáo dục Việt Nam hiện nay, cũng như khát vọng đổi thay của em, được nói rõ bằng tuyên bố “nếu các vị Bộ trưởng không làm, thì khi nào con thành Bộ trưởng Bộ giáo dục, con sẽ làm”. Trong băng ghi âm sống động, được phát đi nhiều nơi trên mạng xã hội, nhiều trang báo điện tử… người ta nghe thấy vỗ tay rầm rộ của giới phụ huynh, giới giáo viên… tham dự buổi ra mắt ấy. Trong tiếng vỗ tay ấy, rõ là có những góc tối ẩn ức được chạm tới, khiến cho nhiều người lớn phải bật ra tán thưởng. Tình trạng khủng hoảng của ngành giáo dục Việt Nam đã trở nên hết sức trầm trọng, thậm chí đến một học sinh trung học cũng cảm thấy bất đồng. Sự bất đồng không chỉ mới hôm nay mới có, mà đã hàng chục năm người ta chịu đựng, hàng chục năm ngơ ngẩn bàng hoàng nhưng vì ngán ngại và thỏa hiệp mà hầu hết các người lớn, phụ huynh chọn sự im lặng. Đường đến tương lai thật xa, ông bà Việt xưa chắc không hình dung trong ngôi nhà quê hương mình hôm nay, kẻ lớn đang loay hoay cày xới, cải cách trong vốn liếng sân vườn rách nát mình, và cứ tưởng đó là xây dựng bình nguyên của cả dân tộc. Đường xa chắc chẳng còn trông mong gì ở người già chỉ lối. Chỉ còn tiếng trẻ vang lên. May thay! Tiếng vỗ tay và sự truyền đi nhanh chóng của cậu bé lớp 8 ấy, chỉ nối tiếp những phát biểu thẳng thắn đối với ngành giáo dục. Nhiều đoạn video tự quay, tải lên trên mạng internet, đã cho thấy không ít sinh viên, học sinh phản ứng vể các chương trình giáo dục, đường lối giảng dạy lịch sử, chính trị Mác-Lê… đã không còn hợp thời nữa. Hôm nay, tốc độ lan truyền của đoạn ghi âm ấy, không chỉ là chuyện trẻ con, mà chính ngay người lớn cũng đã quá mỏi mệt và giật mình khi được nhắc nhở rằng mình đang rơi lại phía sau, trên đường chạy vào tương lai bằng đôi chân sự thật. Nhiều đời Bộ trưởng Giáo dục Việt Nam, không ít gia đình cứ hy vọng rồi thất vọng. Thất vọng chồng thất vọng cao như núi. Ngoài những bộ áo sang trọng hơn, những dự án khổng lồ tiền tỷ hoặc những kiểu học đòi mị dân, đánh bóng bản thân, thì các vị lãnh đạo ngành giáo dục đã chẳng đem lại được điều gì ngoài khủng hoảng. Đôi khi, chúng ta cũng nên tự hỏi đường chân trời đến Tân Thế Giới của các nhà lãnh đạo phiêu lưu giáo dục Việt Nam là đâu? Tại sao không bắt đầu và nối tiếp từ nền tảng sẳn có của miền Nam, mà vốn là quy chuẩn mơ ước của nhiều quốc gia châu Á khác từ thập niên 50-60?   Cũng có ý kiến cho rằng đám đông người lớn nổi loạn đang mượn miệng trẻ con, nói những điều không thuộc thế giới trẻ thơ. Thật lạ, khi cần, người ta vẫn chứng minh các thiếu niên Lê Văn Tám, Kim Đồng, Kơ-pa Kơ-Lơng, Võ Thị Sáu… là đầy đủ ý thức. Còn nếu không, thì mọi phát ngôn khác đều là bị coi là bị “kẻ xấu” xúi giục.   Một thế giới mơ về sự tốt đẹp lẽ nào đều bị xúi giục như vậy sao, từ Joshua Wong của Hồng Kông, cho đến Malala Yousafzai ở Pakistan…có thể đều bị xúi giục? Hay chỉ có trẻ con Việt Nam trong nền giáo dục yếu kém này mới không thể có tư duy riêng và bị mượn miệng nói thay?   Trong một câu chuyện cổ của Ấn Độ, kể rằng, có hai ông thầy tu ngồi trước cửa ngôi đền thờ gần dinh thự nhà quan. Ông thầy tu ngồi gần ngôi nhà quan lớn, vẫn hay cố ý đọc kinh thật to để quan lớn nghe thấy, mong được có cơ hội ban thưởng. Khi cả hai chết đi và được gặp Phật. Ngài ban tặng cho vị thầy tụng kinh thầm lặng một chiếc chén bằng vàng, còn người tụng kinh thật to là một nắm cát. Vị thầy tụng kinh to tiếng thấy vậy, tức giận phân bì. Phật im lặng nhìn ông ta rồi nói “Ngươi chỉ mượn kinh, tụng to tiếng chỉ để cho quan lớn nghe thấy, chờ một ơn mưa móc của kẻ thế tục, chứ đâu phải tụng kinh để độ thế cứu khổ? Lâu đài của ngươi xây mong manh dã tràng như cát, nên kẻ tu thân phải biết xây lại từ đầu”. Trong lao xao những lời phản biện, cũng có không ít người mượn chuyện chỉ trích quan điểm về giáo dục của cậu bé 14 tuổi, mà nghe chừng chỉ như giới thiệu bản chất cơ hội của mình với chế độ, chờ một ơn mưa móc cho phận tôi đòi, chứ nào phải nói lời cho thế gian? Cậu bé lớp 8 chắc không phải là kẻ hô hoán quan điểm để tìm lợi cho mình, khác với không ít kẻ tiểu nhân đắc chí trong xã hội hôm nay vẫn luôn tìm thấy khe lạch xum xoe của mình. Cậu bé chỉ nói ý riêng của mình, nhưng trong diễn từ ấy, người ta nhìn thấy một xã hội Việt Nam đang lắc đầu ngao ngán, bàn bạc với nhau khi nhìn thấy mình đang là vật thí nghiệm trong một trò chơi thực tế giả trí tuệ. Người ta nhìn thấy các bậc phụ huynh đã hết kiên nhẫn và ta thán ngay khi có mặt con cái của mình. Đúng, có thể cậu học sinh không nói chỉ có ý của mình, mà còn nói thay cho hàng triệu con người đang quay quắt chờ một đổi thay tốt đẹp hơn, từ những gì đã áp đặt một cách ngu xuẩn lâu nay. Lời trẻ thì có thể ngô nghê và không êm tai, nhưng lời trẻ trong ngôi nhà là sự thật, chúng ta cũng nên lặng nghe mà suy nghĩ như một người có học. Khi những người già chỉ còn biết nói dối, sợ hãi và xu nịnh, thì dân tộc Việt chỉ còn mong được nghe thêm lời của trẻ trong ngôi nhà của mình. Theo nhacsituankhanh.wordpress.com
......

TNLT Thái Văn Dung: tôi đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của con người

http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2015/08/20150821-ctm-... Vào lúc 9 giờ 55 ngày 19 tháng 8 năm 2015, tù nhân lương tâm (TNLT) Thái Văn Dung đã được trả tự do sau 4 năm tù giam. TNLT Thái Văn Dung quê ở xóm 4, xã Diễn Hạnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Anh Dung là một nhà hoạt động chống bất công xã hội. Anh cũng từng tham gia tích cực các cuộc biểu tình chống Trung quốc xâm lược, khẳng định Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam.   Anh bị bắt vào ngày 19/8/2011 lúc đang ở Hà Nội trong cùng vụ án với các thanh niên Công giáo khác. Sau đó anh bị nhà cầm quyền CSVN khép vào tội “âm mưu hoạt động nhằm lật đổ chính quyền” theo khoản 2, điều 79, Bộ Luật Hình Sự. Toà Án Nhân Dân Tối Cao phúc thẩm đã kết án anh 4 năm tù giam và 4 năm quản chế. Mời quý thính giả theo dõi buổi nói chuyện với TNLT Thái Văn Dung. Radio Chân Trời Mới: Trước tiên, xin chúc mừng anh đã về đoàn tụ với gia đình. Ngày anh ra tù cộng sản có rất nhiều anh em đến đón. Cảm nghĩ của anh thế nào khi nhìn lại những khuôn mặt thân quen sau 4 năm xa cách? Thái Văn Dung: Tất nhiên cảm nhận của mình rất là vui khi được gặp mặt một số anh em đã cùng bị bắt và đồng hành với mình và đã được thả. Còn một số anh em muốn đến [đón] nhưng đã bị ngăn cản không đến được. Radio Chân Trời Mới: Quay về 4 năm trước, năm mà nhiều anh em ở Nghệ An bị nhà cầm quyền CSVN bắt giam. Anh có thể cho biết những công việc nào của anh đã khiến cho nhà cầm quyền sợ hãi và ghép anh vào tội "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền"? Thái Văn Dung: Thời điểm đó em sang Thái Lan tham dự khóa học do đảng Việt Tân tổ chức. Một tháng sau em lại sang Philippines tham dự Đại hội Thanh niên Sinh viên kỳ 6. Có một số thông tin có thể bị rò rỉ về một số vấn đề nào đó. Sau đó họ bắt và kết tội mình là đã tham gia vào đảng Việt Tân. Sau một thời gian thì có một số bằng chứng cụ thể, và mình công nhận mình là đảng viên của đảng Việt Tân. Radio Chân Trời Mới: Khi anh chấp nhận mình là đảng viên đảng Việt Tân thì chắc chắn anh phải rõ một điều là anh sẽ bị phân biệt đối xử, vì nhà cầm quyền CSVN luôn coi đảng Việt Tân là đảng khủng bố phải không ạ? Thái Văn Dung: Tất nhiên là gặp khó khăn, vì đảng Việt Tân được chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ghét và cho là đảng khủng bố. Nhưng theo thông tin mình nắm bắt thì đảng Việt Tân có cương lĩnh rất tốt và được cộng đồng thế giới ủng hộ. Mình rất vinh dự được kết nạp vào đảng Việt Tân và được anh em tin tưởng và mến yêu. Radio Chân Trời Mới: Anh Dung đã trải qua 4 năm tù ra sao ạ? Thái Văn Dung: Trước khi ở Giam Cứu thì ở với một số người bị án về kinh tế, sau đó về Nghi Kim thì bị giam với những người bị án hình sự. Sau phiên phúc thẩm đi chấp hành án thì mình bị giam với những người bị án hình sự; đây là những người họ cài cắm vào để theo dõi, để nắm bắt tình hình của mình. Thời gian đầu khi mình mới vào trại thì mọi việc rất khó khăn về đời sống cũng như việc ăn ở. Họ chỉ cho mình ở trong một phòng khoảng 9 mét vuông bao gồm ăn uống, vệ sinh. Cửa giam thì đóng 24 trên 24. Sau một thời gian đấu tranh đòi các quyền lợi như đài báo, TV, quạt điện.., thì tháng 12 năm 2014 họ đã xây xong một khu để nhốt các án chính trị và mình bị chuyển lên K3 này. Đời sống thoải mái hơn một chút, 2 người ở trong một buồng rộng từ 15 đến 20 mét vuông, có TV và quạt điện, có khu vận động để sinh hoạt. Khi vào tù thì mình phải mạnh mẽ, nếu không sẽ bị chính quyền đàn áp. Về mặt đấu tranh thì có hai sự việc đưa đến kỷ luật và bị cùm chân 10 ngày. Thứ nhất là vào tháng 8 năm 2013, lúc đó mình đòi các quyền lợi như được xem TV, được ra ngoài vận động và được có quạt điện. Họ không chấp nhận các đề xuất của mình, sau đó mình không vào buồng... khi chia cơm mình không vào buồng thì họ lập lệnh là "chống mệnh lệnh của cán bộ". Khi chống mệnh lệnh của cán bộ thì họ ép đưa mình xuống kỷ luật. Buồng kỷ luật khoảng 7 đến 9 mét vuông, và họ cùm chân mình 10 ngày. Vệ sinh cá nhân thì có một cái xô trong buồng, lúc nào đầy xô họ mới cho đổ. Họ cho mình mang một chiếc mền, một chiếc gối, một chiếc chiếu và một bộ quần áo của trại. Đó là đợt kỷ luật thứ nhất. Vụ kỷ luật thứ hai xảy ra vào tháng 6 năm 2014. Lúc đó ở trong buồng hai người thì không thể ở với nhau được vì ở với án hình sự có một số vấn đề mất quyền lợi cho mình nên lúc đó có đề xuất xin được ở một mình. Họ đã không đồng ý, nhưng mình vẫn xin liên tục; và cuối cùng mình quyết định khi chia cơm mình không vào buồng giam.., và họ đã đẩy mình xuống buồng kỷ luật và cùm chân mình 10 ngày lần thứ hai. Đợt này họ không cho mình đưa bất kỳ đồ dùng cá nhân nào của mình xuống buồng ngoài một chiếc chiếu và bộ quần áo đang mắc lúc đó. Radio Chân Trời Mới: Anh có bị giam chung với những tù nhân chính trị khác hoặc có gặp các thanh niên công giáo đã từng bị bắt chung với anh hông? Thái Văn Dung: Dạ không bị giam chung, nhưng có gặp Duyệt - là người bị bắt trong cùng vụ án - vào tháng 11 năm 2014. Hai anh em bị chuyển từ K5 và K6 về K3 và bị giam cùng một khu dành cho tù nhân chính trị, nhưng ở phòng giam khác nhau. Ngoài ra không gặp bất kỳ ai. Radio Chân Trời Mới: Nhìn lại những việc làm đã qua, anh có cảm thấy tiếc nuối điều gì không?   Thái Văn Dung: Thứ nhất là mình không hối hận. Khi quyết định tham gia vào con đường đấu tranh, tất nhiên mình không phải là một chính trị gia hay luật gia, mình chỉ là một công dân đấu tranh cho những quyền lợi mà mỗi người đáng được thừa hưởng. Những quyền lợi đó song hành với những vướng mắt của chế độ Cộng sản. Khi có vấn đề nào xảy ra thì họ bắt bớ và giam cầm mình. Điều đó mình đã chuẩn bị sẵn sàng tư thế, nên vụ bắt bớ này mình cũng đã chuẩn bị tâm lý và vì vậy không e ngại với bất kỳ vấn đề gì. Trong thời gian bị giam thì mình đấu tranh mạnh mẽ, không chùn bước trước sự đàn áp của Cộng sản. Nếu chùn bước thì họ sẽ được nước và đè bẹp mình. Mình đã tuyệt thực 3, 4 đợt để đòi một số quyền cơ bản của mình và mọi người. Cuộc tuyệt thực thứ nhất vào khoảng tháng 11 năm 2014 kéo dài 7 ngày để đòi các quyền lợi như được ra ngoài vận động [đi lại], xem TV, đọc báo và sách tôn giáo. Tuy nhiên họ đã không chấp nhận yêu cầu của mình. Lần tuyệt thực thứ hai xảy ra vào tháng 1 năm 2015, tròn 1 năm Hiến pháp ra đời. Vậy mà chế độ này cũng không cho mình đọc sách tôn giáo. Trong thời gian tới mình sẽ gởi đơn kiến nghị để mọi người được biết chế độ này đàn áp quyền tự do tôn giáo rất ghê gớm. Radio Chân Trời Mới: Cám ơn anh Thái Văn Dung đã dành cho đài Chân Trời Mới cuộc phỏng vấn này. Thái Văn Dung: Em cũng xin gởi lời cám ơn tất cả mọi người đã đồng hành, giúp đỡ và động viên trong lúc anh em đi tù. Nguồn: www.radiochantroimoi.com
......

XIN VIỆC VÀ NHỤC NHÃ VÌ TÌM VIỆC

Hôm qua tình cờ tôi có đọc được một bài báo của một tác giả An Yên trên báo VTC viết về một cử nhân đứng “xin việc” bên lề đường. Tôi thực sự ngạc nhiên khi người viết báo cũng như ban biên tập VTC coi hành động này như là một việc làm nhục nhã. “Xin việc” có nhục nhã không? Không, thưa các bạn. Việc một người bằng nỗi lực của bản thân tìm kiếm cho mình một cơ hội được làm việc một cách chính đáng thì không có gì là nhục. Cái nhục ở đây nên dành cho tác giả của bài viết và ban biên tập CTV thì đúng hơn. Vì sao? Chúng ta hãy xét bài báo này trên hai khía cạnh: ngôn từ và nội dung. Cử nhân đại học Anh 'đứng đường' tìm việc làm là chuyện bình thường. VỀ NGÔN TỪ Trong bài báo này có một từ mà nếu xét ra nó không có nghĩa gì cả, đó là từ “xin việc”. Tại sao phải xin việc? Xin việc để làm gì? Nếu có xin thì tất có cho, vậy ai sẽ cho chúng ta việc? Nếu họ cho chúng ta việc, vậy họ có phải trả tiền cho cái “cho” của họ không? Không biết từ bao lâu, trong xã hội chúng ta tồn tại những cái xin rất kỳ cục như: xin nhập học, xin thay đổi nhân khẩu, xin vay vốn ngân hàng, xin ly hôn … và đến cả xin việc. Ở đây tôi chỉ bàn về hai chử “xin việc”. Việc tại sao lại xin? Việc, nếu xin được rồi thì có quyền đòi lương không? Người cho bạn việc rồi thì có phải trả thêm lương vì đã “lỡ cho” việc không? Chỉ với vài câu hỏi nhỏ thì chắc mọi người cũng có thể thấy sự bất hợp lý khi chúng ta sử dụng từ “xin việc”. Chúng ta cần phải phân biệt rõ là không ai đi xin việc cả, chúng ta đi “tìm việc” để làm và chúng ta mong nhận lại một khoản thù lao để thực hiện công việc đó. Và người tuyển dụng có trách nhiệm phải trả một khoản thù lao đó cho chúng ta khi chúng ta giúp họ thực hiện một công việc. Nếu chúng ta đã từng một lần ứng tuyển vào công ty nước ngoài, chúng ta sẽ thấy “thư ứng tuyển” (Letter of Application) hay “phiếu đăng ký dự tuyển” (Application form) mà không có một cái gì gọi là đơn xin việc như ở Việt Nam. Là những người chơi đùa cùng “ngôn ngữ” và sống bằng “ngôn ngữ”, chẳng lẽ cả nhà báo và ban biên tập lại không phân biệt được ý nghĩ của từ “xin” và “ứng tuyển” hay sao? Hay do ý thức xin – cho đã ăn sâu trong tiềm thức của họ? Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc chúng ta phải bỏ đi ý thức xin – cho mà biểu hiện rõ nét nhất đó là hàng loạt cái “xin” hoàn toàn vô lý đó. VỀ NỘI DUNG Tôi thật sự ngạc nhiên khi có người coi hành động đi tìm việc để làm một cách quang minh chính đại như vậy là một sự nhục nhã. Tại sao nhục nhã? Câu ta xin cái gì của ai sao? Cậu ta trộm cắp hay cướp giật cái gì của ai sao? Việc mà cậu ta làm chỉ đơn giản là thông báo cho những người đi ngang qua đó biết là cậu ta sẵn sàng cho một công việc mới. Vậy có gì là nhục nhã? Cái nhục nhã mà tôi thấy ở đây là: một xã hội đã đẩy cậu ta vào con đường khốn khổ, một xã hội mà các cử nhân hầu như bế tắc khi tìm việc để mưu sinh. Và một cái nhục nhã nữa là một tòa báo đã dùng tiền của chính cha mẹ cậu ta để sỉ nhục mong muốn chính đáng của cậu ta là tìm được một việc làm để nuôi sống bản thân và gia đình nhỏ của cậu. Tôi không biết tác giả bài báo và VTC đăng tải bài viết này với mục đích gì, nhưng tôi đoán rằng, họ sợ một làn sóng dư luận đồng tình phía sau hành động đó, và điều đó bôi xấu lãnh đạo của họ. Họ viết một bài báo để chặn đứng dư luận và bưng bô cho lãnh đạo của mình. Nhưng mà, cho dù là vì mục đích gì đi nữa, thì việc dùng ngòi bút để sỉ nhục một cá nhân với một ước muốn trong sáng như vậy là một hành động vô đạo đức, vô nhân tính. Rất mong rằng, trong xã hội chúng ta, những nhà báo như An Yên và tòa báo như VTC ít thôi, càng ít càng tốt. Theo FB Duy Le
......

ĐỂ CÒN CÓ NGÀY MAI

Chúng ta là nước tiêu thụ rượu bia lớn nhất thế giới với mỗi năm hàng tỷ lít chất lỏng có cồn và men. Một đất nước ngủ say, say mèm trong sự hoan lạc và vui vầy. Nhưng không phải bằng chất hữu cơ và men Hóa học. Mà bằng lịch sử và giáo dục tự huyễn. Lịch sử chúng ta viết hay lắm, tô đẹp một cách rực rỡ, 4.000 năm luôn chiến thắng vang dội khắp năm châu bốn bể, trong những cuộc chiến, dù theo nghĩa bị buộc vào hay được chủ động thỏa hiệp tự do thống nhất nhất thời. Nên các bạn trẻ cứ tự hào mãi những chiến công hiển hách của cha ông, đã từng đánh thắng thực dân, đế quốc hùng mạnh, đã từng quật ngã Mỹ, Nhật hàng đầu, đã từng hàng nghìn năm đánh đuổi giặc Tàu đô hộ. Nhưng một ngày, Giáo sư Phan Huy Lê đột nhiên kêu gọi trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám liều mình đánh bom kho xăng của địch, rằng đó chỉ là hình ảnh tạo dựng nhằm khích động lòng dân chiến đấu trong sự tàn khốc của chiến tranh. Cũng rồi một ngày, người ta phát hiện thấy bức ảnh chiến sỹ leo thác nước trong đêm đem đi dự triển lãm quốc tế ở Mỹ đã được chỉnh sửa nhiều chi tiết. Rồi cũng lắm nhân chứng lịch sử đến tham quan bảo tàng trong buổi triển lãm cải cách ruộng đất những năm 1947 đến 1959 diễn ra mới đây. Và những nhân chứng ấy ngùi ngẫm rầu rĩ cảm thán rằng ở đó có quá ít những chứng tích lịch sử nói lên những sai lầm đã mắc phải khi áp dụng chính sách ấy những năm giữa thế kỷ 20. Người ta còn chờ đợi nhiều hơn thế, những sự kiện lịch sử chân thật và đầy đủ hơn cho những thế hệ sau được tường tận và diện toàn. Giáo dục của ta vẫn luôn tự hào là nền giáo dục có tri thức về toán học và khoa học vượt cả Mỹ, Úc. Trong khi cả nước ta không có sáng chế nào đáng giá cho khoa học, mà một chuyên gia người Mỹ đã thẳng thắn cho hay: trên bản đồ khoa học thế giới, Việt Nam là con số không. Còn đối với Toán học, Việt Nam là một dấu chấm nhỏ. Cả đất nước rầm rộ với 24.000 Tiến sỹ, Giáo sư, nhưng không có nổi một bằng sáng chế nào để tự hào, ốc vít vài vòng xoắn còn không làm được. Thế mà mới đây, có một anh trưng bày với cả thế giới chiếc điện thoại tự làm với công nghệ đỉnh cao. Nhưng rồi không hiểu vì đâu, chưa nổi một tháng, mọi sự bẽ bàng và ê chề đều có cả. Và cuối cùng các bài báo chỉ cố vớt vát lại những tia sáng nhờ vả: người đàn ông gốc Việt hay người đàn bà cũng gốc Việt, thành danh hay có vị trí nào đó đang ở nước ngoài cống hiến. Xướng tên họ lên, và rồi rất đỗi tự hào. Giáo dục chúng ta lúc nào cũng luôn hãnh tiến về những con người được đào tạo dưới mái trường XHCN, lực lượng sản xuất tân tiến nhất của xã hội loài người. Vậy nhưng các quan chức mỗi khi ban hành chính sách, xây dựng pháp luật lại chỉ có một nguyên do để từ chối và phản biện lại những cái có lợi cho người dân mà đáng ra phải thực thị, mà phải bỏ lại, chỉ vì: dân trí thấp. Chúng ta cũng vẫn luôn tự hào về một nền giáo dục XHCN tiên tiến mà lại thường xuyên gửi đi những con người ra nước ngoài học hỏi, tu dưỡng. Và hơn thế, mỗi cử nhân tốt nghiệp từ và bởi hơn 400 trường Đại học, Cao đẳng trên cả nước, nếu có cơ hội ra nước ngoài học tập, họ lại phải đào tạo và học lại từ đầu. Vì thế giới, trong các trường đại học, họ không đào tạo những môn như Triết học Mác Lê Nin, Chủ nghĩa Xã Hội Khoa Học, Lịch sử Đảng, Tư tưởng HCM hay Kinh tế Chính trị,...suốt mấy năm ròng! Chúng ta, có lẽ sẽ mãi ngủ trong men say của niềm tự hào mù quáng hoặc được tạo trạng nhấp nhoáng bởi những lớp son màu tầng tầng lớp lớp phủ lấy khiến con người ta không thể nhận ra đâu là sự thật hay chỉ là một góc nhìn tự huyễn phía riêng như câu chuyện Thày Bói Xem Voi của các cụ ta xưa kia đã đúc rút? Mây mù hay giông bão, tự nó sẽ tan. Nhưng mây mù của câu chữ, ngôn từ ma mị, lại được giáp lên bởi áp lực chính sự thì khi nào có thể vén mây giữa trời hay tan sương đầu ngõ để còn có ngày mai? Theo FB Ls. Lê Luân
......

Mừng Lễ Lớn, Bất Chấp Nợ To

Một mặt kêu gào thiếu tiền, ngân sách quốc gia thâm hụt trầm trọng, mặt khác thì đảng chi mạnh cho những khoản khủng vô bổ, không giúp ích gì cho việc vực dậy nền kinh tế vốn thường xuyên èo uột, què quặt, thoi thóp. Ngân sách là do tiền mọi loại thuế của dân đóng vào, tại sao người dân phải chấp nhận tình trạng mâu thuẫn triền miên như thế? *** Theo thông lệ hàng năm, nhà nước cộng sản Việt Nam đưa 2 ngày 19/8 và 2/9 thuộc vào hai ngày lễ lớn cấp quốc gia. Cho đến nay, người dân Việt đều biết Lễ Quốc khánh 2/9 thực sự thoát thai từ một hành động mà chính những người cộng sản nhìn nhận là một cuộc “cướp chính quyền” từ chính phủ hợp pháp Trần Trọng Kim. Và họ gán cho nó một danh từ mỹ miều là “Cách mạng tháng 8”. Năm nay, cái chính quyền thực chất là phi pháp ấy tiếp tục thông báo sẽ tổ chức một lễ kỷ niệm thật long trọng có “diễu binh”, “diễu hành”, có bắn 21 phát đại bác chào mừng và đốt pháo hoa tưng bừng với sự tham gia của cả 30 ngàn người. Ngoài ra, Ban tổ chức còn nhấn mạnh một hoạt động nổi bật khác là các lãnh đạo đảng và nhà nước sẽ “dâng hương tưởng niệm” trong ngày 1/9. Vốn là một nhà nước không được ai bầu lên, Hà Nội không từ bỏ một cơ hội nào để ăn mày dĩ vãng và rêu rao đủ mọi mục đích tốt đẹp cho buổi lễ. Nào là giáo dục truyền thống yêu nước, khát vọng hoà bình của dân tộc; nào là đề cao tinh thần đại đoàn kết dân tộc và thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với các thế hệ đã hy sinh xương máu vì độc lập dân tộc. Nhưng trong thực tế, những lời lẽ tốt đẹp ấy chỉ nhằm đánh lừa nhân dân để củng cố vị thế lãnh đạo tuyệt đối của đảng cộng sản mà thôi. Những loại lễ lạc như thế này dù không thấy công bố, nhưng chắc chắn chính quyền sẽ phải bỏ ra một số tiền không nhỏ để thực hiện. Những tin tức gần đây cho thấy ngân sách quốc gia đang trong tình trạng thâm hụt trầm trọng. Trong nhiều năm liền số thu không đủ bù chi, nhưng chính quyền vẫn vung tay chi tiêu như một anh nhà giàu bị mù. Chỉ qua 6 tháng đầu năm 2015, Bộ trưởng tài chánh đã gào lên ngân sách thiếu hụt đến 30.000 tỷ đồng và đề nghị vay Ngân hàng Nhà nước để tiếp tục chi cho đến cuối năm. Tuy nhiên thiếu thì mặc thiếu, “diễu binh” ta cứ diễu, pháo hoa ta cứ đốt cho tưng bừng thoải mái. Cũng có dư luận cho rằng càng bày ra nhiều trò “diễu binh” rầm rộ, tiếp tân linh đình, hội thảo sôi nổi chế độ càng chứng tỏ đang xúm vào ăn mày quá khứ một cách tận tình. Bất chấp nợ công ngập lút đầu, không cần biết ngân sách cạn kiệt, lễ lớn lễ nhỏ được cán bộ đảng coi là cơ hội chi tiêu thoải mái và do đó bòn rút “vô tư”! Và điều quan trọng nhất, ẩn sau những hình thứ lễ lộc đình đám ấy chính là ý đồ che giấu tội ác theo Tàu bán nước, cũng như làm mờ đi nỗi oan khiên của người dân bị cướp đất. Với một vài đêm pháo bông rực trời, đảng hy vọng người dân tạm quên đi biển đảo, đất liền đã bị đảng cống hiến cho Trung Cộng. Người ta có thể tự hỏi: tại sao mừng lễ Quốc khánh, một ngày trọng đại của dân tộc mà chương trình chỉ có thắp hương, tưởng niệm của lãnh đạo đảng và nhà nước? Hóa ra Việt Nam không có lịch sử nên chính quyền cộng sản không hề đề cập đến việc tưởng niệm các anh hùng, liệt nữ Việt Nam từ ngàn xưa. Công lao đánh đuổi quân Tô Định cũng không sánh bằng trái lựu đạn hú họa của Võ Thị Sáu; anh hùng Trần Quốc Toản cũng không ngang được thần tượng dỏm Lê Văn Tám! Chuyện gần đây nhất, hàng năm nhà nước cộng sản đều cố tình làm lơ những người đã xả thân bảo vệ chủ quyền đất nước trong trận chiến Hoàng Sa năm 1974 hay Trường Sa năm1988 và nhất là cuộc chiến biên giới năm 1979 mà sự hy sinh của người lính còn kéo dài đến năm 1984. Hải chiến Hoàng Sa 1974https://www.youtube.com/watch?v=6PQV5Of_hYc Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, 1979https://www.youtube.com/watch?v=DMF1iJAE1rg Hải chiến Trường Sa 1988https://www.youtube.com/watch?v=WIf-T9Z1nl8 Những ngày đáng ghi nhớ ấy được nhân dân Hà Nội và Sài Gòn tự động tổ chức thành những buổi tưởng niệm rất trang trọng với sự tham dự của các thành phần dân chúng. Nhưng lần nào cũng vậy, tại tượng đài Lý Thái Tổ, thay vì tạo điều kiện dễ dàng cho người dân tham dự, chính quyền Hà Nội lại cho côn đồ đến phá rối, hoặc tổ chức nhảy múa một cách khả ố. Trong khi đó tại các khu nghĩa trang “liệt sỹ Trung Quốc” hàng năm vẫn đón nhận những tràng hoa ghi ơn và khói nhang nghi ngút. Chẳng lẽ những người lính Việt Nam chết ngoài hải đảo hay vùng biên giới xa xôi không đáng để đảng quan tâm bằng những người nằm trong các nghĩa trang Trung Quốc? Hay đó là cách đảng “thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với các thế hệ đã hy sinh xương máu vì độc lập dân tộc”? Cứ bỏ ra thật nhiều tiền để gây tiếng vang, tạo thành tích, bất chấp đạo lý, có lẽ đảng chỉ nhìn thấy ánh hào quang rực trời trong phút chốc mà quên đi số phận người dân đang oằn lưng dưới sức nặng của sự đói nghèo… Theo FB Radio Chân Trời Mới
......

