Từ alumina Tân Rai đến nhôm Nhân Cơ
03.01.2016
TS. Nguyễn Thành Sơn
Lời tác giả: Cách đây hơn 26 năm, từ tháng 11/1989, trên tạp chí Năng lượng (Cơ quan ngôn luận của Bộ Năng lượng, Số 11, Tháng 11-1989 Năm thứ 27): trong bài viết “Năng lượng với Tây Nguyên” (tr.20-21) chúng tôi (với bút danh là Nguyễn Trường Sơn) đã khẳng định 3 vấn đề sau này đã được thực tế chứng minh (trích nguyên văn):
- “Loại trừ bôxít ra khỏi tiềm năng kinh tế của Tây Nguyên”;
- “Điện là chiếc chìa khóa mở cửa kho vàng Tây Nguyên”;
- “Than giữa cho sinh thái không bị phá hủy”.
Đồng thời cũng đã đề xuất 3 vấn đề sau này đã trở thành hiện thực (trích nguyên văn):
- “Hệ thống điện hợp nhất toàn quốc với đường dây siêu cao áp Bắc-Nam đặt ra bây giờ không phải là quá sớm và là vấn đề đáng quan tâm”;
- “Cần thành lập một “Ủy ban phát triển kinh tế Tây Nguyên” để phối hợp các hoạt động giữa các ngành, các địa phương có liên quan;
- “Chúng ta cần xây dựng và thực hiện một “Chương trình tổng hợp về khai thác tiềm năng kinh tế ở Tây Nguyên” một cách cụ thể và khẩn trương”.
Nhắc lại những ý kiến phản biện của mình cách đây 26 năm nay đã thành sự thật, sau đây chúng tôi muốn điểm lại những vấn đề có liên quan đến các dự án bauxite-alumina-nhôm trên Tây Nguyên.
Nguyễn Thành Sơn
1 Alumina Tân Rai: những con số biết nói hay một sự khởi đầu thất bại trên Tây Nguyên
Sứ mệnh “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” đã được Đảng ta hoàn thành bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, bắt đầu bằng một quyết định chiến lược đúng đắn- đánh đòn phủ đầu vào Buôn Mê Thuật trên Tây Nguyên, đã dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Sứ mệnh “xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chủ quyền dân tộc” đã đạt được nhiều thành công to lớn từ khi Đảng ta khởi xướng và trực tiếp lãnh đạo cả dân tộc bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986. Đất nước, nền kinh tế, và xã hội VN có lẽ đã tiến xa hơn, khoảng cách đói nghèo, kém phát triển của VN đã được rút ngắn hơn, chủ quyền biển đảo đã trở nên vững chắc hơn, lòng tin của người dân đã lớn hơn… nếu như chúng ta không mắc phải những sai lầm nghiêm trọng mang tính chiến lược trong việc triển khai các dự án bauxite-nhôm Tây Nguyên.
Sau 6 năm, những thất bại trong việc thử nghiệm dự án alumina Tân Rai đã ngày càng được khẳng định. Đó là:
1-.1 Nhà thầu không có kinh nghiệm
Chọn một nhà thầu hoàn toàn không có kinh nghiệm về áp dụng công nghệ Bayer để sản xuất alumina từ bauxite dạng gibbsite. Hậu quả là:
+ Mức độ khử các tạp chất trong sản phẩm cuối cùng không đạt và chất lượng của sản phẩm chỉ cao hơn “Calcined bauxite” (bauxite nung) và “Transition aluminas” (alumina – oxit nhôm – chuyển tiếp), chưa đạt tiêu chuẩn của “Calcined aluminas”. Giá bán của sản phẩm luôn bị ép;
+ Thời gian kiềm hóa không được lựa chọn tối ưu. Dẫn đến tỷ lệ thu hồi alumnia (oxit nhôm) thấp, và giá thành (chi phí sản xuất) của alumina cao;
+ Nhiệt độ kiềm hóa được lựa chọn thấp- 145oC (ứng với chất lượng thiết bị thấp) đã làm tăng tiêu hao nhiệt và tiêu hao kiềm rất lớn, dẫn đến chi phí sản xuất tăng;
+ Nồng độ kiềm