Dĩ vãng chẳng còn gì cho ăn mày

Trong lúc cơn lũ liên tục hàng ngày, hàng giờ — của hàng triệu cán bộ công nhân viên quắc mắt chờ "phong bì", của công an các cấp sừng sộ đòi "bánh mì" — đang xối xả đục rã chân cột trụ uy tín của Đảng, thì giới lãnh đạo lại được hoàn toàn thuyết phục: (1) nếu "vỡ bình quí" thì sẽ chết luôn "con chuột đang đòi ném đá"; nên (2) toàn bộ nhà chuột, không phân biệt dòng họ, phải xé xác ngay đứa nào đòi "hốt liền, bắt liền, không nói nhiều", dù chỉ mới ở mức hăm doạ miệng. Chính vì vậy mà nhu cầu kéo lá nho dĩ vãng ra che đậy chỗ hiểm yếu lại càng bức thiết hơn bao giờ hết. Họ tích cực dựng thêm tượng đài, nâng thêm các cố lãnh tụ lên hàng thần thánh, và nhất là kỷ niệm những ngày lễ của Đảng ngày càng lớn. Hiện tượng "ăn mày dĩ vãng" mà ông Hà Sĩ Phu đặt tên nay đã trở thành một ngành công nghiệp quốc doanh. Nhưng câu hỏi là liệu dĩ vãng, cụ thể như ngày Cách Mạng Tháng Tám (CMT8) năm nay, có còn gì để bố thí nữa không? Trước hết, những sử liệu quốc tế quanh thế chiến 2 và những nhân chứng Việt còn sống, qua phương tiện Internet, đã cho người ta một bức tranh chi tiết để thấy đó chẳng phải là một cuộc cách mạng và lại càng chẳng có công trạng gì của đảng CSVN. Chính lòng yêu nước và nỗi khát khao tự do, độc lập đã thúc đẩy người dân tại Hà Nội nhào ra đường phố lấp đầy khoảng trống quyền lực do quân Nhật rút đi để lại. Rồi người dân sau đó trao tặng quyền lực này cho Việt Minh, một tổ chức lúc đó chưa lộ gốc cộng sản và đang quấn chặt trên mình lá cờ dân tộc - đúng như bài bản Lênin dạy. Vì vậy, dưới ánh sáng lịch sử thật, người ta không thấy đóng góp nào của đảng CSVN trong ngày CMT8. Hơn thế nữa, Ban Tuyên Giáo càng nói về ngày CMT8 càng nhắc người ta xót xa, uất ức cho máu đồng đội đã đổ ra suốt từ ngày đó. Tất cả hóa ra quá vô ích và chỉ phục vụ cho tham vọng của một vài cá nhân, chứ chẳng vì độc lập, tự chủ, hay giá trị của con người Việt Nam. 70 năm kể từ CMT8 để lại một chuỗi dài liên tục những phản bội. Trong hàng ngũ bộ đội, bắt đầu bằng chính sách phân biệt "đại táo, tiểu táo" kéo dài đến những bà mẹ liệt sĩ quì lạy các ông công an đến cưỡng chế nhà đất hiện nay. Trong hàng ngũ những người dân yêu nước, bắt đầu bằng những người dân đem gia tài ra nuôi Việt Minh rồi bị dán nhãn địa chủ để xử tử kéo dài đến những người dân phản đối Trung Quốc xâm lược bị ném vào trại phục hồi nhân phẩm rồi đuổi học, đuổi nhà, đuổi việc. Và còn vô số những dẫn chứng khác nữa. Nhưng có lẽ điều đau lòng nhất mỗi năm vào ngày CMT8 là nhận thức đất nước ngày nay THUA XA cả thời Pháp thuộc. Những gì lãnh đạo đảng lên án chế độ thực dân thì nay đều đang xảy ra ở mức độ trầm trọng hơn hàng chục lần. Tình trạng "sưu cao thuế nặng" thời Pháp thuộc không thấm gì với rừng thuế, phí, nghĩa vụ chính thức và các loại phong bì lớn nhỏ không chính thức của ngày nay. Tình trạng nông dân bị áp bức thời Pháp thuộc khó so được với cảnh cả làng ngày nay bị cướp trắng đất đai mà họ đang sinh sống để trở thành những đoàn dân oan sống lây lất không nhà, hàng thập niên. Tình trạng công nhân bị chủ xử ép thời Pháp thuộc không bằng một góc của tình trạng công nhân bị công đoàn quốc doanh cấu kết với chủ ngoại quốc trấn áp hiện nay, và lại càng quá nhỏ so với tình trạng công nhân Việt bị hành hạ tại nước ngoài để dành hàng trăm ngàn công việc trong nước cho lao động Trung Quốc. Và còn vô số những dẫn chứng khác nữa. Trong khi đó mọi quyền con người bị chế độ CSVN tước đoạt thẳng tay hơn chế độ thực dân rất nhiều. Trong thời Pháp thuộc vẫn có báo và nhà xuất bản tư nhân, với những cây viết khác biệt chính kiến với nhà cầm quyền, bao gồm cả các cây viết cộng sản; mọi tôn giáo có quyền hành đạo và truyền đạo mà chẳng cần xin phép ai; một hệ thống toà án có cả các luật sư Việt bào chữa thành công cho người Việt trong những vụ tranh tụng với công dân Pháp; một hệ thống giáo dục cho phép những sinh viên Việt xuất sắc theo học những đại học bậc nhất của Pháp, và nhờ thế đã có những nhóm trí thức Việt đấu tranh cho quyền lợi của đất nước và dân tộc Việt Nam ngay trên đất Pháp, mà chính ông Hồ là một người được họ cưu mang. Nhìn cả núi chứng cớ đó, khó ai có thể chối cãi xã hội Việt Nam đã tụt hậu rất nhiều so với ngay cả thời bị ngoại quốc cai trị, và các quan chức Việt ngày nay ác hơn nhiều so với các quan chức thời thực dân. Và còn đáng sợ hơn nữa là thực tế: nhà nước thực dân Pháp bảo vệ lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam hơn xa nhà cầm quyền CSVN. Sự thật này tồi tệ đến độ sau khi ký kết hiệp ước biên giới suốt từ năm 1999, lãnh đạo đảng cho đến nay vẫn phải cất giấu nghiêm ngặt các bản đồ biên giới như một loại bí mật quốc gia. Chính trong tâm trạng quá chán ngán các bài bản của Ban Tuyên Giáo mà trong những ngày dẫn đến kỷ niệm CMT8 năm nay, nhiều người lại tìm đọc và bàn luận về bức thư 20 năm trước của ông Võ Văn Kiệt gởi Bộ Chính Trị. Hoàn cảnh của 2 thời điểm rất giống nhau. Bức thư xuất hiện vào dịp kỷ niệm 50 năm CMT8 và lúc đó cũng đang tiến tới một đại hội đảng với nhiều đấu đá kịch liệt. Trong bức thư này, ông Kiệt dám kêu gọi lãnh đạo đảng hãy thôi đừng bịt mắt nhau và bịt mắt toàn dân. Cái gọi là "4 nguy cơ" mà Bộ Chính Trị kết luận trước đó 1 tháng chỉ là trò vờ vĩnh để che đậy tham vọng nắm quyền bằng mọi giá, kể cả cái giá dìm đất nước và dân tộc trong tụt hậu. Phải đặt mình trở lại vào không khí nặng nề của thời đó mới hiểu được mức độ chấp nhận nguy hiểm của ông Kiệt, đặc biệt khi các đòn thù đối với ủy viên Trần Xuân Bách còn khá kinh hoàng trong hàng ngũ đảng viên các cấp. Nhiều dữ kiện xuất hiện từ đó đến nay đã cho thấy rõ sự tha thiết của ông Kiệt đối với tương lai đất nước và ý hướng đặt vận mạng đất nước lên trên cái đảng mà ông đã cống hiến phục vụ cả đời. Ông Kiệt cũng là một trong những nhà lãnh đạo cộng sản hiếm hoi còn cảm được cái đau, cái đói của dân chúng, trong lúc đại đa số các lãnh tụ quanh ông đều xem cảnh đói, cảnh chết của dân là cái giá phải trả và sẵn sàng trả để "đi lên CNXH". Nhưng cũng có người thắc mắc. Chắc chắn ông Kiệt đã biết sớm hơn và rõ hơn cái mà ông Nguyễn Văn An sau này gọi là "lỗi hệ thống", tức những tật bệnh cốt lõi không thể sửa được nếu tiếp tục duy trì hệ thống cai trị hiện tại; hay nói cách khác, nếu sửa được các lỗi đó thì hệ thống cai trị hiện tại không còn là nó nữa. Thế thì ông Kiệt vẫn viết bức thư dài đó cho Bộ Chính Trị để làm gì? Húc vào những cái đầu "4 nguy cơ" đã hóa đá đó thì có ích gì? Câu trả lời khá hiển nhiên: ông Kiệt đã tuyệt vọng trong nỗ lực khuyên can BCT và chỉ mượn lý cớ viết cho BCT để nói với hàng ngũ đảng viên mà không bị kết tội lập bè đảo chánh mà thôi. Chính vì thế mà ngay sau đó, bức thư đã được rò rỉ ra bằng nhiều đường cho nhiều đảng viên. Một trong những người đã trả giá tù tội để chuyển bức thư đó là ông Hà Sĩ Phu. Thắc mắc kế tiếp: Nếu thực sự mang tâm huyết đó, tại sao ông Kiệt không cùng lên tiếng khi có những đảng viên cao cấp đòi chuyển đất nước sang hướng tự do, dân chủ như các ông Trần Xuân Bách, Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ? Có lẽ bức thư của ông Kiệt cũng là lời thú nhận sai lầm khi ông chọn thái độ im lặng nhiều lần trước đó, đặc biệt đối với người bạn chí thân như ông Nguyễn Hộ, để rồi đến phiên ông Kiệt cũng chịu hệ quả tương tự. Bức thư của ông cũng chỉ gặp những sự đồng ý ... âm thầm; không ai lên tiếng công khai ủng hộ. Và thế là những tiếng nói can đảm và quí báu từ thượng tầng đảng CSVN, từ Trần Xuân Bách đến Võ Văn Kiệt, cứ vang lên rải rác, riêng lẻ rồi im bặt, chứ không chung lòng, chung sức phát ra cùng lúc để tạo tối đa tác động. Rõ ràng loại suy nghĩ "nếu tụ nhiều tiếng nói lại sẽ bị dập tan sớm" cần phải được xét lại, vì từng tiếng nói đơn lẻ bị dập tan sớm hơn nhiều và uổng phí hơn nhiều. Khá hiển nhiên ông Kiệt không viết bức thư đó một mình và chắc chắn có nhiều đảng viên và tầng lớp nhân dân chia sẻ khát khao "đặt nước trên đảng" của ông Kiệt. Vì thế, câu hỏi cho mọi người chúng ta, cả trong và ngoài đảng CSVN: nếu có những con người can đảm đứng lên vận động xóa bỏ toàn bộ hệ thống cai trị độc tài trong những ngày tới, chúng ta sẽ làm gì? Liệu chúng ta có bỏ công tìm hiểu để phân biệt họ với những kẻ tuyên bố mị dân chỉ để giành ghế cao hơn, hay những kẻ làm dáng lương tâm chỉ để hạ cánh an toàn? Liệu chúng ta có tiếp tục im lặng ngồi nhìn cho đến lúc họ bị dập tắt rồi tiếc rẻ, hay sẽ tiếp tay tạo số đông để giúp họ sống còn và tiến lên? Liệu chúng ta có vượt lên trên được các lằn ranh khác biệt chính kiến cũ để cùng tranh đấu cho một Việt Nam mới không còn bóng dáng độc tài? Lời đáp cho những câu hỏi đó sẽ quyết định số phận cả dân tộc chúng ta có phải tiếp tục "ăn mày dĩ vãng" nữa hay không; có phải tiếp tục che mắt bằng tấm vải "lịch sử hào hùng 5000 năm văn hiến" để khỏi thấy hiện tại nhục nhã nữa hay không. Theo http://vnctcmd.blogspot.de/…/di-vang-chang-con-gi-cho-may.h…
......

Hãy Cùng Nhau tạo nên Thông Điệp

Đuổi giặc Mãn Thanh về phương Bắc Rồi cắp giáo đi giữa biên cương (Bài Ca Đại Việt- Bắc Phong) Ba lần chiến thắng lừng lẫy, đẩy bật đội quân bách chiến bách thắng của Thành Cát Tư Hãn ra khỏi bờ cõi Đại Việt đã chứng tỏ với thế giới và chính chúng ta một điều: Một quân đội hùng mạnh tùy thuộc vào tinh thần của mỗi chiến binh; danh dự của tổ quốc tùy thuộc vào nhân cách của mỗi con dân Đại Việt. Ngày nay, dân tộc Việt Nam đang bị bêu riếu bởi những kẻ ăn cắp vặt ở Thái, ở Nhật, ở Đài Loan, ở Singapore. Những chiến binh Việt Nam đang bị sỉ nhục bởi tầng lớp lãnh đạo khiếp nhược. Mới đây báo Pháp Luật đã dẫn lời của Phó Chủ Tịch Quốc Hội Huỳnh Ngọc Sơn. Ông Sơn cho rằng chúng ta đã vô phương, Hoàng Sa Trường Sa đã mất hẳn vào tay Trung Quốc. Là một Thượng tướng trong quân đội mà ông lại phát biểu như sau: "Không lẽ bây giờ bà con bảo là đánh nhau…. Nhiều lần ta cũng nghĩ tới việc lấy lại nhưng trong lúc này chưa thể lấy lại được. Để đời con đời cháu chúng ta lấy lại. Trung Quốc bây giờ họ củng cố gần như là bất khả xâm phạm rồi”. Lịch sử đã chứng minh không có một vùng đất nào bị quân xâm lược chiếm đóng lại trở thành "bất khả xâm phạm" đối với nhân dân Việt Nam. Nếu nay Hoàng Sa, Trường Sa, rồi mai đây Tây Nguyên, Hà Tĩnh cũng trở thành những địa danh "bất khả xâm phạm" của Trung Quốc thì đời con, đời cháu chúng ta chỉ có thể là nô lệ. Nhân cách lãnh đạo như thế nên Bộ Trưởng Ngoại Giao Trung Quốc, ông Vương Nghị mới dám ngạo mạn lớn tiếng trước thế giới rằng việc xây dựng các bãi đá trong vùng quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam là xây trên sân nhà của họ. Ông Sơn đã quên mất - để tổ quốc đứng vững hàng nghìn năm - một người lính của đất nước này cũng đòi hỏi một nhân cách khác. Những kẻ thù dũng mãnh nhất khi đặt chân đến đây đều đã bị đánh cho tan tác; bạo lực và cái chết đã cúi đầu trước những chiến binh dũng cảm vô danh hàng ngàn năm trước; bạo lực và cái chết đã cúi đầu trước Ngụy Văn Thà, Trần Văn Phương, Nguyễn Văn Lanh hàng ngàn năm sau. Bản lĩnh và phẩm chất tốt đẹp này cần được đánh thức. Sau gần nửa thế kỷ bỏ nước ra đi, người Việt hải ngoại đã xây dựng được những cộng đồng giàu mạnh và thành công ở xứ ngươi. Với bản chất thông minh, cần cù và hiếu học nhiều người Việt Nam đã lập nên những kỳ tích khiến người bản xứ phải nể trọng và họ đã đóng góp tích cực, đáng kể vào sự phát triển của các nước sở tại. Trong khi đó, cũng với bằng ấy thời gian, lẽ ra chúng ta đã xây dựng được một đất nước ấm no và phồn thịnh. Với tiềm năng về nhân lực và vật lực, Thủ Tướng Lý Quang Diệu đã từng nhận định: Nếu có nước nào mà giàu mạnh nhất châu Á thì nước đó chính là Việt Nam. Tiếc thay, một thể chế chính trị sai lầm và một giàn lãnh đạo kém tài trí lẫn đạo đức đã giết chết giấc mơ về một con rồng châu Á. Kết quả là những cơ hội phát triển, tài nguyên quốc gia, sự giàu có của đất nước... tất cả đã đổ vào túi tham của các nhóm lợi ích! Tám mươi năm đã trôi qua. Đây cũng là mốc điểm mà người dân các quốc gia Cộng Sản ở Đông Âu đã tự khắc đứng lên để cứu lấy đất nước họ. Cái thời dân ta nhắm mắt đặt niềm tin vào đảng đã chấm dứt. Cái giai đoạn ta cảm thấy mình bị lừa dối, bị sỉ nhục cũng nên thuộc về quá khứ. Lãnh đạo đảng đã không còn đủ tư cách để đại diện cho dân tộc. Với tâm lý khiếp nhược như Phó chủ tịch Quốc Hội Huỳnh Ngọc Sơn, cộng thêm với yếu tố lòng dân không theo; đa số lãnh đạo đảng cũng bối rối, cũng bất lực như ông Sơn mà thôi! Họ chỉ muốn được an thân để bảo vệ cho bằng được cái gia sản kếch xù của họ. Để cứu lấy đất nước, cứu lấy chính mình và các thế hệ tương lai, chúng ta cần nỗ lực thay đổi. Nhưng trước hết và trên hết, tất cả chúng ta đều cần có nhau. Chúng ta cần lắm những trí thức dũng cảm và trách nhiệm, chúng ta cần lắm những cán bộ, đảng viên sáng suốt đang phục vụ trong guồng máy của đảng và nhà nước. Chính vì biết thức thời, Thủ Tướng Then Sein đã giúp cho Miến Điện thoát khỏi sự lệ thuộc Trung Quốc và xoay chuyển được cục diện của đất nước ông. Dân tộc Việt Nam nhân bản, đầy tình thương và lòng vị tha; chúng ta sẽ giúp nhau vượt qua giai đoạn thử thách này. Trong bản dự thảo văn kiện đại hội đảng XII sắp tới, lợi ích dân tộc đã được đặt lên hàng đầu. Thiết nghĩ đây là lúc lãnh đạo đảng cần tỉnh táo để nhìn rõ vị trí của mình. Trong môi trường công nghệ thông tin hiện nay, đảng không thể cứ lạc hậu tiếp tục lừa dân, ngu dân bằng tổ chức vô số những buổi học tập gọi là: “Nâng cao hiệu quả phòng, chống thông tin xấu độc, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng”, v.v và v.v... Người dân Việt Nam không cần đến các thế lực "phản động" mới biết được thực trạng xã hội và tình trạng hiểm nghèo của đất nước. Nhưng không thể vận động toàn dân trong bối cảnh một chính quyền tham nhũng, lũng đoạn và khinh dân. Nếu thực tâm vì lợi ích dân tộc, lãnh đạo đảng hãy thả ngay những tù nhân lương tâm bị bắt chỉ vì chống Trung Quốc, hãy thực lòng đối thoại với dân, hãy chấp nhận đa nguyên đa đảng để cùng toàn dân giải quyết các vấn nạn trước mắt. Chúng ta trót sinh ra trong giai đoạn gian nan của tổ quốc. Trong một ý nghĩa lớn lao hơn, có lẽ Thượng Đế lại một lần nữa thử thách dân tộc Việt Nam. Và trách nhiệm này chia đều trên đôi vai của mỗi chúng ta. Nếu bạn còn e ngại, hãy lắng nghe tiếng nói của những tù nhân lương tâm vừa được thả tự do, các anh Paulus Lê Sơn, Nguyễn Văn Oai, MS Dương Kim Khải. Dân tộc Việt Nam đang nhập cuộc, khi bạo lực và tù ngục không làm nao núng được bước chân của những con người tay không này, thì cũng là lúc người dân Việt Nam đang chứng tỏ quyền lực thực sự của mình. Cái quyền lực có lúc làm bạn hãnh diện đến ứa lệ, chính nó đã đưa đất nước này vượt qua bao sóng gió. Trong dòng chảy của lịch sử, một lần nữa, bạn và tôi, cùng nhau chúng ta sẽ tạo nên thông điệp của dòng chảy bất tận này. Theo viettan.org
......

Tại Sao Trung Quốc Phá Giá Đồng Nhân Dân Tệ?

Liên tiếp trong ba ngày Thứ Ba (11/8), Thứ Tư (12/8), và Thứ năm (13/8), Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc đã phá giá đồng nhân dân tệ mà họ gọi là hạ mức “trung bình chính thức” xuống 1,9, 1,6% và 1,1%. Trên thị trường hối đoái, đồng nhân dân tệ đã giảm 4.4% chỉ trong vòng 3 ngày. Theo các nhà phân tích về kinh tế, tài chánh quốc tế cho rằng việc nhà cầm quyền Bắc Kinh phải lấy biện pháp phá giá đồng nhân dân tệ vào lúc này là để cứu nền sản xuất đang bị đình đốn một cách bất thường. Theo báo cáo thì sản xuất trong các tháng qua giảm 8%. Từ năm 1980 đến nay, nền kinh tế của Trung Quốc phát triển nhờ dựa vào gia công để xuất khẩu hàng hóa là chính, còn tiêu thụ trong nước phải nói là rất yếu. Chính vì lý do đó mà Trung Quốc đã thu hút đầu tư gia công và trở thành “công xưởng” của thế giới. Từ khi Tập Cận Bình được đưa lên vị trí lãnh đạo số 1 của Trung Quốc vào mùa Thu năm 2013 - nắm 4 chức vụ cao nhất cùng một lúc gồm Tổng bí thư đảng, Chủ tịch nước, Chủ tịch quân ủy trung ương, Chủ tịch hội đồng phát triển kinh tế quốc gia - đã có hai chính sách đầy hoang tưởng: Thứ nhất là thiết lập một số định chế kinh tế và tài chánh như cái gọi là ‘một vành đai, một con đường’, tức là xây dựng vành đai kinh tế qua con đường tơ lụa trên đất liền và con đường tơ lụa trên biển; “Tân Ngân Hàng Phát Triển” của nhóm BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi); “Ngân Hàng Đầu Tư Hạ Tầng Cơ Sở Á Châu” (AIIB). Qua những định chế này ,Trung Quốc sẽ vươn lên trở thành trung tâm địa chính trị thế giới, cạnh tranh với Hoa Kỳ giành vị trí số 1. Việc Trung Quốc gia tăng bành trướng và quân sự hóa Biển Đông hiện nay là nằm trong ý đồ nói trên. Thứ hai là xây dựng Trung Quốc thành một “xã hội khá giả”, với đích nhắm là GDP vào năm 2020 gấp đôi GDP năm 2010 (39,8 ngàn tỷ nhân dân tệ tương đương 6 ngàn tỷ Mỹ Kim). Năm 2010 là năm mà kinh tế Trung Quốc qua mặt Nhật Bản, đứng thứ 2 Thế giới. Để đạt mục tiêu này, từ đại hội 18 vào cuối năm 2012, Tập Cận Bình thay đổi mô hình kinh tế từ “lấy đầu tư và xuất cảng làm chính” chuyển sang mô hình “lấy động lực sáng tạo mới làm chính”. Tức là chuyển từ gia công xuất khẩu sang gia tăng tiêu thụ nội địa. Nền kinh tế của Trung Quốc hiện đang nằm trong giai đoạn gia tăng tiêu thụ nội địa là chính. Cho nên, sau thị trường địa ốc là thị trường cổ phiếu được thổi lên, Bắc Kinh khuyến khích dân Tàu nhảy vào chơi cổ phiếu và đẩy cho thị trường chứng khoán chỉ có lên mà không xuống, nhằm kích thích nền kinh tế tiêu thụ lan rộng trên toàn quốc. Vài năm trước đây, thị trường chứng khoán Trung Hoa đã lên vùn vụt do Bắc Kinh vừa khuyến khích, vừa tạo điều kiện dễ dãi cho dân Tàu vay mượn, thế chấp để nhảy vào đầu tư cổ phiếu. Cuối cùng, thị trường chứng khoán sụp đổ, khiến cho dân Tàu mất toi 3 ngàn tỷ Mỹ Kim vào đầu tháng 7 vừa qua. Thực tế phát triển trong nhiều năm qua tại Trung Quốc liên tục suy giảm rất lớn. GDP năm 2010 đạt 13,4% nhưng đến năm 2013 chỉ đạt 7,7%, năm 2014 đạt 7,4%, 6 tháng đầu năm 2015 đạt 7%, dự kiến cả năm 2015 sẽ chỉ đạt 6,8%. Trong tháng 7 vừa qua, mọi chỉ số về kinh tế đều cho thấy nền kinh tế của nước này suy thoái hơn là dự kiến và có thể đang lâm vào tình trạng giảm phát. Mức xuất cảng so với 12 tháng trước sụt 8,3% thay vì sụt 1,5% như dự báo. Mức nhập cảng (để cung ứng cho sản xuất) cũng giảm. Tám năm trước, thời Hồ Cẩm Đào – Ôn Gia Bảo, cả hai đều đã liên tục cảnh báo về nền kinh tế “bốn không” của Trung Quốc: không cân xứng, không phối hợp, không công bằng và không bền vững. Đến nay thì tất cả đều bộc lộ. Ngoài ra, sự phát triển kinh tế của Trung Quốc đã làm nảy sinh hai vấn đề lớn trong xã hội: tình trạng phân hóa giàu nghèo trong người dân diễn ra rất trầm trọng, đặc biệt là ngay trong những thành phố lớn và nhiều vấn nạn xã hội bùng phát rộng lớn do tình trạng phát triển không đồng đều giữa các địa phương, đặc biệt là các tỉnh nằm sâu trong Nội Lục như Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu quá nghèo. Những khó khăn kinh tế cùng với sự sụp đổ thị trường chứng khoán hồi tháng 7/2015 đã làm ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ của dân Tàu. Song song, trong những tháng gần đây, thị trường nội địa Trung Quốc không còn là miền đất hứa. Theo tin tức thì số doanh thu của các công ty xe hơi quốc tế tại Trung Quốc giảm đáng kể. Số xe hơi bán ra liên tiếp sụt giảm từ 17 tháng qua. Trong tháng 7 giảm 6.6% so với cùng thời gian này năm ngoái. Các hãng xe BMW (Đức) hay Nissan (Nhật) đã phải giảm giá xe và bắt đầu tái cơ cấu lại số lượng sản xuất cho thị trường Hoa Lục. Trung Quốc cũng là nơi tiêu thụ nguyên liệu nhiều nhất thế giới chiếm 50% lượng than toàn cầu, 50% quặng đồng hay 11% dầu mỏ; nhưng nay số lượng tiêu thụ tại Trung Quốc suy giảm gây thiệt hại cho nhiều quốc gia như Brazil giảm 20% hàng xuất khẩu sang Trung Quốc, kế đến là Nga, Úc, Chí Lợi vân vân… Nhưng quan trọng hơn cả là do chất lượng quá kém, gây ra vấn đề sức khoẻ cho người tiêu thụ, nhiều quốc gia trên thế giới đã hạn chế nhập cảng hàng hóa từ Trung Quốc, đã tạo ra nhiều khốn đốn cho những công ty sản xuất tại Hoa Lục. Chính trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế và để cứu các công ty sản xuất xuất khẩu, Bắc Kinh đã lấy biện pháp phá giá đồng nhân dân tệ mà trước đây nhất quyết không chịu làm dù bị Hoa Kỳ áp lực rất nặng. Tuy nhiên nhiều nhà kinh tế cho rằng việc phá giá đồng nhân dân tệ của Trung Quốc nằm ở khoảng 3% chưa có tác động gì lớn đến các công ty. Muốn có ảnh hưởng, theo Ngân Hàng DBS Singapore thì việc phá giá thích hợp là 10-30%, và phải duy trì trong một năm thì xuất khẩu mới bắt đầu cho thấy có sự thay đổi. Ngoài ra, theo các nhà nghiên cứu thì biện pháp phá giá đồng nhân tệ của Bắc Kinh sẽ có tác động tốt cho những công ty xuất khẩu hàng may mặc, xe hơi hay các nhà bán lẻ nước ngoài có nguồn cung cấp hàng rẻ tiền từ Trung Quốc. Trong khi đó, những nhà nhập khẩu hàng vào Trung Quốc, những công ty đang nợ bằng ngoại tệ và phải chi trả tiền để mua nhiên liệu bằng đồng Mỹ Kim. Điều đáng chú ý là việc phá giá đồng nhân dân tệ đã có những tác động xấu lên khu vực kéo theo sự xuống giá hàng loạt của một số đồng tiền tệ ở Á Châu. Riêng Việt Nam, sáng ngày 12/8, Ngân hàng Nhà nước CSVN đã ra thông báo cho biết là việc điều chỉnh tỷ giá đồng nhân dân tệ có tác dụng tiêu cực lên nền kinh tế Việt Nam. CSVN đã phá giá đồng bạc mà họ gọi là “điều chỉnh nâng biên độ tỷ giá USD/VND lên gấp đôi từ 1% đến 2%”. Hiện nay một đồng Mỹ Kim đổi từ 21.240 đồng đến 22.106 đồng Việt Nam. Tóm lại, với những diễn tiến dẫn đến việc Bắc Kinh phải phá giá đồng nhân dân hiện nay cho thấy là chính sách cai trị của Tập Cận Bình trong 2 năm (2013 – 2015) có vấn đề. Sự phá giá này có thể dẫn đến một cuộc rối loạn tiền tệ do cuộc chay đua phá giá giữa các quốc gia Á Châu để cạnh tranh sản xuất xuất cảng. Trung Điền Ngày 13/8/2015 Theo http://vnctcmd.blogspot.de
......

Một quốc gia... không chịu phát triển

Bà Phạm Chi Lan, một chuyên gia kinh tế trong nước, trong khi tham gia Hội nghị kết nối các doanh nghiệp nhỏ và vừa tổ chức ngày 8/8/2015 vừa qua tại Đà Nẵng, đã thuật lại một “nhận xét vui” của một số viên chức Ngân Hàng Thế Giới: “Trên thế giới gồm nước phát triển, nước đang phát triển, nước chậm phát triển nhưng Việt Nam có lẽ là mô hình đặc biệt nhất. Đó là nước…không chịu phát triển!” Quả thật đây là một "mô hình kỳ lạ nhất thế giới", nhưng phải nói ngay nhận xét trên không “vui” chút nào mà ngược lại, những người đang nắm quyền điều hành nền kinh tế đất nước phải cảm thấy… nhục. Nhục vì những con số thống kê trên giấy trắng mực đen cho thấy trong vòng 20 năm qua, đầu tư nước ngoài, vốn vay ODA đổ vào Việt Nam gần 90 tỷ đô-la. Đây là một con số mơ ước cho một nước chậm phát triển vừa thoát khỏi tình trạng chiến tranh. Đó là chưa kể một lượng kiều hối khổng lồ của người Việt từ khắp nơi trên thế giới đổ về dưới mọi hình thức. Số kiều hối này mỗi năm mỗi tăng, năm 2014 đã lên đến trên 10 tỷ. Thế nhưng với những thuận lợi hiếm có, suốt 40 năm qua nền kinh tế Việt Nam vẫn đi vào con đường èo uột, thậm chí dù được bơm rất nhiều viện trợ từ các định chế tài chánh quốc tế. Trong 20 năm là thành viên của Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (ASEAN), với bộ máy tuyên truyền rầm rộ về những quả đấm thép, những tập đoàn kinh tế hùng mạnh, Việt Nam cho đến nay vẫn chưa ra khỏi nhóm 4 nước lạc hậu nhất của tổ chức này. Để trả lời câu hỏi tại sao Việt Nam… không chịu phát triển, người ta có thể kể ra rất nhiều nguyên nhân, trong đó trầm trọng nhất là tham nhũng. Nhưng xét cho cùng, tham nhũng cũng chưa phải là nguyên nhân cốt lõi của sự tụt hậu triền miên. Bất quá nó cũng chỉ như “ngứa ghẻ” như lời của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng than thở trong dịp tiếp xúc với nhân dân thủ đô cách nay một năm! Tai họa nằm ở đây. Chế độ chính trị Việt Nam lấy tư tưởng Mác-Lê làm kim chỉ nam, tôn thờ học thuyết đấu tranh giai cấp làm chân lý và cưỡng bách nhân dân Việt phải theo. Cái chân lý tối mò ấy đặt căn bản trên sự độc quyền tuyệt đối của đảng Cộng sản. Cán bộ đảng viên học tập và thấm nhuần lý thuyết chủ nghĩa Mác: xã hội không đứng yên một chỗ mà luôn luôn vận động, thay đổi để tiến lên. Chính những mâu thuẫn và đối nghịch trong xã hội sẽ đưa đến những thay đổi và phát triển tốt hơn. Nhưng nói thì hay, những người Cộng sản đã mâu thuẫn ngay trong hành động. Trong chính trị, đảng Cộng sản chỉ đi lên bằng một chân, không chấp nhận chia sẻ quyền lực, không công nhận sinh hoạt nghị trường. Từ lâu, Hà Nội đã lập đi lập lại nhiều lần: không chấp nhận đa nguyên đa đảng. Và mới đây nhất tại đại hội lần thứ 10 của Hội Nhà Báo quốc doanh Việt Nam ngày 9/8, ông Nguyễn Phú Trọng một lần nữa lên gân chỉ đạo báo chí nhà nước “cần tỉnh táo trước thông tin lợi dụng dân chủ đòi đa nguyên đa đảng”. Chính trị độc quyền đi đôi với kinh tế chỉ huy, nên chỉ có thể xây dựng và lèo lái xã hội trong tinh thần bao cấp. Hiện tượng đói nghèo lạc hậu của xã hội miền Bắc khi cộng sản nắm quyền cho thấy sự sai lầm của mô hình này. Sau năm 1975, nó còn kéo dài sự què quặt dở sống dở chết cho tới năm 1986 để bước vào thời kỳ gọi là đổi mới, nhờ học được những bài học sơ đẳng về kinh tế thị trường. Đổi mới nhưng để giữ thế độc quyền, chế độ đưa ra mô hình “kinh tế thị trường” kèm theo cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thế nên trong 20 năm qua, thực tế cho thấy những gì Việt Nam đạt được là nhờ vào kinh tế thị trường, tức kinh tế tư bản. Không thành tựu nào mang dấu ấn của kinh tế chỉ huy. Nhưng người ta luôn luôn nghe lãnh đạo cộng sản phát biểu: “Kinh tế quốc doanh là chủ đạo”. Không có gì đáng ngạc nhiên khi cho đến thế kỷ 21 Việt Nam vẫn còn lẹt đẹt chạy đua cùng Lào – Miên và Miến! Chính vì không nhìn thấy độc quyền trong chính trị và kinh tế của lý thuyết Mác-Xít là nguyên nhân cốt lõi của sự trì trệ, lạc hậu nên Việt Nam cứ mãi mãi chấp nhận là một nước…không chịu phát triển! Tư Thẳng
......

Trung Quốc Mộng Bị Phá Giá

Nguyên nhân và Hậu quả của việc Phá giá đồng Nguyên   Một ngày sau khi mất hơn 200 điểm, sáng Thứ Tư, chỉ số DJIA của 30 đại doanh nghiệp Mỹ lập tức mất thêm hơn 190 điểm khi thị trường chứng khoán Mỹ vừa mở cửa, rồi sụt tiếp. Các chỉ số khác cũng thế, các thị trường Á Châu và Âu Châu cũng vậy trong hai ngày liền. Chỉ vì hôm Thứ Ba 11 Bắc Kinh phá giá đồng Nguyên của họ tới 1,9% và tiếp tục định giá thấp hơn 1,6% vào hôm sau. Trận chiến ngoại tệ toàn cầu đã bắt đầu…. * Tập Cận Bình - Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm - hình * Thuần về kinh tế, quý độc giả có thể nghe/đọc nhận định rất sớm của chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa trong cuộc phỏng vấn hôm qua (ngày 11 Tháng Tám) của đài Á Châu Tự Do về trận chiến ngoại tệ. Nhưng vì kinh tế cũng là chính trị, Hồ Sơ Người-Việt tìm hiểu thêm khía cạnh chính trị của quyết định phá giá này. Những Nguyên Nhân Phá Giá Bắc Kinh vẫn giàng giá đồng Nguyên của mình vào đồng Mỹ kim theo một hối suất chính thức và cho giao dịch mua bán trong một khoảng cách hay biên độ nhất định là 1%, hay 2% kể từ Tháng Ba vừa qua. Cuối Tháng Bảy thì họ nói đến biên độ 3%. Giữa khung cảnh ấy, hôm Thứ Ba 11, Ngân hàng Trung ương (Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc – PBoC) của Bắc Kinh đưa ra hai quyết định: Thứ nhất là chấm một giá - chọn một hối suất – của phiên giao dịch hôm trước làm giá chính thức được thông báo vào 9:15 sáng hôm sau khi thị trường mở cửa. Nghĩa là lấy một “giá của thị trường” làm giá chính thức. Thứ hai là chấm ngay một giá thấp của Thứ Ba mùng 10, hôm trước, làm giá chính thức: giảm 1,9%. Nôm na là phá giá đồng bạc mất 1,9%, một mức phá giá cao nhất kể từ đầu năm 1994. Hôm sau, Thứ Tư 11, họ chấm một giá thấp nữa, là giảm 1,6%. Nôm na là phá giá hai ngày liền.  Điều ấy mới làm các thị trường tài chánh quốc tế chấn động và theo nhau tuột giá. Người ta còn dự đoán là Bắc Kinh sẽ còn phá giá đến 10% nữa. Dù mỗi lần quyết định, Ngân hàng Trung ương đều cho phát ngôn viên đưa ra lời giải thích chính thức, người ta cũng nên và cần tìm hiểu nguyên nhân và động lực của việc này. Chúng ta có ba bốn cách giải thích khác nhau mà cách nào cũng có thể đúng một phần! Đây là điều khó cho các nhà bình luận. Và tùy trình độ hiểu biết về kinh tế hay quan điểm chính trị thiên về Bắc Kinh hay hoài nghi Trung Quốc mà mỗi người lại thiên về một cách. Giả thuyết thứ nhất là dựa vào tình hình kinh tế của Trung Quốc: sa sút hơn dự kiến qua hàng loạt thống kê vừa được công bố. Sản lượng đã và sẽ còn giảm, mức xuất cảng so với 12 tháng trước sụt 8,3% thay vì sụt 1,5% như dự báo, mà nhập cảng cũng giảm, nghĩa là nhu cầu nhập cảng cho sản xuất cũng sụt. Vì tình hình nguy ngập như vậy, Bắc Kinh phải phá giá để xuất cảng với hàng rẻ hơn và lại dùng xuất cảng làm đòn bẩy kích thích kinh tế. Giả thuyết thứ hai là dựa vào viễn kiến lâu dài của Bắc Kinh: từng bước giải phóng chế độ hối đoái để đồng Nguyên được mua bán tự do hơn theo quy luật thị trường hầu sau này có thể trở thành một ngoại tệ dự trữ phổ biến như đồng Mỹ kim. Khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF thông báo là chưa thể xác định rằng đồng Nguyên có thể là một ngoại tệ dự trữ hay chăng, Bắc Kinh biết là chưa hy vọng leo lên một đẳng cấp cao hơn. Chi bằng trong khi chờ đợi cái ngày vinh quang đó thì tiếp tục can thiệp vào hệ thống hối đoái (Hà Nội gọi sai là ngoại hối và ngoài này cũng dùng sai như mọi khi, vì… nội hối là gì?), để kích thích kinh tế. Cách suy diễn ấy có nghĩa là Bắc Kinh lại nhờ giới tiêu thụ hàng xuất cảng của Trung Quốc ở bên ngoài, chủ yếu là tại Hoa Kỳ - có nền kinh tế tương đối khá nhất với sức mua cao nhất - để cứu nguy kinh tế ở nhà, nhân tiện xuất cảng luôn nạn giảm phát của mình. Giả thuyết thứ ba về nguyên nhân là Bắc Kinh có thể thực tin rằng đồng bạc của mình định giá quá cao so với ngoại tệ của các nước đối tác buôn bán với mình, nhất là Âu Châu, Á Châu và Nhật, nên mới nương theo thị trường mà định lại một giá thích hợp hơn, một cái giá thấp hơn. Cách giải thích ấy có vẻ lạc quan và hình như phù hợp với nhận định của IMF. Vì vậy, Bắc Kinh mới nói rằng mình đang áp dụng quy luật thị trường (lấy giá ngày hôm trước) và hôm sau IMF cũng rất ngoại giao xác nhận như vậy! Giả thuyết thứ tư, cũng gần với giả thuyết trên, là Bắc Kinh bị kẹt giữa hai chiều hướng là mình thì giàng giá vào tiền Mỹ mà đô la tăng giá vù vù làm đồng Nguyên lên giá, trong khi các nước khác đều bơm tiền (như Nhật Bản, Âu Châu) hay phá giá như nhiều nước Á Châu khác ngoài Nhật Bản. Vì các nước đều đang đánh sụt trị giá đồng bạc của mình nên Trung Quốc bị kẹt. Cho nên, “đèn nhà nào nhà ấy rạng, mạng người nào người ấy giữ”, ta cũng phá giá trong trận chiến ngoại tệ đang lan rộng trên toàn cầu. Quý độc giả đừng thất vọng vì sao chuyện này lại rắc rối như vậy khi mà cách suy diễn nào cũng có một phần sự thật về nguyên nhân. Nhưng cái sự thật rõ rệt nhất vẫn là Trung Quốc vừa phá giá. Và rõ rệt không kém là việc phá giá ấy không thể giải quyết được vấn đề. Trong tình trạng sa sút chung của thế giới, nếu nước nào cũng tìm cách kích thích xuất cảng nhờ hàng rẻ qua biện pháp phá giá thì nước nào sẽ mua? Chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa gọi đó là “muốn xuất cảng lên Hỏa tinh hay sao!” Năm 1929, xa lắm rồi, các nước đã áp dụng chiến lược ấy nên mới làm vụ khủng hoảng tài chánh vì chứng khoán tụt giá tại Hoa Kỳ lan rộng và kéo dài thành Tổng khủng hoảng. Gần đây hơn, khủng hoảng tài chánh tại Đông Á năm 1997 cũng khiến Thái Lan, Nam Hàn và Indonesia lật đật phá giá để cứu nguy kinh tế khiến khủng hoảng kinh tế bùng nổ vào năm 1998 và dội ngược tới tận Liên bang Nga và Hoa Kỳ. Đấy là chuyện kinh tế. Hay chánh sách kinh tế tuyệt vọng và gây ra hậu quả bất lường vì người ta chỉ tìm cái “được” ở trước mắt mà chẳng thấy cái “mất” sau này. Nhưng vì Trung Quốc coi mọi chuyện đều là “đấu tranh”, chúng ta cố đi xa hơn vậy. Bị Quyền Lực Mềm Bật Vào Giữa Mặt Từ hai năm nay, Bắc Kinh đã tới tấp tung ra nhiều kế hoạch kinh tế nhằm tranh thủ hậu thuẫn chính trị của các nước. Đấy là “Con Đường Tơ Lụa” trên đất liền và ngoài biển, rồi “Tân Ngân Hàng Phát Triển” của nhóm BRICS (Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) và Ngân Hàng Đầu Tư Hạ Tầng Cơ Sở Á Châu (AIIB), cùng nhiều ngân khoản viện trợ cho hàng loạt quốc gia Á Phi lẫn dự án Phát Triển Tự Do Thương Mại Toàn Diện gồm 10 nước trong Hiệp hội ASEAN cộng thêm Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn Độ, Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan, vv…. Đặc điểm chung của ngần ấy sáng kiến là Không Có Hoa Kỳ. Nôm na là Bắc Kinh dàn trận chống Mỹ bằng quyền lực mềm, trong khi vẫn phát triển quyền lực thật về an ninh và quân sự từ biển Hoa Đông tới biển Hoa Nam của Trung Quốc. Phía Hoa Kỳ tính sao? Ngày sáu Tháng Tư, tân Tổng trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ là ông Ash Carter tuyên bố tại Đại học Arizona State University, rằng Hiệp ước Đối tác Chiến lược Xuyên Thái Bình Dương TPP cũng có chức năng ngăn chặn Trung Quốc như một hàng không mẫu hạm. Bắc Kinh không thể lầm về ý đồ của Đế quốc Mỹ! Huống hồ sau đó, cả Tổng thống Barack Obama lẫn Ngoại trưởng John Kerry đều nhiều lần xác nhận với Quốc hội Mỹ và cả lãnh đạo Hà Nội, rằng Hiệp ước TPP có nội dung chính trị là tạo thế đối trọng với việc Trung Quốc bành trướng ngoài Đông Hải. Vì vậy, ai ai cũng thấy ra một trận thế lớn lao giữa hai cường quốc ở hai bờ Thái Bình Dương. Đấy là bối cảnh rộng lớn của tình trạng đối đầu Hoa-Mỹ. Trong khi nước Mỹ còn phân vân bất định - và chưa thể hoàn thành kế hoạch TPP trong năm nay – thì Bắc Kinh có cơ hội giăng lưới để chiêu mộ các nước khác. Nào ngờ chính là sau khi phóng ra hàng loạt ám khí kinh tế cho mục tiêu chính trị là “quyền lực mềm của đồng tiền”, Bắc Kinh lại rơi vào cái lưới kinh tế của mình. Gậy ông lại đập lưng ông. Đầu tiên là tình hình kinh tế lại sa sút hơn mọi dự báo. Kế tiếp là sau khi đã bơm lên trái bóng bất động sản làm nhiều người bỏng tay vì bóng bể thì từ năm ngoái Bắc Kinh thổi lên trái bóng cổ phiếu. Từ hai tháng nay, trái bóng đó cũng bể trước sự chứng kiến của cả thế giới. Từ Đại hội 18 vào cuối năm 2012, Bắc Kinh đề ra nhu cầu cải cách và chuyển hướng kinh tế từ đầu tư và xuất cảng qua tiêu thụ của thị trường nội địa. Hai thị trường địa ốc và cổ phiếu đều thổi lên hy vọng gia tăng lợi tức của người dân để nâng mức tiêu thụ nội địa. Hy vọng đó đã tan tành! Bây giờ, Bắc Kinh thực sự tuyên chiến với các nước Á Châu qua biện pháp phá giá, tức là mở ra cuộc chiến hối đoái bằng đồng bạc rẻ. Biện pháp ấy khiến Trung Quốc dễ xuất cảng hơn mà làm các nước khó xuất cảng vào thị trường Hoa lục vì giá nhập cảng lại tăng. Sau khi giăng lưới bắt thiên hạ, chính Bắc Kinh lại sa vào cái lưới của mình, bị quyền lực mềm bật vào giữa mặt! Vụ phá giá đang xảy ra đã phá vỡ các kế hoạch BRICS, AIIB hay Tơ Lụa, và cho thấy Trung Quốc thiếu khả năng thiết lập các định chế có thể cạnh tranh hay thay thế Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF, Ngân Hàng Thế Giới hay Ngân Hàng Phát Triển Á Châu ADB. Việc đồng Nguyên sẽ trở thành ngoại tệ dự trữ khả dĩ cạnh tranh và thay thế Mỹ kim lại càng xa vời hơn. Quan trọng nhất, khi mọi quốc gia đều dìm nhau xuống đáy bằng hối suất thấp thì kinh tế toàn cầu sẽ bị suy thoái, và nạn giảm phát từ Trung Quốc sẽ lan qua xứ khác. Đấy là viễn ảnh 2016. ___ Kết luận ở đây là gì? Đang có tham vọng lãnh đạo thiên hạ, Trung Quốc lại ngã vào cái bẫy mình giăng. Chỉ vì chưa có thực lực! Đấy là sự phá giá của Trung Quốc Mộng. Theo dainamaxtribune.blogspot.de/
......

Công an phường Đông Hòa ngăn cấm Mục sư Dương Kim Khải lưu trú

GNsP (12.08.2015) – Công an phường Đông Hòa, Thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương yêu cầu gia đình Mục sư Nguyễn Mạnh Hùng không cho Cựu TNLT – Dân oan – Mục sư Dương Kim Khải lưu trú tại tư gia. Lý do công an đưa ra là Ms Khải đang trong thời gian chịu án 5 năm quản chế và ngôi nhà Ms Hùng thuộc ‘nhạy cảm’. Trả lời công an viên – Thiếu úy Nguyễn Tiến Đạt, công an khu vực khu phố Tân Lập, khi họ đến gây khó tại tư gia, Ms Hùng khẳng định, ông có quyền cho Ms Khải lưu trú tại tư gia và đã thông báo lưu trú cho công an đúng qui định. Ms Hùng cho biết thêm: “Nếu như công an phường Đông Hòa không cho Ms Khải lưu trú thì phải có thông báo rõ ràng, lý do vì sao không cho Ms Khải lưu trú… Phường 26, quận Bình Thạnh không chấp nhận quản lý Ms Khải và phường Đông Hòa gây khó khăn không cho ông ấy lưu trú tại nhà tôi, thì công an trả ông ấy về Bộ Công an đi, để ông ấy có nơi ở, thực hiện án quản chế 5 năm.” Tiếp lời Ms Hùng, Ms Dương Kim Khải khẳng khái nói với công an viên: “Dù chúng ta có quan điểm khác nhau, chính kiến khác nhau nhưng dù sao chúng ta cũng là người dân VN máu đỏ da vàng. Tôi là công dân VN, nếu ai muốn quản chế tôi phải tạo cho tôi chỗ ở. Tôi đang muốn một nơi nào đó tạo chỗ ở cho tôi vì tôi muốn được quản chế đây nè. Hôm 10.08, Chủ tịch phường 26 quận Bình Thạnh đã ký không quản lý tôi là Dương Kim Khải vì tôi không có chỗ ở. Nếu như hất tôi ra đường, thì chỗ nào che được tôi sẽ ở chỗ đó.” Cũng trong lúc này, Ms Du có vẻ giận giữ về cách hành xử không còn tình người của nhà chức trách. Ms Du kể lại hoàn cảnh bi đát của Ms Khải với công an viên: “Công an đã cưỡng chiếm, dỡ ngôi nhà của ông Khải, nhưng không đền bù, rồi bỏ tù ông ấy, cuộc sống rơi vào bế tắc. Khi ông Khải ở trong tù, vợ ông ốm, ai đến chăm sóc thì bị công an ngăn cấm và đe dọa. Sau đó vợ ông mất, ông không được nhìn mặt vợ lần cuối cùng, không có nơi mai táng bà nên chúng tôi phải đem bà về Hội thánh mai táng, nhưng nhà cầm quyền đến sách nhiễu. Bây giờ, ông Khải mãn hạn tù, không có nơi ở thì Ms Hùng cho ông ấy ở nhờ, mà công an phường Đông Hòa muốn trục xuất ông Khải thì ông ấy sẽ đi đâu đây, còn nơi nào mà đi nữa. Nếu công an phường Đông Hòa không muốn cho ông Khải lưu trú tại nhà Ms Hùng thì lập biên bản, rồi đưa ông ấy lên Bộ Công an để họ giải quyết.” Công an Nguyễn Tiến Đạt gây khó khăn cho gia đình Ms Hùng vào chiều ngày 11.08.2015, trong khi một số bạn bè của Ms Khải đến thăm ông. Cùng ngày, vào lúc 23 giờ, hơn 11 công an phường Đông Hòa tiếp tục xuống gây khó khăn cho gia đình Ms Nguyễn Mạnh Hùng và Ms Dương Kim Khải. Cựu TNLT – Dân oan – Mục sư Dương Kim Khải đấu tranh và bênh vực các quyền lợi của bà con dân oan. Vào năm 2004, ông bị nhà cầm quyền kết án 2 năm tù giam. Năm 2010, nhà cầm quyền tiếp tục quy kết ông vào tội ‘hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân’ theo Điều 79 BLHS và kết án ông 5 năm tù giam với 5 năm quản chế. Ông không thừa nhận tội và phản đối bản án bất công này. Pv. GNsP Nguồn: http://www.tinmungchonguoingheo.com/blog/2015/08/12/cong-an-phuong-dong-...
......

TUYÊN BỐ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ VÀ CÔNG DÂN VỀ NHỮNG DỰ ÁN TƯỢNG ĐÀI TRĂM TỶ, NGÀN TỶ

Đất nước đang đứng trước những thử thách sống còn. Độc lập, toàn vẹn lãnh thổ bị đe dọa, uy hiếp từng ngày, từng giờ. Quản lý kinh tế yếu kém cùng tham nhũng bạo phát làm thất thoát trầm trọng tiền vốn và nguồn lực đất nước, làm ngân sách trống rỗng, dẫn đến: • Công nợ ngập đầu Theo World Bank (Ngân hàng Thế giới), đến cuối 2014, nợ công của Việt Nam đã lên tới 110 tỷ USD (2,35 triệu tỷ đồng). Số nợ đó, bổ theo đầu dân thì một đứa trẻ sơ sinh vừa chào đời ở Việt Nam đã mang nợ hơn 1.200 USD (gần 30 triệu đồng). • Vắt kiệt sức dân Nhà nước túng quẫn, bần cùng đến nước đè thu phí đến cả chiếc xe máy – phương tiện mưu sinh và đi lại thiết yếu của tuyệt đại bộ phận dân chúng. Thuế, phí chồng chất, vét đến đồng tiền còm cõi của dân nghèo, bù đắp phần nào ngân sách trống rỗng, nhưng sức dân bị vắt kiệt, đời sống càng khốn cùng điêu đứng, không đủ tái sản xuất. Giật gấu vá vai, tiền vay mượn mọi nguồn, trong đó có nguồn vay ẩn chứa nhiều hiểm họa từ Trung Quốc – kẻ đã đánh chiếm nhiều đất đai, biển đảo và đang uy hiếp ngày càng trắng trợn độc lập chủ quyền của ta, quyết khuất phục ta bằng sức mạnh cứng và mềm. Cắn răng, ngửa tay vay của Trung Quốc là chấp nhận bị lệ thuộc, chi phối, khống chế ngày một thêm khó gỡ. Tiền vay ai thì cũng là vay vào tương lai, vào trách nhiệm của các thế hệ người Việt mai sau. Tài lực sức dân hôm nay lẽ ra phải được sử dụng hiệu quả nhất, đầu tư cho sản xuất, khoa học công nghệ, vực dậy kinh tế, quốc phòng. Nhưng giới chức từ trung ương đến địa phương đã ném đồng tiền phải ký cược bằng vận mệnh đất nước, bằng hy sinh to lớn của nhân dân vào những dự án phô trương phù phiếm, vì thế không những không giúp vực dậy mà còn trở thành gánh nặng cho nền kinh tế vốn ốm yếu, khoét sâu thêm những bất ổn, mâu thuẫn xã hội. Những văn miếu, tượng đài, quảng trường, công sở, nhà văn hóa, bảo tàng hoành tráng, nguy nga, lộng lẫy trong mênh mông hoang vắng, vô cùng lạc lõng, phản cảm và bất nhẫn trước cuộc sống nghèo khổ, lam lũ, thiếu thốn trăm bề của phần lớn dân chúng. Quảng Nam đất nghèo, dân đói, giáp hạt nhiều năm phải xin nhà nước cứu đói mỗi năm hơn ngàn tấn thóc. Không có tiền cho những dự án, công trình kinh tế, cho hạ tầng cơ sở vật chất nhưng tỉnh vẫn thản nhiên dốc hơn 400 tỷ ngân sách xây tượng đài Mẹ Việt Nam rồi để tượng xuống cấp nhanh chóng, không cần biết dân chúng có ngó ngàng hay không. Sơn La miền núi heo hút, kinh tế chỉ trông vào rừng, mà rừng đã bị tàn phá trống trơ. Tỉnh có tới 71.000 hộ nghèo, không đủ cơm ăn, áo mặc. Các bản làng đều thấy những mái trường tranh tre nứa lá dột nát, xiêu vẹo, tuềnh toàng như chòi canh nương, học trò còm cõi, tả tơi. Sơn La nghèo đói thiếu thốn hơn cả Quảng Nam, vậy mà Hội đồng Nhân dân tỉnh này vừa thông qua chủ trương xây dựng tượng đài và quảng trường Hồ Chí Minh với chi phí 1.400 tỷ đồng – số tiền đủ ngói hóa toàn bộ các điểm trường, các ký túc xá cho Sơn La và các tỉnh miền núi! Không phải chỉ có một tượng đài Hồ Chí Minh ở Sơn La. Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vừa quy hoạch một hệ thống tượng đài Hồ Chí Minh đến 2030, Thủ tướng đã phê duyệt, với 14 tượng đài Hồ Chí Minh sẽ còn tiếp tục được mọc lên khắp ba miền: Bắc Kạn, Bắc Ninh, Bình Định, Đà Nẵng, Điện Biên, Hải Phòng, Hải Dương, Kiên Giang, Quảng Bình, Quảng Trị, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc... Trong khi đó, có tới 58 địa phương đang xin xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh. Sơn La chỉ là trường hợp vừa được phê duyệt "bổ sung" trong quy hoạch đến 2030. Nguồn vốn còm cõi của đất nước sẽ còn bị cơn bão tượng đài oan nghiệt tới tấp thổi bay hàng trăm, hàng nghìn tỷ đồng tiền tận thu suy kiệt sức dân, tiền ngửa tay vay nước ngoài đầy rủi ro, hiểm họa. Đất nước đang vô cùng khó khăn, đang đứng trước những thử thách ngặt nghèo và đang thiếu tài lực trầm trọng để vượt qua. Chủ trương xây dựng hàng loạt tượng đài Hồ Chí Minh nguy nga, hoành tráng, tốn kém lúc này là hết sức nguy hại, hướng nguồn lực đất nước vào nhu cầu giả – một ảo tưởng áp đặt toàn trị mãi mãi lên đầu dân chúng – trong khi nhu cầu thật bị phớt lờ, khó khăn càng gay gắt hơn. Chủ trương xây hàng loạt tượng đài Hồ Chí Minh với chi phí mỗi công trình từ vài trăm đến vài ngàn tỷ đồng tiền thuế của dân không những hết sức tương phản với cuộc sống còn vô cùng thiếu thốn của số đông dân chúng nhiều vùng miền, mà còn đặc biệt nguy hại vì tạo cơ hội béo bở cho quan tham đục khoét, bộ máy công quyền hư hỏng công khai tham nhũng tập thể. Đó là tội ác không thể dung thứ. Thực tế cho thấy, công trình, dự án nào những người dính dáng vào đều chăm chăm một tỷ lệ phần trăm rất lớn chia chác, đặc biệt các công trình tượng đài không theo quy chuẩn xây dựng đại trà. “Xây dựng tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh hoành tráng, đồ sộ, xứng đáng với công đức của Người là đáp ứng nguyện vọng, tình cảm của đồng bào đối với Người” chỉ là cách ngụy biện vụng về, trơ trẽn nhằm lấp liếm cho những chục tỷ, trăm tỷ đồng rút ruột công trình, cốt tư túi. Nhu cầu cấp thiết cháy bỏng của người dân là có con đường ra con đường đến bản, có cây cầu vững chãi, an toàn bắc qua sông suối dân qua lại hàng ngày, có bệnh xá, trường học kiên cố, chứ không phải là tượng đài, quảng trường nguy nga ở những nơi mà người dân vùng sâu vùng xa không biết trong đời có khi nào bước chân đến. Vì những lẽ trên, chúng tôi – các tổ chức xã hội dân sự độc lập và những công dân Việt Nam ký tên dưới đây – nghiêm khắc đòi hỏi nhà nước khẩn cấp hủy bỏ những dự án xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh, chặn đứng nguy cơ vơi hụt đáng kể quỹ ngân sách vốn eo hẹp, tạo thêm bất ổn mâu thuẫn xã hội đã và đang chồng chất. Các tổ chức xã hội dân sự và cá nhân ký tên dưới đây: 1. Diễn đàn Xã hội Dân sự Dân quyền, đại diện TS Nguyễn Quang A 2. Hội Nhà báo Độc lập, đại diện TS Phạm Chí Dũng 3. Bauxite Việt Nam, đại diện GS Phạm Xuân Yêm 4. Ban Vận động Văn đoàn Độc lập, đại diện nhà văn Nguyên Ngọc 5. Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM 6. Phạm Duy Hiển, dịch giả (bút danh Phạm Nguyên Trường), Vũng Tàu 7. Hoàng Hưng, nhà thơ, Vũng Tàu 8. Nguyễn Khắc Mai, nhà nghiên cứu, Hà Nội 9. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang 10. Nguyễn Huệ Chi, GS, Hà Nội 11. Chu Hảo, TS, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Hà Nội 12. Nguyễn Tường Thụy, nhà báo, Hà Nội 13. Phạm Gia Minh, TS, TP HCM 14. Hà Sĩ Phu, TS, Đà Lạt 15. Trần Minh Thảo, Bảo Lộc, Lâm Đồng 16. Hoàng Dũng, PGS TS, ĐHSP TP HCM 17. Mai Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu, Đà Lạt 18. Hồ Ngọc Nhuận, TP HCM 19. Nguyễn Thị Kim Chi, nghệ sĩ ưu tú, Hà Nội 20. Vũ Linh, nguyên cán bộ giảng dạy Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội 21. JB Nguyễn Hữu Vinh, facebooker, Hà Nội 22. Bùi Minh Quốc, nhà thơ, cựu Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng, Đà Lạt 23. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá công an, Hà Nội 24. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội 25. Trần Tiến Đức, nhà báo, đạo diễn, Hà Nội 26. Phan Thị Hoàng Oanh, TS, TP HCM 27. Nguyễn Nguyên Bình, nhà văn, Hội Nhà văn Hà Nội 28. Vũ Thư Hiên, nhà văn, cựu tù nhân lương tâm Việt Nam, Pháp 29. Hoàng Khánh Khang, Sài Gòn 30. Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn, Đà Lạt 31. Lê Phước Sinh, facebooker, Sài Gòn 32. Võ Quang Thái, kỹ sư hưu trí, Sài Gòn 33. Huỳnh Công Thuận, facebooker, Sài Gòn 34. Nguyễn Ngọc Hạnh, hưu trí, Hoa Kỳ 35. Trương Long Điền, công chức hưu trí, An Giang 36. Nguyễn Thái Lai, facebooker, Nha Trang 37. Nguyễn Thị Khánh Trâm, nhà nghiên cứu, TP HCM 38. Trần Văn Mạnh, kỹ sư, Vĩnh Phúc 39. Jack T Trần, chuyên viên điện toán, hưu trí, Hoa Kỳ 40. Vũ Quang Chính, nhà phê bình điện ảnh, Hà Nội 41. Phạm Quang Hiển, doanh nhân, Hà Nội 42. Vũ Vân Sơn, nguyên Chủ tịch Hội Người Việt tại Berlin và Brandeburg, Đức 43. Hồ Uy Liêm, TS, Hà Nội 44. Trần Bang, kỹ sư, cựu chiến binh chống giặc Tàu, Sài Gòn 45. Kha Lương Ngãi, cựu Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn giải phóng, Sài Gòn 46. Trần Văn Phong, 44 tuổi đảng, Nghệ An 47. Trần Đình Song, Specialist Engineering, Hoa Kỳ 48. Nguyễn Tấn Phùng, kỹ sư, Tiền Giang 49. Bùi Thanh Hiếu (Người Buôn Gió), blogger, Đức 50. Hoàng Minh Phương, kỹ sư, Hà Nội 51. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội 52. Đào Thu Huệ, cán bộ Đại học Quốc gia, Hà Nội 53. Phùng Ngọc Hoài, giảng viên đại học hưu trí, An Giang 54. Phạm Hồng Thắm, nhà báo hưu trí, Hà Nội 55. Phạm Phú Minh, nhà báo, Diễn Đàn Thế Kỷ, Hoa Kỳ 56. Phùng Liên Đoàn, PhD, PE, Chủ tịch Quỹ khuyến học Việt Mỹ (VASF), Quỹ Khuyến khích tự lập (FESR) và Viện Việt Nam tương lai (IVNF), Hoa Kỳ 57. Nguyễn Đức Tường, GS TS, nguyên giảng viên Đại học Ottawa, Canada 58. Ngô Thị Hồng Lâm, chuyên viên nghiên cứu lịch sử Đảng, Vũng Tàu 59. Trần Văn Thọ, GS TS, Đại học Waseda, Nhật Bản 60. Hà Dương Tường, nguyên giáo sư Đại học Công nghệ Compiègne, Pháp 61. Trương Minh Hưởng, Hà Nam 62. Hoàng Thị Hà, hưu trí, Hà Nội 63. Phan Văn Phong, Hà Nội 64. Trần Văn Thủy, đạo diễn, Nghệ sĩ Nhân dân, Hà Nội 65. Vũ Mạnh Hùng, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Thương mại, Hà Nội 66. Uông Đình Đức, TP HCM 67. Nguyễn Thế Hùng, GS TS, Đại học Đà Nẵng, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam 68. Vũ Quốc Ngữ, thạc sĩ, nhà báo tự do, Hà Nội 69. Trần Thị Thảo, nhà giáo, Hà Nội 70. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư kí Hội Trí thức yêu nước TP HCM 71. Phạm Thị Lâm, cán bộ hưu trí, Hà Nội 72. Hoàng Thế Đức, Hà Nội 73. Nguyễn Văn Túc, cựu tù nhân lương tâm, Thái Bình 74. Đinh Đức Long, TS, bác sĩ, Sài Gòn 75. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư, Khánh Hòa 76. Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế 77. Trịnh Hồng Kỳ, kinh doanh xuất nhập khẩu, TP HCM 78. Trịnh Bá Phương, Hà Nội 79. Tô Oanh, nhà giáo hưu trí, TP Bắc Giang 80. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, Sài Gòn 81. Quan Nguyen, kỹ sư, Hoa Kỳ 82. Nguyễn Thành Nhân, nhà văn, dịch giả, Sài Gòn 83. Lưu Hồng Thắng, công nhân, Hoa Kỳ 84. Nguyễn Thúy Bình, kinh doanh, Sài Gòn 85. Đào Tiến Thi, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội 86. Phạm Quang Tuấn, PGS, Đại học New South Wales, Australia 87. Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên, TP HCM 88. Phạm Toàn, nhà nghiên cứu giáo dục độc lập, Hà Nội 89. Dương Sanh, nhà giáo, Khánh Hòa 90. Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Huế, Huế 91. Tô Lê Sơn, kỹ sư, CLB Lê Hiếu Đằng, TP HCM 92. Nguyễn Đức Dân, GS TS, TP HCM 93. Đỗ Đăng Giu, nguyên Giám đốc nghiên cứu CNRS Đại học Paris-Sud, Pháp 94. Phan Bình Minh, cựu phóng viên Việt Nam Cộng hòa, Đức 95. Lê Hiền Đức (Công dân Liêm chính), hưu trí, Hà Nội 96. Bui Duc Thong, kỹ sư, Đức 97. Vũ Tuấn, GS TS, Nhà giáo nhân dân, hưu trí, Hà Nội 98. Đỗ Như Ly, kỹ sư hưu trí, TP HCM 99. Nguyễn Đan Quế, bác sĩ, cựu tù nhân lương tâm Việt Nam, TP HCM 100. Lê Văn Tâm, nguyên Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Nhật Bản 101. Đỗ Thị Minh Hạnh, Sài Gòn 102. Nguyễn Xuân Hoài, hưu trí, TP HCM 103. Nguyễn Tiến Trung, Thạc sĩ, TP HCM 104. Phạm Huy Việt, Đại tá, cựu chiến binh Thành cổ Quảng trị, hưu trí, Nghệ An 105. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư, Thụy Sĩ 106. Đỗ Minh Tuấn, nhà văn, đạo diễn, Hà Nội 107. Thùy Linh, nhà văn, Hà Nội 108. Quản Mỹ Lan, Pháp 109. Khôi Nguyên, facebooker, Hoa Kỳ 110. Nguyễn Thanh Giang, TS, Hà Nội 111. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo trước 1975, TP HCM 112. Nguyễn Đông Yên, GS TSKH, nghiên cứu và dạy Toán, Hà Nội 113. Bùi Tiến An, cựu chuyên viên Ban Dân vận thành ủy TP HCM, cựu tù chính trị chuồng cọp Côn Đảo trước 1975, TP HCM 114. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Huỳnh Kim Báu đại diện 115. Võ Văn Thôn, cựu Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, cựu Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận 3, TP HCM 116. Hội Bầu bí tương thân, Trưởng Ban điều hành Nguyễn Lê Hùng đại diện 117. Lê Công Giàu, cựu Phó Tổng Giám đốc Saigontourist, Imexco, TP HCM 118. Lê Khánh Luận, TS, nguyên giảng viên Đại học Kinh tế TP HCM, TP HCM 119. Hà Quang Vinh, hưu trí, TP HCM 120. Nguyễn Kim Huê, cựu chiến binh, TP HCM 121. Vũ Trọng Khải, PGS TS, chuyên gia kinh tế nông nghiệp, TP HCM 122. Ngô Kim Hoa, facebooker, Sài Gòn 123. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, cựu Phó Tổng Biên tập báo Tuổi Trẻ, Hội An 124. Phạm Khiêm Ích, PGS TS, Hà Nội 125. Trần Thanh Bình, kỹ sư, Italia 126. Hoàng Lại Giang, nhà văn, TP HCM 127. Phạm Hải, blogger, Nha Trang 128. Nguyễn Đình Cống, GS TS, Đại học Xây dựng, Hà Nội 129. Lê Minh Hằng, cán bộ hưu trí, Hà Nội 130. Nguyễn Đăng Hưng, GS Danh dự Đại học Liège (Bỉ), TP HCM 131. Lê An Vi, nhà nghiên cứu độc lập Văn hóa Việt cổ, Hà Nội 132. Trần Minh Quốc, CLB Lê Hiếu Đằng, TP HCM 133. Lê Thị Minh Hà, Hà Nội 134. Nguyễn Thanh Tâm, Hoa Kỳ 135. Nguyễn Văn Dũng, giáo viên nghỉ hưu, TP Huế 136. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh 137. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM 138. GB Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn, TP HCM 139. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM 140. Trần Nhơn, TS, Hà Nội 141. Đặng Thị Hảo, TS, Viện Văn học, Hà Nội Theo boxitvn.blogspot.de
......

Kỹ năng đối phó với công an

#‎GNsP‬ (11.08.2015) – Gần 15 bạn trẻ đến từ Ninh Bình, Nghệ An, Sài Gòn, Thủ Đức, Cần Thơ, Đồng Nai… tham dự buổi thảo luận ‘Kỹ năng đối phó với công an’ do Luật sư Nguyễn Văn Đài diễn giải, sáng ngày 09.08.2015, tại Văn phòng Công lý và Hòa bình DCCT Sài Gòn. Mục đích của buổi thảo luận nhằm chia sẻ một số kiến thức liên quan đến pháp lý và những trải nghiệm làm việc với công an, giúp cho các bạn trẻ có kinh nghiệm vượt qua những trở ngại khi đối chất với công an, để bảo vệ quyền cho chính bản thân và cho người khác. Buổi thảo luận do Giảng viên Phạm Minh Hoàng điều phối. Đặc biệt có sự hiện diện của Mục sư Nguyễn Trung Tôn, sống tại Thanh Hóa và bà Dương Thị Tân đến chia sẻ một vài kinh nghiệm khi làm việc với công an. Trong buổi này, vị Luật sư sống ở Hà Hội nhấn mạnh đến quyền ‘bầu cử’ của công dân để thành lập nên một Nhà nước, và công dân có quyền ‘truất phế’ Nhà nước đó khi các nhà chức trách không làm đúng nghĩa vụ được giao. Ls Đài đề cập đến quyền ‘bầu cử’ và quyền ‘truất phế’ nhà nước của công dân được quy định rõ trong Hiếp pháp, cụ thể qua các Quyền Bình Đẳng –Điều 16 Hiến Pháp, quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật…”; Quyền Lập Hội, Quyền Tự Do Báo Chí… cao nhất là Quyền Biểu Tình để lật đổ các chính phủ độc tài và mong muốn thay thế một chính phủ dân chủ. Thế nhưng, Quyền Bình Đẳng của công dân đã bị chính Nhà nước CHXHCNVN tước đoạt, quy định tại Điều 4 HP “Đảng Cộng sản Việt Nam - là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Tại Điều 4 HP này, nhà cầm quyền cs nghiễm nhiên cho họ cái quyền lãnh đạo nhà nước mà không cần thông qua cuộc ‘trưng cầu dân ý’ đúng nghĩa… Cũng vậy, Quyền Lập Hội, Quyền Tự Do Báo Chí, Quyền Biểu Tình… cũng bị chính nhà cầm quyền ngăn cản. Quyền Bình Đẳng của công dân cũng như các quyền cơ bản khác bị nhà cầm quyền xâm phạm, cụ thể ngăn cấm Quyền tự do đi lại của công dân –Điều 23 HP, quy định: “Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước…”. Ls Đài giải thích, không ai hoặc tổ chức nào có quyền tước đoạt quyền tự do đi lại của người dân trừ khi người đó: có quyết định của Tòa án, và đang trong thời gian thi hành án. Tuy nhiên, tại VN, nhiều người -có tiếng nói khác nhà cầm quyền- đã bị cấm xuất cảnh với lý do mơ hồ như ‘chưa được phép xuất cảnh theo đề nghị của công an Tp…” Làm thế nào để bảo vệ được các quyền cơ bản này của chính bản thân? Đó là câu hỏi được đặt ra trong khi thảo luận. Ls Đài –từng bị 4 năm tù giam và 4 năm quản chế- giải đáp, khi một công dân thực hiện các quyền cơ bản của mình, nhưng lại bị công an/an ninh sách nhiễu gây khó khăn thì cần hiểu “mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình…” (Điều 21 HP), và tại Điều 22 HP “1. Công dân có quyền có nơi ở nơi ở hợp pháp; 2. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở. Không ai được tự ý vào chỗ ở của người khác nếu không được người đó đồng ý; 3. Việc khám xét chỗ ở do luật định.” Nghĩa là, quyền bất khả xâm phạm về thân thể và chỗ ở của công dân được bảo đảm tại Điều 6 Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự [BLTTHS] quy định: “Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang… Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.” Do đó, công dân có quyền từ chối ‘làm việc’ với công an khi họ gửi ‘giấy mời’, có quyền chất vấn công an về nội dung buổi làm việc; còn công an không có quyền bắt/tạm giam/tạm giữ công dân một cách trái phép nếu như không trưng dẫn ra được bằng chứng cáo buộc công dân đó vi phạm pháp luật, nếu như không có lệnh của Tòa án, hoặc Viện kiểm sát. Giả sử một công dân nào bị bắt/tạm giữ/tạm giam tại trụ sở công an hoặc cơ quan cảnh sát điều tra thì công dân có quyền im lặng, quyền được có luật sư, quyền được thông báo về cho gia đình biết về tình trạng giam giữ. Công dân không có nghĩa vụ chứng minh mình có tội, mà trách nhiệm này thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng được quy định tại Điều 10 BLTTHS. Qua buổi hội thảo, một bạn trẻ sống tại Thủ Đức, bày tỏ: “Em thích nhất biết cách ứng phó với an ninh. Em sẽ tự tin hơn trong việc lên án bất công mà không sợ việc đó là trái pháp luật nữa.” “Em mong được tham dự nhiều buổi hội thảo với các chủ đề này hơn, để có thêm kiến thức pháp luật, nhờ đó mà em biết những việc em đang làm cho đất nước là những việc làm đúng, nên em sẽ bớt sợ hơn nếu có gặp công an và làm việc với họ.” Một bạn trẻ sống tại Sài Gòn tham dự buổi thảo luận, mong ước. Huyền Trang, GNsP Nguồn: FB Tin Mừng Cho Người Nghèo
......

TPP 2016: Hồ sơ sinh dược và chông gai cho trí tuệ

Những người lãnh đạo Hà Nội có thể yên tâm. Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái bình dương TPP khó thành hình và chế độ chưa cần cải thiện tình trạng nhân quyền hoặc giải tỏa hệ thống lao động để công nhân thực sự được làm chủ sức lao động của mình. Ngược lại, cơ hội phát triển ngoại thương của Việt Nam cũng bị đình hoãn, trong khi sức hút của Trung Quốc vẫn gia tăng…. Trước hết, hội nghị cấp Bộ trưởng của 12 quốc gia tham gia Hiệp ước TPP đã tan vỡ tại Hawaii mà không đạt tiêu chí là hoàn tất trong Tháng Bảy. Như mọi khi, Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry không nói sự thật tại Hà Nội khi vẫn tỏ vẻ lạc quan và thật ra còn gây khó cho Chính quyền Obama: hội nghị sẽ khó tái nhóm nội trong Tháng Tám như người ta hứa hẹn. Khác với cái nhìn chủ quan của Hà Nội, rằng Mỹ thiết tha lôi kéo Việt Nam vào vành cung TPP như một lực đối trọng với ảnh hưởng của Trung Quốc, Hoa Kỳ có nhiều vấn đề lớn lao và rắc rối hơn. Bài này sẽ tạm sơ kết về chuyện đó. *** Trước hết, trong 11 đối tác của vòng TPP, Hoa Kỳ chú ý nhất đến vị trí của Nhật Bản, quốc gia có sản lượng kinh tế đứng hạng ba thế giới, và bên trong vẫn còn nhiều khu vực được bảo vệ khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài. Tiêu biểu nhất là khu vực nông sản - lương thực - và thế lực rất mạnh của hiệp hội nông gia, xưa nay là rường cột của đảng Tự do Dân chủ LDP. Mạng lưới vận động của họ là một hệ thống được xây dựng từ dưới lên, từ các hợp tác xã tại địa phương lên tới cấp quận huyện. Trên cùng là một tổ chức có tên là “Toàn quốc Nông nghiệp Hiệp đồng Tổ hợp Trung ương hội”, gọi tắt là “Toàn Trung” hay Zenchu theo tiếng Nhật. Hội viên ở dưới có gần 10 triệu người, khoảng 10% của người dân ở tuổi đi bầu. Bên trong, có gần năm triệu là hội viên chính thức và hơn bốn triệu “hội viên hợp tác”, là những người không sinh sống bằng nghề nông. Mười triệu người đó lập ra gần 700 hợp tác xã dưới cơ sở và từng bước liên kết với nhau đến thượng tầng là tổ chức Toàn Trung. Nhờ thế lực đó, họ bảo vệ năm ngành sản xuất (gạo, mì, bò gà, sữa và đường) bằng hàng rào quan thuế rất cao. Như thuế quan về gạo Nhật lên tới 778%, là loại cao nhất thế giới. Dân Nhật chịu cảnh “gạo châu củi quế” trong nghĩa đen để nâng đỡ nông gia cao niên ở nhà. Chẳng những vậy, các thế lực chính trị hậu thuẫn nông gia còn trợ cấp việc… không trồng lúa và để nhiều thửa ruộng trống nhằm bảo vệ lợi tức của nông dân nhờ giá cao. Thủ tướng Shinzo Abe muốn phá vỡ thế lực đó với “mũi tên cải cách thứ ba” của ông, mà chưa xong. Lý do hội nghị TPP khó tái nhóm chính là vì sức cản đó tại Nhật Bản, như Thông tấn xã Kyodo đã sớm loan tin từ hôm mùng sáu, trước khi John Kerry tới Hà Nội. *** Nhưng Mỹ và các nước không chỉ gặp trở ngại từ phía Nhật. Trong nhóm 12 nước TPP, Canada có sản lượng kinh tế đứng hạng ba sau Mỹ và Nhật, và cũng có thế lực bảo hộ nông sản rất mạnh: họ đòi duy trì hàng rào quan thuế là 241% trên sữa nhập cảng nên gặp phản ứng bảo hộ không kém của… nông gia Mỹ. Một quốc gia có ưu thế về canh nông và lương thực là Tân Tây Lan, New Zealand, muốn nhập cuộc TPP vì tìm ra cơ hội xuất cảng sữa, phó mát hay trứng của mình, nên cũng viện dẫn tinh thần bảo hộ Mỹ, Nhật, Canada để nêu vấn đề. Vì kinh tế cũng là chính trị, người ta phải nhìn vào chính trường Canada. Tháng 10 này, Canada có bầu cử, Thủ tướng Stephen Harper và đảng Bảo Thủ của ông dễ mất phiếu của hai tỉnh đông dân là Quebec và Ontario nếu ông nhượng bộ. Và nếu đảng Bảo Thủ thất cử, Quốc hội Canada sẽ khó phê chuẩn Hiệp ước TPP. Mà bảo vệ hàng rào nông sản thì cũng là phá vỡ TPP. Hoa Kỳ khó yêu cầu Canada nhượng bộ để làm gương vì cũng có tật: bảo vệ đường Mỹ chống sự cạnh tranh của đường Úc. Nước láng giềng Mexico ở bên cạnh thì chẳng sợ đường của Úc mà không thích xe Nhật vì doanh nghiệp xe hơi Nhật Bản cho Thái Lan ráp chế quá nhiều cơ phận. Và Thái Lan không là một thành viên TPP! Cũng theo hướng đó, có nước sẽ hỏi rằng sau khi vào TPP, Việt Nam có là một trung tâm xuất cảng hàng hóa hay nguyên liệu Trung Quốc không? Với cái mớ bòng bong đó, Hiệp ước TPP sẽ khó thành hình năm nay. Và qua năm tới thì... hết thuốc chữa không vì Hoa Kỳ có tổng tuyển cử với đảng Dân Chủ sở trường chuyện đối trắng thay đen. Ứng cử viên Hillary Clinton chẳng hạn đã ủng hộ TPP khi còn là Ngoại trưởng, nay thì nghe ngóng hơi gió. Và các dân biểu nghị sĩ phải tái tranh cử năm tới cũng đón gió cử tri. *** Nói về hết thuốc chữa, một trở ngại lớn cho Hoa Kỳ là quyền sáng chế dược phẩm. Trong danh mục gần năm ngàn loại thuốc được bàn cãi trong dự án TPP, có khoảng ba ngàn 400 loại là thuốc Mỹ, do doanh nghiệp Hoa Kỳ dày công nghiên cứu, chế biến và phân phối. Một đạo luật được cả hai phe Dân Chủ và Cộng Hòa thông qua quy định rằng doanh nghiệp Mỹ cần thời hạn khai thác là 12 năm trước khi loại thuốc đó trở thành thuốc “đồng căn” - dược phẩm gốc được mọi doanh nghiệp khác chế biến căn cứ trên thành phần gốc do doanh nghiệp Mỹ tìm ra. Nguyên tắc có vẻ hợp ý ấy lại đụng vào quyền lợi của xứ khác núp sau màn khói luân lý đạo đức: phải có thuốc rẻ cho dân nghèo chứ! Vì vậy, ngoài Nhật, hầu hết các nước đều yêu cầu Mỹ thu ngắn thời gian khai thác từ 12 năm xuống năm bảy năm thôi. Dẫn đầu là Canada nơi mà các doanh nghiệp dược phẩm được bảo vệ tác quyền trong tám năm, hay Úc, có năm năm bảo vệ tư bản dược phẩm của mình. Đấy là một trở ngại của TPP, được các nước gọi tắt là “biologic pharmaceuticals” – dịch ra “sinh dược” chăng? Chúng ta hãy thử quên chuyện chính trị mà nói đến cái “lô gích” của “biologic” đó. Thí dụ như một doanh nghiệp dược phẩm Hoa Kỳ có thể mất chục năm và trăm triệu để nghiên cứu, thử nghiệm và phát minh ra một loại thuốc mới, rồi đệ nạp cơ quan Nông Dược FDA để xin phép phổ biến. Tiến trình đầu tư tốn kém và lâu dài ấy cần có thời gian kiếm lời để “hoàn vốn” vì mối lợi ấy là động lực kích thích đầu tư, sáng chế và tiến hóa. Bây giờ, thời gian hoàn vốn đó bị thu hẹp từ 12 năm xuống dăm bảy năm và công ty sáng chế sẽ phải cạnh tranh với loại dược phẩm gốc do mình tìm ra mà do xứ khác phổ biến với giá rẻ hơn – vì chẳng mất tiền đầu tư về nghiên cứu. Nếu lên tiếng bảo vệ đặc quyền khai thác ấy, doanh nghiệp Mỹ có thể bị kết án là không thương dân nghèo của các nước khác! Phái bộ Hoa Kỳ đang chết kẹt trong nghịch lý của kinh doanh và luân lý đó. Chỉ cần nhượng bộ các nước về chuyện sinh dược là Hoa Kỳ tạo ra một tiền lệ là “ở đời muôn sự của chung”. Và đánh sụt mức đầu tư trong ngành dược phẩm. Chúng ta đang thấy một thí dụ cụ thể mà nan giải của lý tưởng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, để từ đó suy ra nhiều hồ sơ rắc rối về nhu liệu điện toán hay về sản phẩm của nghệ thuật giải trí. Hoa Kỳ và cả Nhật Bản đang dẫn đầu thế giới về các ưu thế này. Khi phá bỏ hàng rào đó thì ta sẽ có sản phẩm “đồng căn”, cùng gốc, của một quốc gia sở trường về nghệ thuật ăn cắp. Là Trung Quốc! Bài học kinh tế ở đây là gì? Tự do thương mại có góp phần phát triển kinh tế. Quốc gia nào cố gắng tổ chức hệ thống kinh tế theo nguyên tắc này đều đạt kết quả khả quan, y như cố gắng xây dựng hạ tầng cơ sở là cầu đường cho sản xuất. Bây giờ, vì xứ khác dựng hàng rào cản trở mà ta cũng lui về phản ứng bảo hộ mậu dịch thì chẳng khác gì về phá hỏng cầu đường của chính mình. Khi thấy ngần ấy nước về nhà tự phá như vậy, chúng ta không nên lạc quan về viễn ảnh TPP trong năm 2016. Và Hà Nội đừng vội lo: hãy cứ rong chơi trong vòng Bắc thuộc! Nguồn: http://dainamaxtribune.blogspot.com/
......

Mục sư Dương Kim Khải vừa mãn hạn tù 5 năm

Trong cuộc phỏng vấn dành cho đài Chân Trời Mới sau khi ra khỏi nhà tù cộng sản vào buổi trưa ngày 10/8 vừa qua, cựu tù nhân lương tâm, Mục Sư Dương Kim Khải cho biết, ngôi nhà của ông ở phường 26 quận Bình Thạnh đã bị nhà cầm quyền tịch thu khi ông đang bị giam cầm và đến nay vẫn không trả lại. Vì thế mà khi ra tù, bị tước mất hộ khẩu ở quận Bình Thạnh, nên ông đã không có chỗ ở và sẽ phải lang thang nhờ cậy những nơi quen biết. Mục sư Dương Kim Khải bị công an bắt giữ cùng với 6 người khác vào ngày 20/ 8/2010 khi đang giúp bà con dân oan tại Bến Tre khiếu kiện đòi lại ruộng đất nhà cửa bị cướp đoạt. Trong phiên tòa sơ thẩm vào ngày 30/5/2011, Mục sư Khải bị CSVN cáo buộc tội “âm mưu lât đổ chế độ” kết án 6 năm tù giam cùng với chị Trần Thị Thúy 8 năm tù, ông Phạm Văn Thông 7 năm tù, Cao Văn Tỉnh 5 năm tù; và các ông Nguyễn Thành Tâm, Nguyễn Chí Thành và bà Phạm Ngọc Hoa mỗi người 2 năm tù. Trong phiên tòa phúc thẩm vào ngày 18/8, CSVN giảm án Mục sư Dương Khải còn 5 năm tù giam. Trong thời gian bị giam giữ, hiền thê của Mục sư Khải là bà Mai Thị Dung đã qua đời vào ngày 23/3/2012 thọ 54 tuổi sau thời gian dài bị bệnh nằm liệt. Nhận xét về việc bị CSVN cáo buộc tội danh “hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân”, Mục sư Dương Kim Khải cho rằng, nếu kết án ông “tham gia hoạt động lật đổ chính quyền cộng sản” thì ông có thể chấp nhận, nhưng quy kết ông về tội “chống lại chính quyền nhân dân” thì ông không chấp nhận, vì ông không chống lại chính quyền (của) nhân dân. Nhận định về những hoạt động của ông trong cương vị của một đảng viên Việt Tân, Mục sư Dương Kim Khải khẳng định rằng, đó là một vinh dự cho ông, vì mục tiêu của đảng Việt Tân là đấu tranh cho chính nghĩa, cho công lý, không có gì là sai trái cả. Là một người hầu việc Chúa, ông phải ủng hộ những hoạt động vì công lý và chính nghĩa; và chính Chúa cũng phán rằng, những kẻ nào làm điều không công bằng là phạm tội. Về việc nhà cầm quyền CSVN gọi Đảng Việt Tân là một “tổ chức khủng bố”, Mục sư Khải cho biết, việc nhà cầm quyền muốn gọi thế nào là quyền của họ. Cách nhìn của thế giới, của nhân loại, cũng như của mọi người và của Chúa Trời mới là quan trọng. Trả lời câu hỏi về những dự định cho những ngày sắp tới và trong tương lai, Mục sư Dương Kim Khải cho biết, từ 30 năm qua Đức Chúa Trời đã dạy ông phải đấu tranh cho công bằng, công lý, cho nhân quyền và tự do dân chủ, là những thứ mà Đức Chúa Trời đã ban tặng cho nhân loại. Là người thi hành sứ mạng của Chúa nên ông sẽ tiếp tục đấu tranh cho các lý tưởng vừa kể. Mục Sư Dương Kim Khải bị bệnh suyễn (hen) nên sức khoẻ không được tốt trong khi bị giam cầm và nay vẫn cần phải có thuốc men để trị bệnh hầu tiếp tục con đường đấu tranh và phụng sự Chúa. Nguồn: Radio Chân Trời Mới
......

Nước Nga nghèo đi nhanh quá

Waclaw Radziwinowicz Đinh Minh Đạo dịch LND: Putin sẽ đưa nước Nga đi về đâu? Đó là câu hỏi đựợc nhiều học giả và các nhà báo, nhà chính trị Nga và thế giới đi tìm câu trả lời. Sáp nhập Krym, ủng hộ phe nổi loạn ở đông Ukraina, gây bất ổn trong khu vực, thách thức, khiêu khích các nước phương Tây, Putin đã đưa nước Nga đến bị thế giới văn minh cô lập.   Với một nước Nga giầu tài nguyên khí đốt, dầu hỏa …,  do các nước phương Tây cấm vận, cộng với giá dầu giảm, trong 144 triệu dân, từ 3,1 triệu người nghèo sống dưới mức tối thiểu , nay đã tăng lên 23 triệu. Để bạn đọc hiểu thêm về nước Nga hiện nay, chúng tôi dịch bài báo của Waclaw Radziwinowicz, phóng viên thường trú nhật báo WYBORCZA của Ba Lan tại Moskova. Bài bào còn là sự cảnh tỉnh đối với những người cộng sản Việt Nam nào, còn đang bị mê hoặc bởi mô hình nhà nước của Putin. ———————————————————– Người dân Nga trở nên nghèo rất nhanh. Olga Golodiec, phó thủ tướng phụ trách các vấn đề xã hội của chính phủ, cách đây không lâu đã loan báo một tin thật ảm đạm: số lượng người nghèo trong đầu năm nay đã tăng từ 3,1 triệu người lên 22,9 triệu, trong số 144 triệu dân của đất nước. Tatiana Minajeva từ Viện Kinh Tế và Hành Chính Quốc Gia trực thuộc tổng thống Nga đánh giá, cứ 6 người dân Nga có một người không chỉ nghèo mà là bần cùng. Tình trạng trên đây chưa từng xẩy ra trong 15 năm gần đây. Trong suốt những năm cầm quyền của Putin, số lượng những người nghèo đã giảm. Năm 2000, khi Putin lên cầm quyền, tỷ lệ người nghèo là 29%, đến năm 2013 đã giảm xuống chỉ còn 11%. Ngay cả thời gian khủng khoảng kinh tế 2008 – 2009 số người nghèo cũng không tăng, chẳng những thế, thu nhập thực tế của người dân còn tăng. Phó thủ tướng Golodiec cảnh báo, rằng „mức nghèo đã đạt đến cái bẫy của khủng khoảng”. Nhưng các nhà chính trị và giới chuyên gia chấn an, rằng tình hình sẽ không gây ra những biến động xã hội, vì „lòng kiên trì nhẫn nại của dân tộc ta là vô hạn”. Tỵ nạn trong trại lính Nhưng thật là một nghịch lý, sự nghèo khổ tăng làm cho một số người vui mừng. Thí dụ như những người lãnh đạo quân đội chẳng hạn. Trong những năm gần đây, mùa tuyển quân mùa xuân, mùa thu đều không tuyển đủ quân số, giờ đây số người nghèo tăng, số người tình nguyện vào quân đội tăng, các tướng lĩnh có thể sẽ không phải lo chỉ tiêu không đạt . Tại ủy ban tuyển quân của thành phố Volgagrad, trong tháng gần đây, có đến 200 ứng cử viên, nhiều gấp 1,5 lần số lượng của cùng tháng này năm ngoái. Những người tình nguyện vào quân đội biết rằng, họ không có hy vọng được cấp nhà, lương không cao nhưng có thu nhập đều đều. Hiện tại quân đội trả lương không tồi. Lính thường , lương tháng 30.000 Rub (khoảng 500 USD), hạ sỹ quan 40.000 Rup (khoảng 600 USD). Các nhà chính trị cho rằng, tình hình hiện nay cho phép các tướng lĩnh quân đội thực hiện ước mơ một quân đội với 1.000.000 quân (hiện nay quân đội Nga có 800.000 quân). Số người nghèo càng tăng, càng nhiều thanh niên đăng ký vào quân đội. Hai tháng một đôi tất Được liệt vào diện có mức sống nghèo ở Nga, đó là những người có thu nhập hàng tháng dưới mức sống tối thiểu cần thiết. Tại Moskova, mức sống tối thiểu là 16.296 Rub (khoảng 300 USD), ở những vùng ngoại ô Moskova là 11.876 Rub (khoảng 200 USD). Khu tự trị Nienie có nhiều gaz và dầu hỏa, nhưng ở vùng biển trắng này, cuộc sống không phai dễ dàng, mức thu nhập tối thiểu là 18.900 Rub (khoảng 315 Rub). Ở Tatarstan, đất màu mỡ, nông dân làm kinh tế tốt, thực phẩm rẻ, chỉ cần 8.083 Rub (khoảng 140 USD) là đủ sống tối thiểu. Mức sống tối thiểu được tính toán cụ thể sau mỗi quý trên cơ sở giá cả tại thời điểm tính để duy trì đời sống hàng ngày. Gía cả đã tăng sau khi các nước phương Tây áp đặt cấm vận, sau sự kiện Nga sáp nhập Krym và giúp các phần tử nổi dậy ở phía đông chống lại Ukraina. Gía cả còn tăng khi Nga trả đũa đóng cửa biên giới đối với các sản phẩm giá hạ của các nước phương Tây xuất khẩu vào Nga. Hậu quả của các sự kiện nói trên là giá cả tăng và làm cho chi phí để đảm bảo mức sống tối thiểu tăng thêm khoảng 20%. Nhưng từ thời gian bắt đầu cuộc khủng khoảng Ukraina, lương của người lao động không được tăng, kết quả là trong năm nay, 3,1 triệu người Nga bị đẩy xuống dưới mức sống tối thiểu. Mức sống tối thiểu được quy định đối với những người đang lao động, hàng ngày mua được 300 gam bánh mì hay mì sợi, 250 gam khoai tây, 2/3 quả trưng, 150 gam thịt. Cứ 2 năm rưỡi được mua quần áo một lần, hai tháng được mua một đôi tất. Người lao động còn phải nuôi gia đình Mức sống tối thiểu tính riêng cho từng đối tượng như người lao động, trẻ em, người về hưu. Trên lý thuyết, người về hưu được đảm bảo sống trên mức sống tối thiểu, nhưng hiện nay 2/3 số người về hưu đang phải sống dưới mức sống tối thiểu, họ đã phải đi làm thêm để nuôi mình và giúp đỡ gia đình. Trong vùng Rostow, nếu một gia đình hai vợ chồng có hai con, lương tháng trung bình của hai vợ chồng cộng lại là 43.000 Rub, thu nhập bình quân theo đầu người cộng lại chỉ cao hơn mức sống tối thiểu của các gia đình 4.000 Rub (khoảng 70 USD). Mức thu nhập này là mơ ước của nhiều gia đình ở các tỉnh, trong các thành phố nhỏ, mức thu nhập bình quân theo đầu người trong gia đình là 15.000 Rub, với mức thu nhập này, hai vợ chồng cùng làm việc, có 2 con, mức thu nhập này chỉ bằng 2/3 mức thu nhập để có mức sống tối thiểu. Ngay bộ tài chính cũng thừa nhận rằng, trong thực tế, những người không nghèo thực sự phải là những người có thu nhập không ít hơn 2,5 lần mức thu nhập tối thiểu. Người giầu cũng có khó khăn Báo chí của Moskova thường thích nhắc đến đề tài, rằng khủng khoảng không gây khó khăn cho tất cả mọi người, người giầu vẫn tiếp tục giầu. Năm ngoái là năm rất khó khăn cho những người có thu nhập trên 1 tỷ Rub, 309 người tức là nhiều hơn năm trước đó 17 người đã tuyên bố gặp khó khăn trong lợi tức. Có niềm an ủi về danh nghĩa, những người giầu làm ăn bằng đồng Rub, nhưng đồng Đô la trong năm ngoái đã tăng giá 75%, vậy sẽ có nhiều người Nga là tỷ phú Rub. Trong tuần qua, tuần báo của chính phủ „Rosiskaia Gazieta” đã viết „người giầu cũng khóc”. Trong cuộc khủng khoảng, tầng lớp trung lưu đã giảm nhanh chóng, đây là tầng lớp có khả năng mua những căn hộ sang trọng, những loại ô tô đắt tiền, những kỳ nghỉ phép ở nước ngoài bằng cách vay trả góp các ngân hàng. Trước khi các nước phương Tây cấm vận, giá dầu hỏa đã giảm một nửa, có tới 18% công dân Nga làm việc trong ngành công nghiệp dầu hỏa, hiện nay chỉ còn 13%. Không ai muốn hát chỉ vì lòng yêu nước Scandal lớn nhất xẩy ra trong tuần qua là của Wladimir Kisielov, một trong những nhân vật tinh quái nhất của nước Nga đương đại. Chuyện đã qua mọi người còn nhớ, tháng 12 năm 2010 W. Kisielov đã đứng ra tổ chức buổi hòa nhạc từ thiện tại Sankt Petersburg. Trong chương trình hòa nhạc, Putin đươc giới thiệu đã viết phối âm cho đàn piano và hát bài „Blueberry Hill”. Putin đã biểu diễn cùng các nhân vật nổi tiếng như Monika Belucci, Sharon Stone và Michael Ó Rourkl. Sau sự việc được đưa ra ánh sáng, số tiền thu được của buổi hòa nhạc đã không được chuyển để giúp đỡ các trẻ em bị bệnh như đã công bố. Sự kiện trên đã không làm cho nhà „quản trị văn hóa dân tộc” thất sủng, W. Kisielov đã gửi đến tổng thống đề nghị thông qua một dự án quốc hữu hóa kênh truyền hình tin tức và âm nhạc của Holding Russkaia Media Grupa và bổ nhiệm mình làm giám đốc. W. Kisielov hứa, bằng tiền nhà nước sẽ cải tạo công ty này thành một công ty với „chủ nghĩa yêu nước nồng nàn”, theo nền tảng tư tưởng đạo đức, luật pháp của nước Nga, sẽ sáng tác các lời ca, bản nhạc về Krym, về Donbas … Ý đồ này của W. Kisielov đã nhanh chóng gây nên làn sóng phản đối mạnh mẽ trong dư luận, đặc biệt trong giới văn nghệ sỹ. Ca sỹ kỳ cựu Filip Kirkorov, ngay cả ca sỹ nhạc Rock Nikolai Rastorguiev của nhóm Lube, nhóm được Putin yêu thích đã yêu cầu tổng thống không trao cho Kisielov những đài phát thanh nổi tiếng. Họ khẳng định rằng, không cần phải bơm thêm sự ”Yêu nước nồng nàn” nào vì họ đã và đang hát những bài hát kích thích lòng yêu nước của nhân dân. Còn những bài hát về Krym hay Donbas chỉ đưa đến những rủi ro, khiến phương Tây cấm vận nước Nga. Những nghệ sỹ thẳng thắn và trung thực phản ứng mạnh mẽ như vậy vì họ lo ngại trước cái nghèo khó đang kéo đến. Chính quyền đang cố gắng tiết giảm chi tiêu trong mọi lĩnh vực trừ quốc phòng. Qũy đầu tư cho các tác phẩm của văn nghệ sỹ bị cắt giảm, chi phí để đào tạo các tài năng trẻ vốn đã ít ỏi có thể cũng bị cấu xé. Khi đó giá các buổi biểu diễn như của Filip Kirkorov chẳng hạn, sẽ không còn là 100 nghìn Euro, các nghệ sỹ không muốn giảm thiểu các buổi biểu diễn. Ăn cắp ngày một nhiều Sự nghèo khó đã làm cho buôn bán rất khó khăn. Từ đầu năm đến nay, doanh thu của hệ thống bán lẻ giảm 1/6, lượng khách hàng giảm mạnh, họ chỉ chọn mua các hàng hóa giá rẻ. Các vụ ăn cắp hàng hóa trong các cửa hàng xẩy ra thường xuyên hơn. Năm ngoái, khởi đầu cuộc khủng khoảng, người Nga đã ăn cắp của các công ty bán hàng một lượng hàng hóa trị giá một tỷ Rub, nhiều hơn năm trước 50%. Nhưng đây chỉ là đỉnh của núi băng chìm. Theo Dimitri Potapienki, giám đốc công ty buôn bán Management Development Gruop, lượng hàng bị mất cắp gấp nhiều lần số lượng công bố. Các chủ cửa hàng không muốn thông báo đến công an các trường hợp ăn cắp lẻ, vì họ cho rằng công an chẳng giúp được gì. Trường hợp mới xẩy ra gần đây càng làm cho các chủ cửa hàng ngại khai báo. Trong cửa hàng Magnit ở Sankt Petersburg, bảo vệ của cửa hàng bắt được một bà già ăn cắp mấy gói bơ, họ đã báo công an. Trong lúc chờ công an đến giải quyết, bà già đã chết do nhồi máu cơ tim. Sau đó người ta biết được, bà già này, thời niên thiếu đã sống sót sau cơn ác mộng khi Leningrad bị quân Đức phong tỏa trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong con mắt của dân tộc, những người đã chịu đựng cuộc phong tỏa này là những anh hùng của cuộc chiến tranh ái quốc, các thẩm phán đã kết tội các nhân viên cửa hàng đã dùng bạo lực với người „cựu chiến binh”, báo chí lên án hành động thiếu tình người của những người bán hàng đối với các khách hàng nghèo. Sau trường hợp này, cũng chẳng có gì lạ nếu các người bảo vệ chỉ đứng nhìn những người già ăn cắp và làm lơ. Người chết nhiều hơn Doanh thu của các hiệu thuốc chữa bệnh giảm mạnh. Theo thống kê của cục thống kê nhà nước, giá thuốc qua một năm đã tăng 24%. Bộ y tế thì nói rằng không có mức tăng giá thuốc cao như vậy, nhưng những nhân viên của các cửa hàng thuốc thì khẳng định con số 24%. Công ty Synovate Comcon chuyên theo dõi thị trường thuốc chữa bệnh, tiến hành thăm dò những người kinh doanh thuốc trong 28 thành phố lớn nhất của Nga, họ nói, hầu hết khách hàng của họ đèu yêu cầu thay các loại thuốc đắt tiền bằng các loại thuốc rẻ tiền hơn, khoảng 1/4 khách hàng từ bỏ không không mua thuốc do không có tiền. Trong tháng 5 vừa qua, cơ quan thống kê đã thông báo, từ đầu tháng 01 đến hết tháng 03, số người chết tăng 5,3% so với quý 01 năm ngoái. Wladimir Putin đã chỉ định một hội đồng đặc biệt để xem xét, nhưng bộ trưởng bộ y tế Weronika Skvorcova đã đảm bảo rằng, có sự nhầm lẫn trong thống kê, không có lý do để lo ngại. Đảng Cộng Sản Nga cũng tiến hành điều tra riêng, cách đây ba tuần, Valeri Raskin phó chủ tịch đảng đã công bố trước các nhà báo, trong năm nay, tại Moskova số người chết tăng 9,6%. Ông giải thích rằng, không chỉ ở Moskova, mà trong toàn quốc, đóng cửa các bệnh viện, các bác sỹ mất việc làm. Moskowa có 10.000 giường bệnh, 9.000 bác sỹ, y tá, hộ lý được thông báo sẽ bị cho thôi việc. Trong năm nay, ngân sách dành cho y tế bị cắt giảm 17%. Thuốc chữa bệnh lên giá, kiếm tiền khó khăn, người dân không đủ tiền cho cuộc sống hàng ngày. Mối lo ngại, trồng vườn phát triển Những quan chức của điện Krem có lý khi nói rằng:”nguồn dự trữ của lòng kiên nhẫn của dân tộc chúng ta là vô hạn”. Bởi vì cuộc khủng khoảng đã tác dụng tiêu cực, nhưng làm nẩy sinh ra ý tưởng hay. Kết quả điều tra cho thấy 4/5 công dân Nga đã phải hạn chế chi tiêu, nhưng số người tin tưởng vào tổng thống lại tăng lên. Chính quyền muốn được thừa nhận, rằng mình luôn đồng hành với dân tộc. Những quan chức cao cấp nhất của chính quyền đã tự nguyện cắt giảm 10% lương tháng và nghỉ phép ngắn hơn. Chính quyền cũng nhanh chóng nâng tuổi về hưu của những người làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước lên 65, như vậy phụ nữ sẽ phải làm việc dài hơn 15 năm, đàn ông 5 năm so với những người làm việc trong các nghành nghề khác. Những việc làm trên đây có thể chỉ mang tính biểu tượng, nhưng được nhân dân đánh giá cao – Chúng tôi vẫn nhớ những năm 90, khi mà mức sống lúc đó chỉ bằng 1/2 mức sống của năm 2014, thu nhập của người dân giảm mạnh. Bây giờ mức sống giảm 10% không phải là con số đáng lo ngại. Ngoài ra, người dân Nga có kinh nghiệm để xoay xở mà chúng tôi thường gọi là „tự cứu”, nó đã giúp đỡ rất nhiều để họ vượt qua những thời điểm khó khăn – Gontmacher, chuyên gia kinh tế của của Uỷ Ban Sáng Kiến Công Dân nói. Kỹ thuật „tự cứu” được thấy rõ nhất ở các vạt đất trong các thửa vườn cạnh các căn nhà. Mùa xuân này, chủ nhân các nhà nghỉ hè ở ngoại thành Moskowa rất ít mua các loại cây cảnh như các giống cây, hoa, cỏ, chỉ bằng 1/5 của các mùa xuân trước đây, thay vào đó, họ trồng các loại rau và cây cho hạt tăng gấp đôi. Theo quỹ Ý Kiến Cộng Đồng, 2/3 người dân Nga đã sử dụng mảnh vườn để giúp họ sống qua lúc khó khăn, hoặc đơn giản là nguồn cung cấp các thực phẩm cơ bản cho gia đình. Người dân sẽ không cam chịu, sự thay đổi đến gần Cách đây một năm, Gontmacher công bố đề tài nghiên cứu, trong đó cố gắng tìm câu trả lời: có bao nhiêu người dân Nga chưẩn bị đứng lên phản kháng chính quyền về đời sống khó khăn mà họ đang phải chịu đựng. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, tính kiên trì và cam chịu của những người đồng hương của mình là vô hạn. Nhưng Tatiana Minajeva cán bộ viện Kinh Tế và Hành Chính Quốc Gia trực thuộc tổng thống Nga cảnh báo rằng, kết luận này có thể là một nhầm lẫn:”Tôi nghĩ rằng, trong tháng 09 khi mà mùa hè nắng đẹp kết thúc trong các mảnh vườn, những người dân trở về từ các nơi nghỉ hè và dẫn con cái đến trường, họ cần một số tiền khá lớn để chi phí, đối với nhiều gia đình, số tiền này còn lớn hơn cả số tháng lương trung bình, lúc này họ mới thực sự cảm thấy họ đã trở thành nghèo đi đáng kể. Tôi sợ rằng, đến mùa thu, một xã hội yên bình sẽ không kéo dài nữa”. Người ta sợ rằng, không chỉ khối quần chúng gồm những người nghèo nhất, không có đủ tiền để mua vở học cho con, quen sống cam chịu sẽ thức. tỉnh, mà ngay cả những người giầu bị ảnh hưởng của khủng khoảng cũng thức tỉnh. Ít nhất 7 triệu người Nga trong tầng lớp trung lưu đã rơi xuống nghèo do tác động của khủng khoảng, tầng lớp trung lưu là những người được đào tạo tốt, có nhiều tham vọng ở các thành phố lớn. Tầng lớp trung lưu đã tham gia các cuộc biểu tình chống Putin vào mùa đông cách đây 3 năm, sau đó họ đã đưa ra khẩu hiệu „Krym là của chúng ta” và ủng hộ chính quyền. Nhưng giờ đây theo thăm dò dư luận, sự ủng hộ này đã chấm dứt…. Warszawa 08-08-2015 Theo danchimviet.info
......

Thần kinh khốn nạn.

Đó là hệ thống thần kinh mới, vừa được Giáo sư Ngô Bảo Châu, một nhà khoa học của Việt Nam tìm ra sau khi ông Vũ Đức Đam, trên cương vị Phó thủ tướng ký thế cho Thủ tướng chính phủ quyết định chấp thuận cho UBND thành phố Sơn La kinh phí 1.400 tỷ để xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh trong thành phố. GS Ngô Bảo Châu viết trên Facebook của ông: "Trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang, mà bỏ ra 1400 tỷ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh". Rõ ràng là GS Châu chơi chữ. Không thể nào một ông Phó Thủ tướng lại mắc bệnh thần kinh, có nghĩa là tâm thần không bình thường, ký những quyết định đi ngược lại với nhân văn, với đạo lý dân tộc. Ông chỉ có thể "khốn nạn" trong ý thức. Ông không xem trẻ em lê lết trong các mái trường không thua chuồng trại súc vật đầy dẫy tại các tỉnh biên giới mà Sơn La là một điển hình của sự nghèo túng cùng cực. Ông không hề nghĩ tới hàng chục ngàn hộ thiếu ăn quanh năm và đối với họ chỉ cần đủ ăn đã là hạnh phúc. Đối với họ Hồ Chí Minh chỉ là một cục đá được dẽo gọt chỉ để đứng nhìn sự thống khổ, kiệt quệ của họ, những người quanh năm không biết tới một mẩu thịt là gì. Họ túng đói và lê lết như những con thú hoang trong khi chính phủ của ông Vũ Đức Đam đang phải đối phó với nợ công, phải ăn xin tứ phương từ Mỹ với miếng bánh TPP, từ Trung Quốc với những khoản vay thắt cổ, từ Nhật với ODA dễ nuốt và ngay cả từ Việt kiều hải ngoại với câu chữ không biết hổ thẹn là gì, lại bỏ ra 1.400 tỷ xây một hình tượng đang mục nát trong trái tim quần chúng. Với những sự thật không thể chối cãi ấy câu hỏi đặt ra tại sao chính phủ lại tiếp tục ký những quyết định trái với lòng dân, trái với lương tri của con người mà bất cứ một chính phủ, một nhà độc tài nào cũng đều tránh né? Chỉ có thể xem đó là những thái độ khốn nạn. Sự khốn nạn lâu ngày thành nếp nghĩ, thành cách hành xử quen thuộc. Việc coi thường luân thường đạo lý trong huyết quản đã tạo nên một loại gene mới trong cơ chế cộng sản. Loại gene ấy biến thành hệ thần kinh chủ đạo, từ tư duy cho tới phản ứng, nó nằm song song với các hệ thần kinh khác như buồn, vui, giận, ghét. . . hệ thần kinh khốn nạn chỉ khác ở chỗ, nó tự đứng riêng và tự đánh bóng hay tôn tạo chính mình. Nó phản ứng với hệ thần kinh bình thường một cách bất bình thường. Khi nhân dân đói nó cho là nhân dân đủ ăn và GDP của họ ngày một cao hơn. Khi trẻ em thiếu trường, thiếu lớp nó cho đấy chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong tổng thể phát triển của đất nước. Khi người dân phản ứng vì bị đẩy vào đường cùng nó cho là sự xúi giục của bọn phản động và phản ứng của nó không kém bất cứ cách hành xử côn đồ nào. Thần kinh khốn nạn tự nghĩ ra những kịch bản chỉ có trong giấc mơ của những kẻ sở hữu nó. Nhân dân vẫn yêu thương Hồ chủ tịch và họ có như cầu nhìn tượng của ông thay cơm. Nhân dân hãnh diện khẳng định ông là ánh sáng dẫn họ trên con đường....vạn dặm! Nhân dân sáng suốt tin rằng ông là ngôi sao không hể tắt và có ông thì người dân sẽ thấy đời đáng sống biết dường nào. Một trong những người sở hữu thần kinh khốn nạn, Trần Bảo Quyến, Phó Giám đốc Sở VH-TT-DL tỉnh Sơn La cả quyết rằng: "sau khi xây dựng tượng đài, Sơn La sẽ có cơ hội quảng bá về du lịch. Đây sẽ là điểm đến thú vị cho người dân đến tham quan và tìm hiểu về lịch sử Tây Bắc nói chung và Sơn La nói riêng. Hiện, Sở cũng đang nâng cấp nhà tù Sơn La và một số địa danh văn hóa khác”. Nếu chú ý người dân sẽ lo sợ vô cùng khi tượng đài được xây dựng song song với việc nâng cấp nhà tù. Tham quan hay vào đó nằm nếu chống đối đề án thì có gì khác nhau? Trần Bảo Quyến cho rằng: "Đã là tình cảm của nhân dân Tây Bắc không thể cân đong đo đếm được. Do đó, cá nhân nào nói lãng phí là chưa đúng". Đúng, nó không hề là một đề án lãng phí. Nó không lãng phí mà là phá hoại. Phá hoại tới tận đáy cái nền của nhân bản. Tiêu diệt những gì ít ỏi còn lại trong lòng người dân đối với hình ảnh Hồ Chí Minh. Người miền núi vốn không được học hành tử tế họ chỉ biết ông Hồ là người cha già dân tộc theo tuyên truyền của bộ máy Đảng. Sau gần một thế kỷ người cha ấy chia cho đám con ruột là quan lại triều đình xây dựng những công trình để tư túi trên các đề án khốn nạn. Chỉ cần thông minh một chút là họ biết mình bị bóc lột, bị chà đạp tới xương khi con cái họ quần không có mà mặc, gia đình họ không có gạo đủ ăn phải lê lết trên những con ruộng bậc thang, đẹp thì có đẹp nhưng leo trèo trên ấy để kiếm từng hạt lúa thì người Kinh đã bỏ chạy từ xưa. Chỉ tiếc một điều đồng bào miền Tây Bắc không mấy người có hệ thần kinh khốn nạn như quan đầu tỉnh Trần Bảo Quyến và do đó họ không thể tự bào chữa cho mình lý do họ quá yêu bác Hồ nên nhà nước cần phải dựng tượng của ông cho họ ngắm thay cơm. Con cá gỗ còn tạm dùng để đánh lừa mình chứ tượng ông Hồ to quá mà lại làm bằng đá thì làm sao đem vào mâm cơm của họ để mà chấm, mà mút cho chén bắp trong bữa ăn thường nhật đậm đà hơn một chút? Theo canhco's blog
......

Thủ thuật vạn thắng: Tạm ngưng để tiếp tục

Nhiều người khen Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có nụ cười bí hiểm. Nhưng cũng nhiều người khác giải thích chẳng có gì là bí hiểm cả. Ông Dũng đang cười nhiều vì có nhiều điều đáng cười. Gió đang thổi mạnh theo hướng thuận lợi cho ông trên con đường tiến đến Đại Hội Đảng XII. Thuận lợi đến độ cả những vụ tai tiếng như tượng đài 1400 tỉ tại Sơn La cũng là dịp để ông kiếm thêm điểm uy tín cho mình. Chắc chắn ông Dũng đang mỉm cười tự tin và đắc chí. Không đắc chí sao được khi chỉ dùng MỘT ngón nghề trong kho thôi đã đủ để ông thành công liên tục, suốt từ vụ khai thác Bôxít Tây Nguyên, đến vụ cướp đất của gia đình Đoàn Văn Vương tại Tiên Lãng, hay vụ xây tượng đài tại Quảng Nam, ... dài đến những vụ chặt cây xanh Hà Nội, lấn đất sông Đồng Nai, và nay, vụ tượng đài tại Sơn La. Tất cả các dự án đó đều tiếp tục. Không dự án nào dừng lại. Và vì thế số chân tay dưới trướng của ông vẫn được ăn uống phủ phê, vẫn ngày càng đông và "hết lòng vì chủ". Có thể nói ông Nguyễn Tấn Dũng đang có trong tay một thủ thuật vạn thắng. Đó là Tạm ngưng để tiếp tục. Sự thành công của thủ thuật này dựa trên những nền tảng sau đây: - Ông Dũng nắm vững các qui luật tâm lý quần chúng. Đó là cơn giận của công chúng tuy phùng lên rất cao nhưng cũng rất chóng tàn. Và khi quần chúng giận càng cao thì các lệnh tạm ngưng của ông Dũng càng làm cho người dân hể hả, càng dễ nguôi giận, và nhất là càng "khoái" thủ tướng. Còn ai nhớ mức "khoái" của dân cao tới cỡ nào không khi ông Dũng đích thân về Hải Phòng chủ trì cuộc họp kiểm điểm vụ Tiên Lãng? - Một khi lửa giận của dân về một vụ việc đã nguội xuống thì sẽ rất khó bùng lên lại, đặc biệt là khi sự chú tâm của quần chúng đã chuyển sang những vụ bất bình mới và "chán chuyện cũ". - Sau đó giới quan chức chỉ cần làm các bước: (1) Răn đe những người dân đi đầu trong đợt lên tiếng vừa qua để bịt miệng họ lại; (2) Coi lại việc chia lời cho đồng đều hơn để đừng có chuyện cán bộ bên trong xì tin ra ngoài nữa; và (3) Tiến hành dự án trở lại một cách kín đáo, êm thắm hơn. Thế là mọi chuyện đâu lại hoàn đấy. Các quan vẫn tiền đầy túi. Chi phí, lỗ lã, thiệt hại môi sinh cứ ném vào quĩ công, đất công là xong. Trong lúc lòng biết ơn thủ tướng lại dâng tràn - không chỉ từ hàng ngũ quan chức mà cả từ quần chúng. Thế là lãnh đạo mỉm cười: "Đàn cừu đã qua đồng cỏ khác". Rõ ràng đã đến lúc những người muốn tạo đổi thay tích cực và cơ bản cho đất nước phải thay đổi một vài định nghĩa, phải nhận chân một số hiện tượng thực tế. Đó là: - Mỗi tuyên bố "cần điều tra làm rõ" hay "yêu cầu địa phương báo cáo" đều chỉ là những cái mỉm cười khinh thường của lãnh đạo đối với "đàn cừu". Lý do đơn giản là vì các dự án ở mức trăm tỉ, ngàn tỉ đồng đều KHÔNG THỂ KHÔNG CÓ sự xin phép và chia phần với trung ương. Không một quan chức địa phương nào muốn giữ ghế lâu dài lại dám băng qua khâu đó. Văn phòng chính phủ không những biết rất rõ các chi tiết từng dự án mà còn biết trước mức đội trần sẽ là bao nhiêu, biết những ai xứng đáng được chia phần, và chia bao nhiêu phần trăm. - Vì vậy, mỗi lệnh "tạm ngưng" đều chỉ là cái nháy mắt trấn an của trung ương gởi tới địa phương, với thông điệp: chờ chút rồi ai cũng có phần! Do đó, ngày nào chúng ta còn hài lòng với các lệnh "tạm ngưng" ngày đó chúng ta còn rớt trở lại cái bẫy vừa đơn giản vừa tinh vi của thủ tướng. Từ thực tế đó, đối với những ai muốn đổi thay thực sự, lằn ranh tối thiểu hiện nay trước mỗi vụ việc hại dân hại nước tới mức như vụ xây tượng đài Sơn La phải là những đòi hỏi cách chức hay thuyên chuyển các quan chức trách nhiệm trực tiếp và đòi phải tuyên bố công khai hủy bỏ dự án. Ai nghĩ rằng lằn ranh đó quá cao, quá khó thì xin cứ nhìn lại khối sức mạnh từ quần chúng chỉ trong vài ngày vừa qua. Và chính tiềm năng còn cao hơn nữa của ngọn lửa này đã khiến nhà cầm quyền phải đối phó lập tức. Người dân, một khi đồng lòng và đồng loạt, có sức mạnh còn lớn hơn thế nhiều trong tay nhưng chỉ chưa biết đến nó và chưa dùng nó mà thôi. Công việc còn lại của các nhà hoạt động là làm sao để quần chúng không mệt mỏi, bị đánh lạc hướng hay rơi vào các bẫy thủ thuật của những kẻ đang mỉm cười bí hiểm. Vũ Thạch Nguồn: http://vnctcmd.blogspot.com/
......

Tâm sự hai người Công giáo vừa ra tù

Hai trong số 14 bị cáo trong nhóm thanh niên Công giáo và Tin Lành ở vụ xử “âm mưu lật đổ chính quyền” hồi 2013 tại Việt Nam vừa được trả tự do sau bốn năm tù. “Trở về sau bốn năm tù, tôi không thấy tiếc điều gì. Tôi tự hào về bốn năm tù đó,” ông Gioan Nguyễn Văn Oai nói với BBC Tiếng Việt. Ông Paulus Lê Sơn thì nói thời gian ở tù là lúc ông “cảm nhận được sâu sắc hơn nhiều” về những “khó khăn đau khổ nhất của con người, cả về tâm hồn lẫn thể xác”. Ông Nguyễn Văn Oai bị bắt cùng hai người khác hồi cuối 7/2011 khi tất cả cùng vừa từ Thái Lan trở về sân bay Tân Sơn Nhất. Ông Lê Sơn bị bắt sau đó ít hôm, 8/2011. Phán quyết sơ thẩm ra án tù 13 năm cho ông Lê Sơn, là một trong những mức án nặng nhất, và án tù 4 năm cho ông Nguyễn Văn Oai. Tại phiên phúc thẩm tháng 5/2013, ông Lê Sơn được giảm án vì "đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội". ’Tôi là người của đảng Việt Tân’ Ông Oai đã không đệ đơn kháng án, bởi: “Tôi nghĩ những vụ án như vụ của chúng tôi thì dù là huyện, tỉnh hay trung ương xử thì đều là một, bản án đã ở trong túi rồi. Tôi để họ thích đưa tôi đi đâu thì đi.” Ông Nguyễn Văn Oai nói ông "tự hào về bốn năm ngồi tù" Nhắc tới cáo buộc nêu trong phiên xử hồi 2013 theo đó xác định các bị cáo là thành viên của Việt Tân, một đảng phái chính trị của người Việt hải ngoại, ông Oai nói: “14 người ra đứng trước phiên tòa cùng nhau, theo tôi biết thì mỗi người đều đấu tranh cho dân chủ nhưng họ có phải là người của Việt Tân hay không thì tôi không biết.” “Riêng bản thân tôi là người của đảng Việt Tân. Tôi công nhận tôi là đảng Việt Tân. Đảng Việt Tân của chúng tôi rất mong được xây dựng một đất nước Việt Nam dân chủ.” Ông Oai cho biết trong số những người cùng bị đưa ra xét xử, ông với một số người là “anh em quen biết, bạn học, đồng nghiệp... ở gần nhau và thường xuyên liên lạc, làm việc với nhau”, còn một số người khác thì ông “không quen biết”. Tuy vậy, ông nói vụ án “âm mưu lật đổ chính quyền” đã khiến ông “cùng muốn chia sẻ, gánh vác” với những người chưa quen biết đó về “những kết quả, trách nhiệm mà người ta đã buộc vào cho chúng tôi”. “Mặc dù không biết nhau nhưng đã [trong hoàn cảnh] như thế rồi thì anh em đồng lòng để vượt qua khó khăn.” “Tôi nghĩ là tất cả những người bị đưa ra trong phiên tòa đó đều mong cho đất nước Việt Nam có một nền dân chủ thật sự trong tương lai.” ‘Không chấp nhận quản chế’ Ông Nguyễn Văn Oai nói ông “đã không chịu nhận bất kỳ tội gì”, và không chấp nhận ký bất kỳ loại văn bản, giấy tờ nào, kể cả giấy cho ông được tự do. “Khi ra tù, họ yêu cầu tôi ký giấy xuất trại, tức giấy chứng nhận ra tù. Tôi trả lời là ‘các ông bắt tôi thế nào thì thả tôi ra như thế, nếu muốn giữ lại thì tôi sẵn sàng ở lại chứ tôi không ký gì hết’. Họ đã gây khó dễ từ chiều ngày 1 tới sáng ngày 2/8. Sau đó tới hơn 11 giờ trưa họ mới cho về.” Theo bản án, cả ông Nguyễn Văn Oai và ông Lê Sơn đều phải chịu bốn năm quản chế sau khi mãn hạn tù. Cả hai người đều khẳng định họ không quan tâm tới lệnh quản chế. “Trước khi tôi được về khoảng một tháng, bên an ninh đòi tôi viết cam kết là khi trở về phải chịu quản chế. Tôi trả lời là tôi chẳng cam kết gì cả. Trước khi tôi về, họ nói ‘anh về phải chịu sự kiểm duyệt của công an, đi đâu thì phải xin phép’. Nhưng bản thân tôi không quan tâm tới điều đó,” ông Oai nói. “Nếu có việc phải đi ra khỏi địa phương, tôi sẽ vẫn cứ đi như một người bình thường. Họ chặn lại hay xử lý thế nào là việc của họ.” Ông Lê Sơn cũng có cùng quan điểm. Ông nói: “Thực hiện quản chế là quyền của họ, còn tôi sẽ thực hiện tất cả các quyền mà một con người được có theo lẽ tự nhiên. Đó là quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc.”‘Không thay đổi’ Về kế hoạch cho tương lai, ông Nguyễn Văn Oai nói ông chưa có dự kiến gì, nhưng “trái tim tôi hướng về nền dân chủ cho Việt Nam”. “Tôi sẽ góp sức cùng các tổ chức quan tâm tới vấn đề nhân quyền Việt Nam để làm sao cho Việt Nam sớm có nền dân chủ thực sự,” ông Oai nói. Nhìn lại việc được giảm án trong phiên tòa phúc thẩm, ông Lê Sơn "hy vọng là dư luận sẽ hiểu được điều này... Tôi không khai báo, công nhận gì cả, bởi những việc làm của tôi không phải là tội lỗi, không trái luân thường đạo lý... tôi chỉ muốn góp phần xây dựng đất nước." Ông Lê Sơn nói trước ngày xử phúc thẩm ba hôm, Bộ Công an cử người tới gặp ông và khuyên nên viết, ký nhận một số chuyện để được nhẹ tội, giảm án. Đó cũng là lúc ông được biết tin mẹ đã qua đời từ trước đó hơn một năm. "Lòng tôi đau đớn, tâm trí tôi bị hoảng loạn... Và rồi tôi làm theo ý họ. Đó là những giây phút tôi ngã lòng," ông nói. "Sau đó, tĩnh tâm lại, tôi nghĩ rằng cuộc sống là một cuộc trải nghiệm mà chúng ta phải bước đi dù có đau khổ tới mức nào," ông nói với BBC. “Trước khi bị bắt, cách nhìn nhận của tôi là theo đức tin, tôi phải sống theo lẽ công chính, công bình bác ái và yêu thương. Tôi phải lên tiếng cho công bình, lẽ phải, cho sự tự do mà Thượng Đế ban tặng cho con người. Sau bốn năm bị giam cầm, tôi trưởng thành lên nhiều lắm. Tôi hiểu những điều đó sâu sắc hơn rất nhiều.” “Trước khi bị bắt, tôi có gặp bà Lê Thị Công Nhân. Bà ấy nói với tôi, ‘Những sự đau khổ nhất, ghê gớm nhất, những gì con người không tưởng tượng được trong tù thì chị đã gặp.’ Nhưng khi ở trong tù, tôi lại thấy những điều bà Lê Thị Công Nhân chia sẻ với tôi vẫn là chưa đủ. Những điều khó khăn đau khổ mà tôi cảm nhận được còn sâu sắc hơn nhiều.” Được biết trong tháng Tám này, sẽ có hai người nữa trong cùng vụ án được trả tự do, gồm các ông Thái Văn Dung và ông Trần Minh Nhật. Một người nữa, ông Nguyễn Đình Cương, sẽ mãn hạn tù vào tháng Mười Hai. Ba người này cùng bị mức án bốn năm tù ở phiên sơ thẩm, và y án trong phiên phúc thẩm. Nguồn: BBC
......

Thông tin về sức khoẻ lãnh đạo: Bí mật hay công khai?

Mới đây, sau cuộc họp thường kỳ tháng 7 tại trụ sở chính phủ hôm 31/7, ông Nguyễn Bắc Son, bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đã nói với phóng viên Vietnamnet rằng: không có “vùng cấm” nào đối với thông tin về sức khoẻ của lãnh đạo, sau khi xảy ra vụ úp úp mở các thông tin liên quan đến sự sống chết của Tướng Phùng Quang Thanh. Hình Nguyễn Bắc Son, bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Ông Nguyễn Bắc Son nói rằng lãnh đạo đảng và nhà nước là người của công chúng, do đó khi người dân quan tâm đến sức khoẻ của lãnh đạo, các cơ quan của đảng và nhà nước đều phải có bổn phận cung cấp thông tin kịp thời. Ông Son còn nói rằng uy tín, sức khoẻ và hình ảnh của lãnh đạo là tài sản quốc gia nên việc các cơ quan phải chủ động thông báo khi dư luận quan tâm là điều phải làm cấp thời…. không để thế lực thù địch lợi dụng. Khi phóng viên Vietnamnet nhắc đến vụ đưa tin quanh sức khoẻ của Tướng Phùng Quang Thanh vừa qua, Nguyễn Bắc Son đã cao giọng nói rằng “các cơ quan đã cung cấp thông tin khá đầy đủ” và nhất là cuộc họp báo của đại diện chính phủ đã đáp ứng đúng yêu cầu, chỉ có “những thế lực xấu” lợi dụng mạng xã hội loan tin tiêu cực mà thôi. Nếu thật sự đảng và nhà nước CSVN đáp ứng các thông tin đầy đủ liên quan đến sự quan tâm của dư luận về tình hình sức khoẻ của Tướng Phùng Quang Thanh như ông Nguyễn Bắc Son nói ở trên có lẽ tình hình đã khác. Đàng này, CSVN cho thấy là họ hoàn toàn bị động và các phản ứng đều đi sau thời cuộc liên quan đến sức khoẻ và hành tung của Tướng Thanh. 1- Sau khi các tin tức loan tải tướng Thanh bị ám sát tại Paris, một tuần sau Ban bảo vệ sức khỏe trung ương mới lên tiếng xác nhận là tướng Thanh đang đi Pháp chữa bệnh, nhưng không có bất cứ hình ảnh hay âm thanh chứng minh. 2- Khi hãng thông tấn DPA loan tin Tướng Thanh qua đời sau cuộc giải phẫu, ngày hôm sau (20/7) lãnh đạo Bộ quốc phòng mới lên tiếng phủ nhận nhưng cũng không đưa ra hình ảnh hay âm thanh cho thấy Tướng Thanh còn sống. 3- Khi thấy dư luận vẫn còn lùng bùng về sự sống chết của Tướng Thanh, lãnh đạo Bộ quốc phòng mới công bố ngày trở về từ Pháp của Tướng Thanh là 25/7 trên chuyến bay của VN Airlines, nhưng lại không có bất cứ hình ảnh nào cho thấy Tướng Thanh trở về trong chuyến bay này. 4- Tướng Thanh được cho xuất hiện trong chương trình giao lưu văn nghệ “khát vọng đoàn tụ” đêm 28/7; nhưng những ngày sau đó Tướng Thanh không còn xuất hiện trong các cuộc họp của chính phủ, thường trực quốc hội mà phía đảng và quân đội không có một lời giải thích. Qua những cách đối phó vô cùng lúng túng về tin tức liên quan đến sức khoẻ của Tướng Thanh cho thấy là CSVN không chủ động trong việc loan tin như ông Nguyễn Bắc Son nói ở trên. Nói cách khác là CSVN vẫn coi sức khoẻ, hành tung của lãnh đạo là bí mật quốc gia. Chính não trạng “bí mật” này đã dẫn đến hiện tượng “mờ mờ ảo ảo” khi phải đối phó sức ép của dư luận. Trước đây khi Hà Nội còn khả năng kiểm soát chặt chẽ về truyền thông, toàn thể xã hội sống trong không khí bưng bít và khủng bố bao trùm nên ít ai quan tâm đến vấn đề sức khỏe hay sống chết của lãnh đạo. Ngày nay, nhờ truyền thông mạng, người dân đã có thể bày tỏ ý kiến cũng như những nghi vấn một cách công khai về mọi vấn đề họ quan tâm. Tình hình này đã và đang đẩy đảng CSVN rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Nếu Hà Nội phải bạch hóa mọi chuyện thì chính yếu tố này làm soi mòn quyền lực độc tôn. Còn nếu trả lời cho lấy có như hiện nay thì liên tục bị thách đố bởi những nghi vấn của công luận. Đây là hậu quả của đường lối cai trị bưng bít thông tin và giáo dục ngu dân của hầu hết các chế độ Cộng sản. Nó cũng là một báo hiệu cho thời kỳ suy thoái và sụp đổ của những chế độ gây ra quá nhiều tội ác đối với nhân dân. Đoàn Hùng Nguồn: http://vnctcmd.blogspot.com/  
......

Mừng TNLT Nguyễn Văn Oai và Paulus Lê Sơn Ra Khỏi Nhà Tù Nhỏ

Hai tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Oai và Paulus Lê Sơn trong nhóm 14 Thanh Niên Công Giáo & Tin Lành bị CSVN bắt giữ và kết án trái phép đã mãn hạn tù và trở về với gia đình ở Nghệ An vào hai ngày mồng 2 và 3 tháng 8 năm 2015 vừa qua. Ngày 30/7/2011, Anh Nguyễn Văn Oai đã bị công an bắt giữ cùng với anh Đặng Xuân Diệu, Hồ Đức Hòa tại Phi trường Tân Sơn Nhất sau một chuyến sang Bangkok, Thái Lan. Trong phiên tòa sơ thẩm ngày 8/1/2013, CSVN đã truy tố 14 Thanh Niên Công Giáo & Tin Lành về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền” và kết án Nguyễn Văn Oai 4 năm tù giam và thi hành án tại K1, trại giam Nam Hà, Tỉnh Hà Nam. Ngày 2/8/2015, Anh Nguyễn Văn Oai mãn hạn tù, một số bạn bè và nhất là các bạn trong nhóm Hoàng sa - Trường sa đến tận trại giam Nam Hà đón anh; nhưng vì TNLT Nguyễn Văn Oai đã không chịu ký giấy ra trại nên công an phải giữ anh lại, khiến cho anh em đi đón phải đi về nhà bà Trần Thị Liệu, mẹ của anh Oai ở xóm 4, xã Quỳnh Vinh, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An để chờ đón Oai. Mặc dù công an trại giam khuyên anh Oai phải ký giấy ra trại thì mới có thể làm lại giấy chứng minh nhân dân sau này; nhưng TNLT Nguyễn Văn Oai cương quyết không ký vì cho là mình vô tội, việc nhà nước bắt bỏ tù anh là sự sai trái và vi phạm nhân quyền. Vì TNLT Nguyễn Văn Oai nhất quyết không ký vào giấy ra trại nên cán bộ trại giam Nam Hà không trả tự do cho anh. Nhưng đến 11 giờ trưa, cán bộ trại giam đành phải chấp nhận trả anh về với gia đình dù anh không ký bất cứ giấy tờ nào. Sự đấu tranh kiên cường của TNLT Nguyễn Văn Oai cho đến ngày cuối khi ra tù cho thấy bản lãnh đấu tranh của anh với quyết tâm sắt đá “tiếp tục dấn thân tranh đấu cho tự do, dân chủ Việt Nam” mà anh đã nói với gia đình và bạn bè trong buổi đón mừng anh mãn hạn tù tại nhà. TNLT Nguyễn Văn Oai trở về trong vòng tay thương yêu của người thân và bạn hữu. Anh quyết tâm "tiếp tục đấu tranh cho tự do, dân chủ Việt Nam". Trong khi đó, TNLT Paulus Lê Sơn bị công an bắt giữ ngày 3/8/2011 khi đang đi trên đường từ nhà thờ Thái Hà về phòng trọ. Trong quá trình hỏi cung, công an đã nhiều lần đe doạ, đánh đập, tra tấn và mớm cung nhằm ép anh nhận tội. Trong lúc Paulus Lê Sơn bị bắt giữ, mẹ anh, bà Đỗ Thị Tân, đã qua đời vào năm 2012 nhưng công an đã không hề thông báo. Trong phiên tòa sơ thẩm ngày 8/1/2013, CSVN đã kết án Paulus Lê Sơn 13 năm tù giam và 5 năm quản chế về tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền”. Đến phiên tòa phúc thẩm vào ngày 23/5/2013, CSVN giảm án anh còn 4 năm tù giam và 4 năm quản chế. Paulus Lê Sơn cho biết là trước 3 ngày phiên xứ phúc thẩm, công an mới cho anh biết là mẹ anh đã mất cách đó hơn 1 năm. Ngày 3/8/2015, Paulus Lê Sơn mãn hạn tù và được trả tự do vào lúc 11:30 sáng tại trại giam Nam Hà, tỉnh Hà Nam. Các bạn bè tại Nghệ An như TNLT Nguyễn Văn Duyệt, TNLT Nguyễn Xuân Anh, TNLT Chu Mạnh Sơn và một số nhà dân chủ từ Hà Nội như Luật sư Nguyễn Văn Đài, nhà báo JB Nguyễn Hữu Vinh, Mục sư Nguyễn Trung Tôn, chị Thúy Nga, anh Ngô Duy Quyền… đón Paulus Lê Sơn trong vòng thay thương yêu. Khi về đến nhà, TNLT Paulus Lê Sơn đã ngất xỉu và quỵ xuống khi đứng trước bàn thờ của mẹ. Sau đó, Paulus Lê Sơn được người thân đưa anh đến viếng mộ của mẹ là bà Đỗ Thị Tần. Tại đây, Paulus Lê Sơn đã chịu tang và cầu xin mẹ tha thứ vì anh đã không thể chăm sóc mẹ vào những ngày cuối đời. Paulus Lê Sơn cho biết: “Trong quá trình tạm giam, công an đã tra tấn, mớm cung, đe doạ lúc lấy lời khai. Sau này lên trại lớn, tôi đã nhiều lần tuyệt thực để đấu tranh đòi quyền lợi cho bản thân và những tù nhân lương tâm khác. Cán bộ trại giam đã đánh đập tàn bạo khi tôi lên tiếng đấu tranh. Họ đánh tôi thâm tím khắp người, để lại 18 vết thương trên thân thể, hai chân không đi lại được trong một tháng nên tôi phải bò khi di chuyển.” Cũng giống như TNLT Nguyễn Văn Oai, TNLT Paulus Lê Sơn cho biết: “Tôi sẽ tiếp tục dấn thân vào con đường của giáo lý đức tin mà giáo hội Công Giáo đã và đang tiếp bước. Cũng như tôi sẽ phải tiếp tục lên tiếng bảo vệ sự thật – công lý – dân chủ – nhân quyền mà đó là mệnh lệnh tôi sẽ tiếp bước. Tôi mong mọi người, các tổ chức bảo vệ nhân quyền tiếp tục lên tiếng bảo vệ tôi và đồng hành với tôi trong những tháng ngày sắp tới.” Được biết trong những ngày tới, TNLT Thái Văn Dung và TNLT Mục sư Dương Kim Khải cũng sẽ ra khỏi nhà tù nhỏ của CSVN. TNLT Paulus Lê Sơn trở về với gia đình và bạn bè ngày 3/8/2015. Anh cho biết "sẽ phải tiếp tục lên tiếng bảo vệ sự thật – công lý – dân chủ – nhân quyền mà đó là mệnh lệnh tôi sẽ tiếp bước".   Ngay sau khi về nhà anh Paulus Lê Sơn đã ra nghĩa trang để chịu tang mẹ. Nguồn: Radio Chân Triờ Mới
......

Dừng ngay những dự án tượng đài tham nhũng

Chính quyền với những cá nhân từ cấp thấp đến cấp cao dấm dúi tham nhũng, không ai bảo được ai, không ai trị được ai. Đến nay chính quyền tham nhũng đó đã tiến tới tập thể công khai tham nhũng bằng việc ném hàng trăm, hàng ngàn tỉ tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân vào những công trình không những vô bổ mà còn phản văn hóa nhân loại, phản đạo lí dân tộc, phản cả sự trung thực của lịch sử đất nước. Tiền đầu tư công trình càng lớn thì tiền lại quả để những người có chức, có quyền chia nhau càng lớn. Tỉnh khó Quảng Nam thu không đủ chi. Đất nghèo, dân đói, giáp hạt nhiều năm phải xin nhà nước mỗi năm cả ngàn tấn thóc cứu đói nhưng tỉnh cũng cố bòn rút 141 tỉ tiền ngân sách xây tượng đài Mẹ Việt Nam. Tỉnh trung du bán sơn địa Vĩnh Phúc, kinh tế ăn đong, ăn bữa sáng lo bữa tối cũng cố sống cố chết đổ ra 300 tỉ đồng xây Văn miếu thờ ông Khổng Khâu bên Tàu, thờ người đã dựng lên hệ thống giáo huấn trói buộc lương dân, khinh rẻ phụ nữ, bảo vệ trật tự phong kiến cổ hủ, trì trệ, ngưng đọng, thối nát, phản tự nhiên, phản tiến bộ. Chính quyền tỉnh này nhìn tỉnh kia, tỉnh này học tỉnh kia tham nhũng bóp nặn dân, bòn rút ngân sách. Quảng Nam dựng tượng bà mẹ dù là mẹ anh hùng cũng chỉ là bà mẹ dân đen tốn tới 141 tỉ đồng. Vĩnh Phúc xây miếu thờ thứ lễ nghĩa vay mượn, văn hóa quì lạy lỗi thời, cũng 300 tỉ đồng. Tỉnh miền núi heo hút, xơ xác Sơn La quanh năm khoai sắn ít có dự án, công trình để ăn chia thì phải có công trình ngàn tỉ mới bõ bèn chia nhau. Muốn có công trình ngàn tỉ thì phải xây tượng thờ người khai sinh ra đảng cầm quyền, khai sinh ra nhà nước đương quyền và Hội đồng Nhân dân tỉnh Sơn La đã thông qua tắp lự dự án dựng tượng ông Hồ 1.400 tỉ đồng, lớn nhất nước, lớn nhất thế giới giữa trập trùng núi non khuất nẻo. Chính quyền tham nhũng đã và đang đổ hết trăm, ngàn tỉ này đến trăm, ngàn tỉ khác tiền mồ hôi nước mắt của dân để xây nên những chùa Bà Đanh, văn miếu Bà Đanh, tượng đài Bà Đanh trên khắp đất nước. Tượng đài 141 tỉ ở Quảng Nam đã nuốt trôi. Miếu thờ ở Vĩnh Phúc đã xây xong. Tiền nhà thầu lại quả đã nằm gọn trong túi quan chức hàng tỉnh Vĩnh Phúc. 1.400 tỉ đồng dựng tượng ông Hồ ở Sơn La đã được duyệt mau lẹ. Một trào lưu, một phương cách tham nhũng tập thể, công khai đang là những cơn bão, những trận mưa lũ tàn phá đất nước như những trận mưa lũ đang tàn phá vùng than giàu có Quảng Ninh. Các tổ chức Xã hội dân sự cần lên tiếng mạnh mẽ về những dự án vô cảm với những cảnh đời nghèo đói của người dân. Vô cảm trước bé gái nhà nghèo nhịn đói đi học rồi chết lả bên đường. Vô cảm trước người chưa đến tuổi già ốm đau không có tiền vào bệnh viện, không có tiền mua thuốc đành nằm nhà chịu cơn đau bệnh hành và chờ chết non. Vô cảm với đám trẻ con ôm nhau đu dây lăng mình qua sông đi học vì chính quyền không có tiền làm cầu. Vô cảm với những lớp học tranh tre rách nát, xiêu vẹo. Trong lớp, những chiếc bàn ghế gỗ tạp, chân gãy, mặt bàn nứt toác, vênh váo cùng những học trò thiếu dinh dưỡng gày guộc quắt queo, quần manh, áo đơn rách hở vai, hở ngực giữa mùa đông tê tái. Vô cảm với những bệnh viện như là nơi đày đọa, sỉ nhục con người, ba bốn người bệnh chồng chất trên một giường bệnh và người khỏe đi nuôi người bệnh chui rúc ăn, ngủ dưới gầm giường. Đất nước xác xơ, người dân nghèo khổ như vậy mà chính quyền cứ mê mải đổ hàng trăm, hàng ngàn tỉ tiền mồ hôi nước mắt của dân xây hết tượng đài này đến tượng đài khác. Tham nhũng đã làm cho cả một chính quyền trở thành bất lương mê muội. Hãy dừng ngay tất cả những loại dự án đang góp thêm một tay đẩy đất nước xuống vực thẳm ấy. P.Đ.T.Theo FB PhạmDìnhTrọng ***** SỐNG BẰNG TƯỢNG ĐÀI, CHẾT BỞI TƯỢNG ĐÀI Sơn La là một tỉnh nghèo miền núi cao ở vùng Tây Bắc, một trong ba tỉnh nghèo nhất Việt Nam, chỉ đứng sau hai tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa. Thế nhưng mới đây, một thông tin đưa ra làm dư luận ngỡ ngàng! Đó là tin Hội đồng Nhân dân tỉnh Sơn La vừa ra nghị quyết thông qua Đề án xây dựng tượng đài "Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Tây Bắc" với tổng số tiền đầu tư 1.400 tỷ đồng. 1.400 tỷ đồng, tương đương với gần 75 triệu đô-la Mỹ, một số tiền quá lớn cho một tượng đài, dù cho đó là tượng đài để tôn vinh ông Hồ. Đây là một chi tiêu thiếu tính toán cho một công trình nhằm thỏa mãn thói sùng bái lãnh tụ còn rơi rớt lại từ thời xa xưa, mà không đem lại một điều gì tốt đẹp về mặt phát triển cho Sơn La… bớt nghèo. Đề án nói trên còn cho thấy sự hoang phí trong tình hình kinh tế, xã hội hiện nay khi ngân sách quốc gia cạn kiệt, thường xuyên thu không đủ bù chi, nợ công tăng cao sắp đụng mức trần cho phép. Những con số của Bộ Tài chánh cho thấy thực sự ngân sách đang thiếu 30 ngàn tỷ đồng và chỉ có cách tiếp tục bán công khố phiếu để bù vào, có nghĩa là phải vay thêm nợ nước ngoài. Trong lúc ấy, xã hội cũng đầy tiếng kêu than của các tầng lớp dân nghèo đang oằn lưng gánh hàng chục thứ phí và lệ phí trong đời sống, để làm đầy ngân sách quốc gia. Việt Nam lâu nay vốn nổi tiếng là một đất nước có nhiều tượng đài lớn nhỏ khắp nơi và một số công trình được thực hiện với ngân sách khổng lồ, gây nhiều tranh cãi. Gần đây nhất, tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng ở Quảng Nam được thiết kế và xây cất với kinh phí khoảng 410 tỷ đồng. Chưa kịp tính đến hiệu quả, tượng đài vừa khánh thành hôm trước, hôm sau nền đã bong tróc, hư hỏng phải bỏ tiền tiếp để sửa chữa. Quảng Nam cũng là tỉnh cần tới 1.500 tấn gạo cứu đói cho dân nghèo trong mùa giáp hạt năm 2015. Hay như tượng đài Chiến thắng Điện Biên Phủ trước đây với kinh phí gần 40 tỷ, khánh thành rầm rộ vào tháng 6 năm 2004. Chỉ sau 3 tháng, tượng đài đã xuất hiện các hiện tượng nghiêng, nứt, lồi lõm, báo trước sự xuống cấp thê thảm. Người ta còn có thể kể ra nhiều công trình xây dựng tượng đài “hoành tráng” khác chỉ với mục đích phô trương. Những pho tượng vô tri ấy chẳng những không đóng góp được chút gì cho sự phát triển của đất nước mà còn làm đề tài cho sự dè bĩu, chê cười. Nhưng đối với lãnh đạo địa phương ưa thích bày vẽ dự án nghìn tỷ và những hội đồng nhắm mắt thông qua, họ còn có lý do cần có tượng đài để sống. Lãnh đạo tỉnh Sơn La hẳn cũng thuộc lòng câu “có làm có ăn”. Và khi đất nước này còn xây dựng tượng đài, số người ăn theo để đục khoét càng gia tăng. Cho đến khi nó sụp đổ, họ cũng không còn kịp nghĩ là họ làm đúng với câu: sống bằng tượng đài và chết bởi tượng đài. FB Chân Trời Mới - Tư Thẳng  
......

Tướng Nguyễn Chí Vịnh Vẫn Coi Bắc Kinh Là Chỗ Dựa

Từ năm 2009, sau khi được đề cử làm Thứ trưởng quốc phòng và nhất là trở thành ủy viên Trung ương đảng khóa XI vào tháng 1/2011, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh trở thành một ngôi sao đang lên trong tập thể Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tuy chỉ đứng hàng thứ 6 trong bộ phận lãnh đạo gồm 7 người của Bộ quốc phòng, nhưng nhờ phụ trách lãnh vực tình báo và ngoại giao, Tướng Vịnh đã xuất hiện trên nhiều diễn đàn quốc tế, các hội nghị song phương về quốc phòng, giúp tên tuổi của ông vượt qua cả Tướng Đỗ Bá Tỵ, Tướng Nguyễn Thành Cung và cả Tướng Ngô Xuân Lịch, chủ nhiệm Tổng cục chính trị. Với trách nhiệm đối ngoại, Tướng Vịnh đã gặp các phái đoàn quân sự Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc Châu, Ấn Độ bên cạnh phái đoàn Trung Quốc nên ít nhiều đã che bớt màu sắc “thân” Bắc Kinh. Nhất là kể từ khi biển Đông bắt đầu nổi sóng vào giữa năm 2011 khi tàu Hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 2 của Tập đoàn dầu khí Việt Nam quanh vùng biển Hoàng Sa, Tướng Vịnh đã có những phát biểu mạnh đối với Bắc Kinh, khiến cho dư luận có lúc nghĩ rằng Tướng Vịnh đã xoay chiều. Tuy nhiên trong thực chất, Tướng Phùng Quang Thanh và Tướng Nguyễn Chí Vịnh là hai nhân vật nhận nhiều “ân sủng” từ Bắc Kinh. Riêng Tướng Vịnh thì từ khi nắm Tổng Cục 2 Bộ Quốc Phòng vào năm 2002, đã có nhiều quan hệ mật thiết về tình báo với Trung Quốc. Tướng Thanh không che giấu sự “phò” Trung Quốc của mình. Từ khi làm Bộ trưởng Quốc phòng đến nay, Tướng Thanh đã có nhiều phát biểu công khai mang tính thần phục Bắc Kinh. Cụ thể nhất là khi Trung Quốc ngang nhiên mang giàn khoan HD 981 vào trong thềm lục địa Việt Nam, tạo ra làn sóng chống đối mạnh mẽ ở trong và ngoài nước; nhưng tại Diễn Đàn Đối Thoại Shangri La ở Tân Gia Ba hôm 31/5/2014, Tướng Thanh nói "Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi." "Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng." Tướng Nguyễn Chí Vịnh thì khôn ngoan hơn trong cách phát biểu, luôn luôn núp sau cái gọi là “giải quyết tranh chấp chủ quyền bằng phương pháp hòa bình”, “không làm lớn chuyện gây đổ vỡ quan hệ láng giềng hữu nghị” để tránh né không làm Bắc Kinh khó chịu. Chính thái độ yếu kém này của hai ông Tướng cùng với sự khuynh loát của Bắc Kinh đối với thượng tầng lãnh đạo trong Bộ chính trị từ năm 1990 cho đến nay, CSVN đã hoàn toàn bị Bắc Kinh khống chế. Chuyến viếng thăm Hoa Kỳ của ông Nguyễn Phú Trọng từ ngày 6 đến 10 tháng 7 vừa qua, được đánh giá là chuyến đi “lịch sử”, mở ra thời kỳ thân thiện hơn với Hoa Kỳ để giảm bớt sức ép từ Bắc Kinh. Tuy nhiên trong thực tế, CSVN khó thoát khỏi cái bóng của Bắc Kinh. Tối 28/7 vừa qua, trong buổi tiếp tân của Tòa đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội nhân kỷ niệm 88 năm ngày thành lập Hồng Quân Trung Cộng, Tướng Nguyễn Chí Vịnh đã phát biểu: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng thân thiện và điều đó không bao giờ thay đổi. Nhiều thế hệ đã qua, nhân dân hai nước đã thiết lập và duy trì mối quan hệ, cùng tồn tại, hình thành rất nhiều điểm tương đồng về văn hóa…. Trung Quốc là đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam và luôn là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của đảng và nhà nước Việt Nam”. Qua phát biểu của Tướng Nguyễn Chí Vịnh, người ta thấy rõ hai điều: Thứ nhất là CSVN an phận với định mệnh “nước láng giềng” của Đại Hán để phải duy trì hữu nghị dù cho Bắc Kinh có những hành vi xâm lược trắng trợn hiện nay. Ông Nguyễn Chí Vịnh đã không học được gương của Miến Điện, Nhật Bản, Ấn Độ để sẵn sàng từ bỏ cái gọi là “láng giềng hữu nghị hão huyền”, cùng với thế giới chống lại sự bá quyền của Bắc Kinh hiện nay. Thứ hai là CSVN vẫn coi Trung Quốc là đối tác chiến lược ưu tiên hàng đầu trong mọi quan hệ với các quốc gia mà Hà Nội muốn tiến tới, chứ không đặt quan hệ bình đẳng ít ra là với 5 quốc gia trong Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc. Khi coi Trung Quốc là đối tác ưu tiên hàng đầu, CSVN tiếp tục coi Trung Quốc là chỗ dựa hay nói đúng hơn là nơi bảo hộ cho chế độ. Trong không khí “thoát Trung” của lãnh đạo Hà Nội hiện nay, những phát biểu của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh là một cố gắng của phe thân Bắc Kinh tại Hà Nội muốn chứng tỏ lòng trung thành với Thiên triều để tiếp tục được bảo hộ. Sở dĩ Nguyễn Chí Vịnh dám bày tỏ thuần phục Bắc Kinh vào lúc này vì ông Vịnh và phe nhóm thân Trung Quốc lợi dụng lúc lãnh đạo Hà Nội đang phải lúng túng che đậy việc “hạ bệ” Phùng Quang Thanh trước dư luận bằng cách đưa ông Thanh xuất hiện trở lại với vai diễn xuất “bình thường” hôm 27/7 vừa qua. Nói tóm lại, không nên kỳ vọng vào chuyện “thoát Trung” của CSVN khi mà chính những sĩ quan bảo vệ bờ cõi như Nguyễn Chí Vịnh vẫn tiếp tục coi Trung Quốc là chỗ dựa an toàn. Đó cũng là lý do vì sao trong chương trình giao lưu nghệ thuật “Khát vọng đoàn tụ” vào tối 27/5 đã “có kẻ” cho tấu khúc nhạc “Ca ngợi Tổ quốc” được xem là bài quốc ca thứ 2 của Trung Quốc ngay vào lúc Trương Tấn Sang, chủ tịch nước lên phát biểu. Họ muốn chứng tỏ phe thân Trung Cộng vẫn còn mạnh, dù Tướng Thanh bị giam lỏng. Trung Điền Ngày 4/8/2015. http://vnctcmd.blogspot.de/…/tuong-nguyen-chi-vinh-van-coi-…
......

Liệu CSVN gia tăng đàn áp sau khi đi gần với Mỹ?

http://www.radiochantroimoi.com/wp-content/uploads/2015/08/20150802-ctm-... Radio Chân Trời Mới (Lê Quyên): Sự kiện Tổng thống Obama và phó Tổng thống Joe Biden cùng đón tiếp ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN tại Tòa Bạch Ốc hôm mồng 7 tháng 7, được Hà Nội đánh giá rằng Hoa Kỳ đã chính thức công nhận thể chế chính trị tại Việt Nam. Ngoài ra, tại cuộc họp báo ở Hà Nội vào ngày 28 tháng 7 vừa qua, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Ted Osius nói rằng, quan hệ giữa CSVN và Hoa Kỳ hiện đang tốt nhất từ trước đến nay. Chính sách của Mỹ là tôn trọng sự khác biệt trong hệ thống chính trị mỗi quốc gia. Phát biểu của ông Ted Osius cũng chỉ để lập lại điều mà ông đã nói với Cộng đồng người Việt tại Nam và Bắc Cali khi có dịp tiếp xúc vào ngày 12 và 14/7 là Mỹ không có chính sách thay đổi chế độ chính trị của Việt Nam. Qua một số nội dung nói trên, khiến nhiều người lo ngại là khi quan hệ giữa CSVN và Hoa Kỳ trở nên gắn bó, Hoa Kỳ sẽ không còn đề cập hay đặt vấn đề vi phạm nhân quyền tại Việt Nam nữa. Nhất là Hoa Kỳ sẽ không còn tích cực ủng hộ các nỗ lực dân chủ hóa tại Việt Nam. Như vậy sau khi đi gần hơn với Mỹ trong những ngày tới, liệu CSVN sẽ có gia tăng đàn áp các nhà dân chủ cũng như trấn áp các lực lượng chống đối ngày một mạnh mẽ hơn không. Để tìm hiểu vấn đề này, xin mời quý vị theo dõi phần nhận định sau đây của ông Lý Thái Hùng, Tổng Bí Thư Đảng Việt Tân trong chương trình hôm nay. Lê Quyên: Trước hết xin ông cho biết quan điểm về việc Tổng thống Obama đón tiếp ông Nguyễn Phú Trọng, tổng bí thư đảng CSVN, tại Tòa Bạch Ốc; có phải là Hoa Kỳ đã chính thức công nhận thể chế chính trị độc tài tại Việt Nam do đảng CSVN lãnh đạo? Lý Thái Hùng: Chính sách quan hệ ngoại giao của Hoa Kỳ, một cách tổng quát dựa trên ba nền tảng chính yếu nhằm phục vụ cho quyền lợi của nước Mỹ: 1/ Giao thương về kinh tế; 2/An ninh chiến lược; 3/ Cổ võ nhân quyền, dân chủ. Tùy theo mối quan hệ với từng quốc gia cũng như tùy theo tình hình của giai đoạn cùng chính sách của mỗi vị Tổng thống mà Hoa Kỳ sẽ chú trọng hay dồn sức nhiều hơn vào 3 nền tảng trên một cách khác nhau. Từ tháng 7/1995, Hoa Kỳ nối lại bang giao với CSVN, dựa trên mối quan hệ của hai quốc gia chứ không dựa trên quan hệ giữa đảng Cộng sản Việt Nam với đảng Dân chủ Hoa Kỳ. Dù thể chế chính trị có khác nhau, nhưng Hoa Kỳ vẫn áp dụng 3 nền tảng của chính sách ngoại giao nói trên trong các quan hệ đối với CSVN trong suốt 20 năm qua. Nói cách khác, Hoa Kỳ đặt quan hệ ngoại giao với CSVN là để phục vụ cho quyền lợi của nước Mỹ trong thế giới liên lập hiện nay nhằm thúc đẩy: mở rộng giao thương kinh tế; củng cố an ninh chiến lược và phát huy giá trị nhân quyền mà Hoa Kỳ theo đuổi. Điều này không có nghĩa là Hoa Kỳ công nhận hay xiển dương thể chế chính trị ở Việt Nam. Việc Tổng thống Obama đón tiếp ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảng CSVN tại Tòa Bạch Ốc hôm mồng 7/7, hoàn toàn mang tính chất nghi lễ ngoại giao, chứ không phải là một cam kết chính trị, do đó không thể coi đó là sự kiện Hoa Kỳ chính thức công nhận thể chế chính trị tại Việt Nam, do một đảng độc tài kiểm soát. Sự kiện Tổng thống Obama đã phá nguyên tắc thông thường để đón tiếp người đứng đầu một đảng chính trị với nghi thức cao nhất dành cho một nguyên thủ quốc gia, chỉ là nhu cầu đối ngoại trong việc lôi kéo CSVN đi gần hơn với Hoa Kỳ, phục vụ cho chính sách xoay trục về “Á Châu” của Tổng thống Obama. Trước ông Obama, các Tổng thống Clinton, Bush đã từng đón tiếp Thủ tướng Phan Văn Khải; Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang tại Tòa Bạch Ốc nên vì thế mà Tổng thống Obama không thể làm khác hơn đối với ông Trọng, nhân vật số 1 của CSVN. Nói tóm lại sự kiện CSVN cho rằng việc ông Trọng vào Tòa Bạch Ốc đồng nghĩa với việc Hoa Kỳ công nhận thể chế chính trị tại Việt Nam là một suy diễn hoàn toàn mang tính tuyên truyền trong nội bộ đảng mà thôi. Lê Quyên: Khi ông đại sứ Ted Osius tuyên bố rằng Mỹ không có chính sách thay đổi chế độ chính trị của Việt Nam, có nghĩa là Hoa Kỳ chỉ làm ăn buôn bán với Hà Nội và làm những gì có lợi cho Hoa Kỳ mà sẽ bỏ qua những vi phạm nhân quyền của CSVN không thưa ông? Lý Thái Hùng: Đương nhiên với tư cách là một đại sứ, có nhiệm vụ làm cầu nối giữa hai chính phủ, hai quốc gia nên ông Ted Osius đã phải tuyên bố như vậy. Đây là lời tuyên bố không chỉ làm an lòng CSVN mà còn nói lên chủ trương chung của Hoa Kỳ là không trực tiếp khuynh đảo bất cứ quốc gia nào. Đối với Hoa Kỳ, CSVN hiện nay đáp ứng 3 yếu tố: giao thuơng kinh tế; an ninh chiến lược; ngăn chận Trung Quốc. Đây là những yếu tố rất chiến lược mà Hoa Kỳ quan tâm và thúc đẩy tại Việt Nam. Tuy nhiên, như trên có đề cập là vấn đề nhân quyền dân chủ là một yếu tố khác mà Hoa Kỳ dùng để tạo áp lực lên những thể chế độc tài, trong đó có CSVN. Sự áp lực này mang tính chất thúc đẩy việc tôn trọng các giá trị nhân quyền mà Hoa Kỳ cổ xúy chứ không nhằm thay thế chế độ. Công việc thay thế này là do chính người dân Việt Nam và những nhà phản kháng thực hiện khi đến thời điểm chín mùi. Tuy nhiên, những áp lực nhân quyền lên chế độ Hà Nội qua đường lối ngoại giao hay những cơ chế có thực chất như TPP đều có thể giúp cho công cuộc đấu tranh của người dân được hiệu quả hơn khi khả năng đàn áp của chế độ không còn có thể tự tung tự tác. Nhìn lại các cuộc cách mạng Màu tại Đông Âu (1989), Serbia, Ukraine, Georgia (2000 – 2005) và gần đây tại Bắc Phi (2011) cho thấy là chính người dân và lực lượng dân chủ đã lớn mạnh và tạo ra những bước thay đổi; trong khi sự can dự của Hoa Kỳ hay thế giới tự do chỉ là những hỗ trợ. Nói tóm lại, Hoa Kỳ không có chính sách thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam; nhưng Hoa Kỳ - thông qua các tổ chức nhân quyền, dân chủ - ủng hộ các nỗ lực đấu tranh cởi bỏ gông xiềng độc tài Cộng sản. Lê Quyên: Sau chuyến đi thăm Hoa Kỳ của ông Nguyễn Phú Trọng, mối quan hệ giữa CSVN và Hoa Kỳ đã gần gũi hơn, điều này nảy sinh ra hai lối suy nghĩ đối với phong trào dân chủ tại VN. Có người thì cho rằng sẽ giúp đẩy nhanh tiến trình dân chủ tại Việt Nam. Nhưng có người thì bi quan cho rằng có thể sẽ bị đàn áp nặng nề hơn. Ông nghĩ sao về điều này? Lý Thái Hùng: Trong các chế độ tài cộng sản, bộ máy công an luôn luôn có nhiệm vụ trấn áp, theo dõi và triệt hạ mọi mầm mống chống chế độ. Vì thế dù CSVN có quan hệ gần hay xa với Hoa Kỳ, công an luôn luôn phải làm phận sự theo dõi, trù dập để không cho bất cứ lực lượng nào nổi lên chống lại chế độ. Khi hiểu rõ nguyên tắc đấu tranh để tồn tại trong chế độ độc tài, chúng ta phải luôn luôn nhắc nhở nhau việc phát triển tiềm lực của lực lượng đấu tranh là chính. Lực lượng đấu tranh mạnh thì tiếng nói của phong trào dân chủ sẽ mạnh lên và như vậy dễ tranh thủ được sự đồng tình và lên tiếng ủng hộ của các tổ chức nhân quyền và chính giới các quốc gia tự do. Ngược lại nếu lực lượng dân chủ quá yếu, không xây dựng được hạ tầng đấu tranh vững chắc thì dù có vận động được các chính giới quốc tế, công an cũng sẽ mạnh tay đàn áp và trù dập. Hiện nay, hàng ngũ của lực lượng dân chủ tại Việt Nam gia tăng đáng kể từ khi mạng xã hội phát triển. Tiếng nói và các cuộc vận động của lực lượng dân chủ tại Việt Nam được sự ủng hộ rộng rãi trong dư luận Việt Nam và Quốc Tế. Khi Hoa Kỳ và CSVN có những quan hệ gần gũi hơn, đặc biệt là với non 2 triệu người Việt định cư ở Hoa Kỳ, chúng ta sẽ là lực tác động giúp cho phong trào dân chủ tại Việt Nam phát triển nhanh hơn và mạnh hơn. Nói cách khác là tình hình ngày hôm nay khác rất nhiều so với 20 năm trước đây, vì thế mà những đàn áp, khống chế của công an dù tinh vi đến đâu cũng không thể nào ngăn chận nổi khát vọng dân chủ hóa của người Việt Nam. Lê Quyên: Hiện nay CSVN đang chờ đợi gia nhập TPP, một hiệp ước thương mại mang lại nhiều hứa hẹn phát triển kinh tế cho Việt Nam và là lối thoát để giảm bớt các ảnh hưởng của Bắc Kinh. Chính vì vậy mà Hà Nội đã có vẻ chùn tay đàn áp hơn trước đây dù vẫn có nhiều hình thức khủng bố, nhưng có phần nào bớt trắng trợn, lộ liễu, liệu sau khi gia nhập TPP, tức đã đạt được điều họ muốn thì CSVN sẽ gia tăng đàn áp không, thưa ông? Lý Thái Hùng: Đàn áp, khống chế lực lượng dân chủ để không cho phong trào dân chủ lớn mạnh là chủ trương của bộ máy công an xảy ra trong mọi thời kỳ, mọi giai đoạn. Ngày hôm nay, CSVN phải hòa nhập vào thế giới bên ngoài để giao thương buôn bán và chịu sự tác động qua lại giữa hai môi trường quốc nội và quốc tế. Việc CSVN đã không tung ra những vụ đàn áp lớn trong thời gian qua là vì họ sợ những vụ bắt bớ sẽ gây khó khăn cho tiến trình đàm phán để gia nhập TPP. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là sau khi đàm phán và gia nhập TPP xong thì CSVN sẽ cho công an bắt đầu trù dập mạnh tay trở lại. Thứ nhất, trong TPP có một số điều luật quy định CSVN phải tôn trọng công đoàn độc lập và quyền con người. Nếu các lực lượng đấu tranh dựa vào những điều luật này để đấu tranh thì sẽ khiến cho bộ máy công an rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan. Thứ hai, khi TPP chính thức vận hành, các sinh hoạt của xã hội Việt Nam cũng bắt đầu thay đổi, giúp cho các hoạt động của lực lượng dân chủ đa dạng hơn khiến cho bộ máy công an khó kiểm soát, khó trù dập. Nói tóm lại, thay vì lo ngại công an mạnh tay đàn áp sau khi gia nhập TPP, chúng ta cần tìm ra những sáng kiến để có những hoạt động mang tính toàn cầu, với sự liên kết trong và ngoài nước hầu đặt CSVN ở vào thế không thể đàn áp mạnh tay như quá khứ là điều nên làm. Lê Quyên: Ai cũng nhận thấy rằng nếu bản thân phong trào dân chủ không mạnh, không tự phát triển để lan rộng nhiều nơi thì dù có hay không sức ép của Mỹ hay của quốc gia nào lên chế độ Hà Nội, công cuộc dân chủ hóa Việt Nam cũng sẽ gặp nhiều trở ngại, theo ông thì để khai thác tình hình thuận lợi như đã phân tích vừa qua, các lực lượng đấu tranh cần dồn nỗ lực vào đâu để phá vỡ nguyên trạng chính trị Việt Nam? Lý Thái Hùng: Tình hình Việt Nam trong vài tháng vừa qua đã có hai chuyển biến đáng chú ý: Thứ nhất là CSVN đang xích gần lại hơn với Hoa Kỳ, tức là tìm cách làm giảm bớt sự lệ thuộc vào Trung Quốc kéo dài từ năm 1990 đến nay. Chính sự chuyển dịch mối quan hệ tay ba giữa CSVN – Hoa Kỳ - Trung Quốc đang tạo ra những đợt sóng ngầm trong nội bộ CSVN mà điển hình là sự kiện Tướng Phùng Quang Thanh đang bị quản chế tại Bộ quốc phòng. Thứ hai là CSVN đang trông chờ gia nhập vào TPP để gia tăng phát triển kinh tế và giảm bớt vào sự lệ thuộc kinh tế Trung Quốc. Điều này sẽ có những tác động làm thay đổi rất lớn lên bản thân của chế độ CSVN và xã hội Việt Nam. Nếu CSVN điều hướng không khéo thì sẽ trở thành mũi dao đâm ngược vào chế độ. Để khai thác những diễn biến thuận lợi nói trên, lực lượng đấu tranh cần thực hiện ba nỗ lực sau đây: Thứ nhất là tìm ra một số công việc để có thể phối hợp thực hiện chung hầu qua đó gia tăng hàng ngũ của phong trào dân chủ. Đây là lúc thuận tiện nhất để phát triển lực tổng hợp của các đoàn thể, tổ chức trong phong trào dân chủ. Thứ hai là tăng cường truyền thông mạng để phổ biến rộng rãi những đấu đá, những chỉ trích trong nội bộ đảng CSVN hầu giúp cho mọi người thấy rõ là quyền lực của CSVN đang bị soi mòn và mất dần khả năng kiểm soát tình hình, đặc biệt trong lúc CSVN đang chuẩn bị đại hội đảng XII hiện nay. Thứ ba là xây dựng một lực đầu tàu để có thể điều hướng các nỗ lực đấu tranh chung và nhất là tạo tiếng nói chung của lực lượng dân chủ, hầu có thể tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của quốc tế và gây áp lực ngược lại chế độ Hà Nội. Tóm lại, CSVN hiện đang tính chuyện xoay trục từ Trung Quốc sang Hoa Kỳ. Cái nguy hiểm mà Hà Nội phải đối phó là Trung Quốc trên bề mặt im lặng, nhưng bên dưới, bí mật sai khiến hàng ngũ tay sai trong đảng và nhà nước CSVN giở những trò phá hoại trên mọi lãnh vực. Đây cũng là hệ quả mà CSVN đang phải gánh chịu từ những ký kết bán nước trong Hội Nghị Thành Đô năm 1990, và sẽ tạo ra cơ hội cho phong trào dân chủ khi những bùng vỡ nội bộ của CSVN càng ngày càng trầm trọng. Lê Quyên: Xin cảm ơn ông Lý Thái Hùng. Nguồn: Radio Chân Trời Mới
......

AI KHÁT NƯỚC – AI ĐÀO GIẾNG?!

Chúng ta đang sống trong một xã hội mà nhìn đâu cũng thấy những bức xúc, từ kinh tế chính trị đến văn hóa xã hội… Chúng ta ai cũng mong muốn có một cuộc sống và môi trường sống tốt đẹp hơn. Ấy vậy mà, nghịch lý thay, phần lớn trong chúng ta đều nghĩ rằng: “để làm cho xã hội này tốt đẹp hơn không phải là bổn phận và trách nhiệm của mình”. Vậy thì thưa các bạn, ai khát nước, ai đào giếng?! Chúng ta mong muốn xã hội tốt đẹp hơn nhưng chúng ta lại không chịu góp tay vào để làm cho nó tốt đẹp hơn thì cái xã hội này sẽ tốt đẹp hơn bằng cách nào đây?! Nó giống như chúng ta sống trong một ngôi mà đầy rác, chúng ta mong ước nó sạch nhưng không ai trong chúng ta chịu giơ tay cầm chổi, ngôi nhà ấy chỉ có thể càng ngày càng dơ bẩn hơn mà thôi. Chúng ta ai cũng biết rằng: “đấu tranh là tránh đâu”. Nhưng mà, chúng ta không đấu tranh thì chúng ta có tránh được không? Sau mỗi trận mưa, chúng ta lội bì bõm dưới những con đường mà nếu chụp hình lại thì người ta không biết nó là đường hay sông. Mỗi lần chuyển trường cho con, cháu thì nếu không có thủ tục đầu tiên thì y như rằng chuyện không tưởng đã trở thành hiện thực. Chúng ta đau lòng khi nhìn con cháu chúng ta ngày tắt mặt tối với chồng sách vở trên lưng, chạy từ trung tâm này qua trung tâm khác. Mỗi lần đưa thân nhân vào viện thì chúng ta đau xót mà nhìn sự thờ ơ của những “từ mẫu” trước nỗi đau của thân nhân mình. Mỗi lần xăng tăng giá thì chúng ta cứ phải chửi thề vài câu. Mỗi lần nghe quy hoạch thì chúng ta lại hồi hộp vì không biết đất đai, nhà cửa của chúng ta sẽ lưu lạc phương trời nào. Còn rất nhiều, rất nhiều những bức xúc mà tôi cam đoan rằng, không ai trong chúng ta không từng trãi qua. Chúng ta cam phận hay chúng ta hèn nhát? Tôi vẫn còn nhớ cách đây không lâu có một cô hoa hậu với một thế ngủ không đẹp đã khiến hàng trăm ngàn người nhảy lên chửi đổng và ban cho cô ta vô số tội, nào là không đoan chính, nào là bỉ mặt quốc gia, nào là không xứng đáng … chỉ là một thế ngủ mà thôi chúng ta cũng sẵn sàn chém giết không thương tiếc đồng loại của mình chỉ để thỏa cái tôi muốn tỏ ra ta đây hơn người. Vậy mà, ngay cả nỗi đau của chính mình chúng ta lại không dám nói, không dám đấu tranh giành lấy cái quyền mà tạo hóa ban cho chúng ta. Chúng ta hèn nhát có phải không?! Chúng ta ích kỷ có phải không?! Chúng ta mong chờ người khác hứng lấy phần thiệt để cho chúng ta có cái lợi mà không biết rằng, “lợi thì có lợi mà răng chẳng còn”. Chúng ta hôm nay thờ ơ trước các vấn đề xã hội có nghĩa là chúng ta đang tự tay tát vào lòng tự trọng của mình, tự tay giết chết tương lai của chính mình, gia đình mình và con cháu chúng ta sau này. Chúng ta chờ đợi những điều tốt đẹp sẽ đến với chúng ta mà chúng ta không biết tự tay làm lấy thì cái mà chúng ta nhận được chỉ là sự khinh bĩ của kẻ đàn áp chúng ta mà thôi. Chúng ta thấy người khác bị chiếm đất, chúng ta thốt lên “ồ may quá mình không bị” mà không biết rằng rồi sẽ tới phiên mình. Chúng ta ai cũng nghĩ mình cứ im đi để người khác đấu tranh, được thì mình cũng hưởng mà không biết rằng ai cũng nghĩ giống mình thì cái hưởng đó nó nằm ở một tương lai rất xa mà cái bị ngay trước mắt và mỗi ngày càng nặng thêm. Chúng ta, mỗi con người sống trong xã hội này, ngoài trách nhiệm đối với bản thân, với gia đình, chúng ta còn có trách nhiệm với xã hội, với tổ quốc. Chúng ta không chỉ lo cho sự an ổn tạm thời ở hiện tại, mà chúng ta cần phải quan tâm và xây dựng một sự thịnh vượng vững bền ở tương lai. Ai khát nước, Ai đào giếng? Câu trả lời xin dành lại cho mỗi người. FB Duy Le
......

Tuyên bố chung của các tổ chức xã hội dân sự độc lập đối với Dự thảo Luật về Hội

Tuyên bố chung này được đưa ra bởi các hội đoàn độc lập dưới đây, cũng chính là các tổ chức xã hội dân sự bị loại ra ngoài vòng pháp luật do không được chính quyền Việt Nam cấp phép hoạt động. I- Trước tiên, chúng tôi công nhận rằng sự rõ ràng, toàn diện, hoàn thiện và khả năng áp dụng công bằng cho mọi thành phần xã hội của luật pháp quốc gia là vô cùng cần thiết đối với sự bảo đảm và phát huy các quyền tự do dân sự của người dân, đối với sự phát triển toàn diện của quốc gia và sự tồn tại của nền pháp trị. Và chúng tôi cũng nhận thức sâu sắc rằng, điều 4 Hiến pháp cho phép Đảng cộng sản Việt Nam độc tôn đứng trên mọi lực lượng Nhà nước và xã hội và các Luật vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc dân chủ tự do và nhân quyền quốc tế nhằm bảo vệ quyền lực của Đảng cộng sản chính là nguyên nhân quan trọng cho tình trạng thiếu vắng một nền pháp trị thực sự ở Việt Nam. Là các tổ chức dân sự độc lập, tự nguyện và tự quản, chúng tôi cũng hiểu rõ rằng, việc luật pháp tạo điều kiện cho sự can thiệp tuỳ tiện của Nhà nước vào đời sống dân sự sẽ làm suy yếu lĩnh vực hoạt động XHDS, ngăn chặn sự đóng góp hữu hiệu của người dân trong việc hình thành các chính sách tốt đẹp cho quốc gia. II- Đại diện cho các tổ chức XHDS độc lập đang nằm trong số những nạn nhân của các chính sách và hành vi đàn áp quyền tự do lập hội của chính quyền Việt Nam, chúng tôi quyết tâm không để mình bị loại ra khỏi tiến trình đóng góp ý kiến cho bản Dự thảo Luật về Hội, có liên quan trực tiếp đến quyền lợi và tương lai của chúng tôi và của toàn thể dân tộc Việt Nam. Sau đây là một số nhận xét của chúng tôi về Dự thảo Luật về Hội này. Chúng tôi yêu cầu chính quyền Việt Nam huỷ bỏ hoặc sửa đổi các điều khoản dưới đây theo hướng tôn trọng và bảo vệ quyền tự do Lập hội, nhằm tuân thủ các nguyên tắc của Công pháp quốc tế mà chính quyền đã ký kết. 1/ Phân biệt đối xử "Hội", theo hiểu biết của chúng tôi, bao gồm các tổ chức XHDS (CSO), các câu lạc bộ, các hợp tác xã, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tôn giáo, các nhóm chức nghiệp và phái tính, các đảng phái chính trị, các công đoàn và các sáng hội (foundation). Vì vậy, cả đảng Cộng sản Việt Nam cũng phải được định nghĩa như một hội thông thường trong Luật về Hội, không có ưu tiên độc tôn, độc quyền và không cần một văn bản pháp luật khác điều chỉnh riêng. Quy định tại khoản 2 điều 1 loại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam ra khỏi phạm vi điều chỉnh của Luật về Hội cho thấy chính quyền Việt Nam muốn tiếp tục duy trì ưu thế của các tổ chức công cụ của Đảng Cộng sản Việt Nam này. Và việc loại các tổ chức tôn giáo ra khỏi phạm vị áp dụng của luật này khiến chúng tôi lo lắng về tương lai của các tổ chức tôn giáo không đăng ký và các nhóm tôn giáo của người sắc tộc. 2/ "Giấy phép" là rào cản Khoản 3 điều 2 cho phép Chính phủ Việt Nam quy định chi tiết về các hội đoàn không có tư cách pháp nhân sẽ tạo điều kiện cho các văn bản dưới luật bóp nghẹt quyền Tự do lập hội ra đời và do đó, phần lớn nội dung của Dự thảo Luật về Hội thực ra chỉ áp dụng đối với hội có tư cách pháp nhân, tức được chính quyền công nhận. Việc luật trao cho chính phủ quyền ban hành các quy định dưới luật nhằm tước bỏ hoặc hạn chế các quyền của công dân mà hiến pháp và luật pháp công nhận là một chính sách được thực hiện xuyên suốt của chính quyền Việt Nam. Quyền Lập hội là quyền hiến định, bất cứ người dân nào cũng có quyền lập hội và tham gia hội. Do đó việc lập Hội chỉ cần GHI DANH và CÔNG BỐ, không cần xin phép và đợi sự cho phép của cơ quan Nhà nước. Vậy, để bảo đảm tôn trọng Quyền tự do lập hội, toàn bộ Dự thảo Luật này không nên chỉ điều chỉnh các hội có tư cách pháp nhân mà thôi và loại các hội không có tư cách pháp nhân cho các văn bản dưới luật của chính phủ điều chỉnh. 3/ Cấm đoán tùy tiện Điều 8 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có việc “cản trở, ép buộc, can thiệp vào việc thành lập, tổ chức, hoạt động hội trái quy định của pháp luật” (Khoản 1) và “xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cộng đồng, tổ chức, cá nhân; gây phương hại đến lợi ích, chủ quyền, an ninh quốc gia, an toàn xã hội, khối đại đoàn kết dân tộc” (Khoản 2). Mục đích của Điều 8 là nhằm cấm các hội đoàn độc lập, các hội đoàn bảo vệ nhân quyền, các hội đoàn của những người đối lập... không được thành lập và hoạt động; và tạo điều kiện dễ dàng để chính quyền vu khống, buộc tội tuỳ tiện những người làm nhiệm vụ vận động thành lập các hội đoàn độc lập. Ngoài ra, các điều cấm đoán đã trích dẫn trên đây rất mơ hồ tạo điều kiện để chính quyền toàn quyền diễn giải cách hiểu và áp dụng theo ý riêng của mình. 4/ Vi phạm nguyên tắc tự nguyện và tự quản của hội Quy định về thẩm quyền của Bộ trưởng Nội vụ và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân các cấp trong việc công nhận điều lệ hội và chức danh người đứng đầu hội tại Điều 14 và Điều 31 hoàn toàn mâu thuẫn và vi phạm nguyên tắc tự nguyện và tự quản của hội như đã được công nhận và quy định tại Điều 2 và Điều 6. 5/ Hạn chế vô lý quyền gia nhập hội của người dân Việc cấm các công dân bị tòa án tuyên cấm tham gia hoạt động về hội hoặc hành nghề thuộc lĩnh vực hoạt động chính của hội, tại Điểm a Khoản 2 Điều 15 là cách hạn chế vô lý quyền gia nhập hội của công dân như đã được công nhận và quy định tại Điều 3. 6/ “Nhà nước hóa” hội đoàn Chúng tôi cho rằng Hội là một tổ chức xã hội, chứ không phải là cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, nên không thể chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước về ngành và lĩnh vực hoạt động của mình, như quy định của Khoản 2 Điều 25. Quy định đó mặc nhiên “nhà nước hóa” một tổ chức xã hội dân sự đơn thuần. 7/ Cản trở các hội đoàn độc lập ra đời Khoản 6 điều 9 quy định một trong những điều kiện thành lập hội là "phải có đủ số người đăng kí tham gia hội tối thiểu theo quy định của Chính phủ" là một sự xâm phạm nghiêm trọng quyền Tự do lập hội. Nếu Chính phủ quy định con số tối thiểu này quá lớn sẽ ngăn cản việc thành lập các nhóm hội nhỏ ngay từ ban đầu. Thực chất, chỉ cần hai người là có thể lập thành một hội. Khoản 3 điều 9 quy định các hội đoàn ra đời sau thì lĩnh vực hoạt động chính không được trùng lắp với lĩnh vực hoạt động chính của hội đã được thành lập "hợp pháp" trước đó. Điều này một lần nữa tạo ưu thế tồn tại độc tôn của các hội đoàn nằm dưới ô dù của Nhà nước và ngăn cản sự thành lập của các hội đoàn độc lập, không đăng ký hoạt động trong cùng một phạm vi hoạt động. Khoản 1 điều 10 đề cập đến việc Ban vận động thành lập hội phải có cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận là vô lý. Ban vận động thành lập hội có ý nghĩa quyết định đến việc thành lập hội. Ban vận động thành lập hội mà không được chính quyền công nhận thì hội sẽ không bao giờ được thành lập. Đây sẽ là điều kiện để chính quyền loại bỏ ngay từ đầu quyền tự do lập hội của những người bất đồng chính kiến hoặc giới hoạt động nhân quyền. 8/ Về tên của dự thảo Luật Chúng tôi đề nghị nên đổi tên "Luật về Hội" thành "Luật về Quyền lập hội" để phù hợp với tinh thần của điều 22 trong "Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị" là công nhận và bảo vệ Quyền tự do lập hội của người dân. Một dự luật về hội đoàn mà không tuân thủ các nguyên tắc quốc tế về Quyền tự do lập hội sẽ là một bước lùi nghiêm trọng trong nỗ lực xây dựng nền pháp trị. III- Trên đây là ý kiến nhận xét của các tổ chức XHDS độc lập chúng tôi cho bản Dự thảo Luật về Hội. Trong tinh thần tôn trọng sự đóng góp ý kiến của công dân Việt Nam, yêu cầu bộ phận chức năng trả lời chính thức về việc đồng ý hay không đồng ý với những ý kiến này và lời giải thích. Dựa trên những cam kết của chính phủ Việt Nam trong các công ước quốc tế, chúng tôi vẫn tiếp tục hoạt động và phát triển các hội nhóm của mình, góp phần vào việc xây dựng nền tảng cho một xã hội dân sự; tranh đấu không ngừng để Việt Nam sớm có một hiến pháp thực sự đáp ứng nguyện vọng của đại đa số người dân Việt Nam, một nền luật pháp công minh, một hệ thống chính trị tam quyền phân lập để bảo đảm cho việc thi hành luật pháp minh bạch, công bằng và hợp hiến. Trong hoàn cảnh đó, chúng tôi hy vọng luôn nhận được sự ủng hộ và bảo vệ từ chính giới các quốc gia tự do dân chủ, các NGO quốc tế và các cơ quan truyền thông quốc tế. Hà Nội, ngày 1 tháng 8 năm 2015 Các tổ chức XHDS độc lập sau đây ký tên: 1/ Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam, đại diện Huỳnh Thục Vy, Trần Thị Hài, Trần Thị Hài, Trần Thị Nga 2/ Bạch Đằng Giang Foundation, đại diện Phạm Bá Hải 3/ Hội Cựu Tù nhân Lương tâm Việt Nam, đại diện bác sĩ Nguyễn Đan Quế và linh mục Pham Văn Lợi 4/ Hội Nhà báo độc lập Việt Nam, đại diện nhà báo Phạm Chí Dũng 5/ Nhóm những người Bảo vệ Tôn giáo và Sắc tộc, đại diện Huỳnh Trọng Hiếu 6/ Nhóm Linh mục Nguyễn Kim Điền, đại diện linh mục Nguyễn Hữu Giải 7/ Hội anh em Dân chủ, đại diện luật sư Nguyễn Văn Đài 8/ Giáo hội Liên hữu Lutheran Việt Nam-Hoa Kỳ, đại diện mục sư Nguyễn Hoàng Hoa 9/ Phong trào Con đường Việt Nam, đại diện Nguyễn Công Huân 10/ Hội Ái Hữu cựu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo, đại diện Nguyễn Bắc Truyển 11/ Hội Thánh Tin lành Chuồng Bò, mục sư Nguyễn Mạnh Hùng 12/ Hội Bầu Bí tương thân, đại diện Nguyễn Lê Hùng 13/ Diễn đàn Xã hội Dân sự, đại diện Tiến sĩ Nguyễn Quang A 14/ Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đại diện Hoà Thượng Thích Không Tánh 15/ Sài Gòn báo, đại diện linh mục Lê Ngọc Thanh 16/ Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo Thuần tuý, đại diện Nguyễn Vân Điền 17/ Khối 8406, đại diện linh mục Phan Văn Lợi 18/ Bauxite Việt Nam, đại diện giáo sư Phạm Xuân Yêm và giáo sư Nguyễn Huệ Chi 19/ Hội Bảo vệ quyền Tự do Tôn giáo, đại diện Hà Thị Vân 20/ Người Bảo vệ Nhân quyền Việt Nam, đại diện Vũ Quốc Ngữ 21/ Giáo hội Cao Đài giáo độc lập, Toà thánh Tây Ninh, đại diện Chánh Trị sự Hứa Phi, Nguyễn Kim Lan và Bạch Phụng 22/ Mạng lưới Blogger Việt Nam, đại diện Phạm Thanh Nghiên
......

Khi chúng ta có thể quen cả với nỗi nhục!

Những thông tin gần đây về người Việt ăn cắp ở Thụy Sĩ, Nhật, Đức, phụ nữ Việt nhiều người bị chính phủ Singapore từ chối cho nhập cảnh…làm người Việt trong và ngoài nước xấu hổ, đau lòng và phẫn nộ. Cảnh sát Thụy Sĩ lập biên bản phạt 2 du khách của Việt Nam vì tội ăn trộm photo Nhưng thật ra có phải đến bây giờ hình ảnh người VN nói chung mới trở nên xấu xí trong mắt nhiều dân tộc khác? Câu trả lời là không. Hình ảnh người VN, nhờ ơn Bác và đảng, nhờ ơn chế độ xã hội chủ nghĩa ngàn vạn lần tươi đẹp hơn các nước tư bản thối nát, đã xấu xí đi từ lâu rồi. Từ cái thuở sinh viên VN đi du học ở các nước xã hội chủ nghĩa anh em, đa số lo học chỉ một phần, phần còn lại-mà cái này mới là chính-lo mua hàng về nước bán kiếm lời để có đồng ra đồng vào và giúp đỡ gia đình ở nhà đang sống hết sức túng thiếu thời chiến tranh. Dù ở Liên Xô, Đông Đức, Tiệp Khắc hay Hungari, một hình ảnh quen thuộc của du học sinh VN là xếp hàng, mua càng nhiều càng tốt mọi thứ từ cửa hàng quốc doanh của nước bạn bán ra mà có thể tiêu thụ được ở VN, từ xà phòng, bàn là (tức bàn ủi), phích nước, nồi cơm điện, quạt máy…Có khi xếp hàng vòng đi vòng lại, mua hết sạch hàng của người ta. Rồi đến khi lên đường về nước người nào cũng tay xách nách mang, lễ mễ đồ đạc, nặng trĩu. Không chỉ sinh viên đi du học, giới nghệ sĩ, cán bộ miền Bắc đi công tác cũng “tranh thủ” mua hàng về bán. Đến nỗi có dạo nhiều cửa hàng phát sợ, cứ thấy mặt người Việt là không chịu bán hoặc chỉ bán đúng một cái mỗi món hàng. Nhớ hồi cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn còn sống, có lần vui chuyện ông kể dạo ông được nhà nước cho sang Moscow tham quan, suốt thời gian ở đó cho tới khi về nước, không thấy ông mua bất cứ món hàng gì ngoại trừ rượu ngon để uống, từ anh em nghệ sĩ trong đoàn cho tới những người Liên Xô tiếp xúc với đoàn đều…ngạc nhiên! Rồi đến thời nhà nước VN ồ ạt cho người dân đi xuất khẩu lao động. Hết đợt này đến đợt khác, hàng trăm ngàn con dân Việt, từ những làng quê nghèo khó ở miền Bắc miền Trung lại kéo nhau lên đường đi làm thuê ở xứ người. Và dần dà những câu chuyện không hay, những thông tin xấu về cách hành xử của người lao động Việt lại xảy ra, ngày càng nhiều. Nào bỏ việc, bỏ chỗ làm, trốn ra ngoài làm chui, tìm cách ở lại. Nào ăn cắp vặt, có khi ngay cả ở chỗ làm. Rồi thêm đội quân đi chui sang nước người tìm mọi cách ở lại hợp pháp hay bất hợp pháp, đi qua các nước Đông Âu, Anh, Nga…bằng nhiều nẻo đường khác nhau. Họp chợ, làm ăn buôn bán nhưng cách sống thì như những ngưởi ở trọ trên xứ người, không biết ngôn ngữ hoặc biết rất kém, không quan tâm học hỏi bất cứ thứ gỉ của nước người ta, chỉ sống quây quần giữa người Việt với nhau, nói tiếng Việt, ăn món ăn Việt, ngày đọc báo Công An, An ninh Thủ Đô, tối xem VTV4... Hoàn cảnh sống bấp bênh trong khi khát vọng kiếm tiền và làm giàu nhanh đã làm nảy sinh ra đủ thứ tệ hại, trong đó ở khu vực các nước Đông Âu, Anh, người Việt nổi danh với nạn buôn lậu thuốc lá, trồng “cỏ” tức cần sa và ăn cắp. Phụ nữ VN cũng không chịu kém. Chị em, mà phần lớn là từ miền Tây Nam Bộ, lại chọn con đường ra đi bằng cách lấy chồng Đài, chồng Hàn…Cô dâu Việt ồ ạt xuất khẩu nhiều đến nỗi có một dạo người Việt đau lòng trước những thông tin đại loại như trên những trang quảng cáo hoặc văn phòng môi giới hôn nhân ở các nước này còn quảng cáo kiểu như lấy vợ Việt vừa ngoan vừa rẻ vừa còn trinh, nếu không còn trinh sẽ hoàn lại tiền hoặc đổi cho cô khác v.v…Rồi các cô gái trẻ, cũng lại xuất thân từ những làng quê nghèo khó nhưng muốn kiếm tiền nhanh, chọn con đường đi sang các nước như Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Cambodia…để làm “gái”. Đó cũng là lý do vì sao gần đây chính phủ Singapore lại khó khăn với nhiều nữ du khách Việt và không cho nhập cảnh. Hình ảnh người VN cứ như thế xấu dần đi trong mắt nhiều dân tộc khác. Nhưng phổ biến nhất là…nạn ăn cắp vặt, nhiều đến mức người Nhật, người Đài Loan phải có những tấm bảng khuyến cáo bằng tiếng Việt. Không chỉ du học sinh, du khách mà cả tiếp viên hàng không, phi công cũng buôn lậu, tiêu thụ hàng ăn cắp bị bắt quả tang. Đi ra nước ngoài thì như thế, còn ở trong nước, người Việt chúng ta cũng tạo nên một hình ảnh không mấy đẹp. Từ những câu chuyện nhỏ về hành vi ứng xử nơi công cộng như môt cô hoa hậu ngủ hết sức hớ hênh giữa máy bay, một cô ca sĩ có tiếng cho con tè vào túi nôn trên máy bay, nhiều người trong giới showbiz gây ra đủ loại scandal (thậm chí không loại trừ việc cố tình tạo scandal để mau nổi tiếng), chửi xéo nhau chơi xấu nhau giữa đời thực cũng như trên mạng, người Hà Nội chửi tục như hát hay đến mức chính quyền Hà Nội phải phát lệnh “tuyên chiến” với nạn nói tục, chửi bậy… Nạn bún mắng cháo chửi, chửi khách ăn trong nước đã đành, với du khách nước ngoài thì tìm mọi cách chặt chém, móc túi, gian lận… khiến nhiều người đến VN một lần và không còn muốn quay lại. Nào nạn chen lấn xô đẩy khi xếp hàng, khi được phát một món hàng miễn phí, nạn hôi của, sự vô cảm… Dân thì như thế còn quan chức, nhà nước VN? Hình ảnh về nhà cầm quyền VN lại càng là một hình ảnh tiêu cực, xấu xí trong mắt bè bạn quốc tế. Một nhà nước độc tài độc đảng do đảng cộng sản lãnh đạo, mô hình chỉ còn lại vài nước ít ỏi trên thế giới, với một thể chế chính trị lạc hậu, thường xuyên xếp hàng chót cùng với một số quốc gia độc tài tệ hại khác trong những bảng xếp hạng về thành tích nhân quyền, kẻ thù của internet, nổi tiếng về tham nhũng, đi vay nợ của nước ngoài. Đất nước hòa bình đã mấy chục năm nhưng vẫn cứ lẹt đẹt đói nghèo và vác mặt đi vay, đi xin xỏ các nước, nhưng lại chẳng giúp đỡ gì nước khác. Thú thật ngay như người viết bài này đang sống ở Na Uy, nếu có nghe được tin gì về VN trên báo, đài Na Uy thì cũng hiếm khi có tin tích cực, hầu hết là tin tiêu cực. May mà Na Uy xứ lạnh quá, dân số ít, vật giá đắt đỏ, dân nhập cư lậu khó sống nên số người Việt tìm mọi cách đi qua ở chui rồi phạm pháp cũng vẫn còn ít, nếu không thì cũng khó ăn khó nói hơn với người ta! Nhìn lại đến bây giờ, chúng ta có gì để tự hào. Cái danh hão mà một thời đảng và nhà nước cộng sản VN rất hay đem ra để tuyên truyền, nhồi nhét vào đầu bao thế hệ người dân như VN rừng vàng biển bạc, một đất nước anh hùng đã từng đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh nhất thời đại, VN là lương tâm của nhân loại, rằng nhiều người nước ngoài chỉ mơ ước một buổi sáng thức dậy thấy mình là người VN…Tất cả chỉ là trò tuyên truyền dối trá, còn thực tế, như đã thấy, vô cùng bẽ bàng. Nào đâu rừng vàng biển bạc hay tất cả tài nguyên, khoáng sản của đất nước đã bị đào lên bán sạch, cả lãnh thổ lãnh hải cũng bị chiếm, bị bán rẻ đi. Chiến thắng Pháp, Mỹ làm gì khi chính cái lý tưởng, mục đích đấu tranh một thời cộng với toàn bộ cái học thuyết mà đảng cộng sản tôn thờ đã bị chính họ vứt vào sọt rác, chỉ còn giữ lấy cái vỏ để tiếp tục tại vị, khi chính họ bây giờ phải chạy theo năn nỉ các cựu thù cũ giúp đỡ về kinh tế cho tới quốc phòng, toàn vẹn lãnh thổ… Nhìn sang các nước láng giềng từ Nhật, Hàn cho tới Thái Lan, thậm chí Lào, Cambodia mà đau lòng, xấu hổ. Nhục riết rồi thành quen. Những câu chuyện, thông tin, hình ảnh xấu xí về nhà cầm quyền VN, về con người VN dần dần không còn làm cho chúng ta ngạc nhiên nữa. Và điều đó thật là nguy hiểm. Khi chúng ta có thể quen được với cả cái nhục! VN bị coi thường. Người Việt và cái hộ chiếu VN bị coi thường ở nhiều nơi. Nhưng lạ lùng một điều là người Việt mình lại rất coi thường một số dân tộc khác. Không chỉ người Việt trong nước mà cả người Việt ở nước ngoài, nhiều người có đầu óc rất kỳ thị, phân biệt chủng tộc.Ví dụ như gọi người da đen là bọn “nhọ”, bọn “mọi”, dân Ả rập hay Trung Đông là bọn “rệp”, dân Pakistan là dân “ba khía”, (còn tất nhiên vì sao gọi dân Tàu là bọn “khựa” thì có lý do khác, do mối quan hệ chưa bao giờ là thật sự tốt đẹp giữa hai nước và do những gì nhà cầm quyền Trung Quốc từ xa xưa cho tới bây giờ đã và đang đối xử với VN). Chúng ta coi thường một số dân khác trong khi nhìn lại dân mình, nước mình đứng ở đâu trên thế giới? Không có một dân tộc nào nhiều tính xấu hơn hay khiếm khuyết bẩm sinh về mặt tính cách, nhân cách hơn so với dân tộc khác. Người Việt cách đây mấy chục năm rõ ràng phần đông tử tế, lương thiện, có phẩm cách, sống theo phương châm “giấy rách giữ lấy lề”, “đói cho sạch, rách cho thơm”, “mất tiền là không mất gì cả, mất danh dự là mất tất cả”…Như nhiều người cũng đã phân tích, khi con người phải sống trong một chế độ, một xã hội mà nạn tha nhũng, ăn cắp, hối lộ, dối trá hoành hành tử trên xuống dưới thì cũng khó mà giữ cho mình cả đời lương thiện, tử tế. Chính là cái thể chế chính trị, cái mô hình xã hội, do con người tạo ra và ngược lại, cũng ảnh hưởng đến con người. Chọn một thể chế chính trị sai lầm, một mô hình xã hội sai lầm tạo điều kiện cho cái xấu, sự không tử tế nảy nở và cái tốt, sự tử tế bị triệt tiêu thì không chỉ đất nước bị tàn phá mà nhân cách, đạo đức của con người cũng bị hủy hoại. Theo songchi's blog
......

Pages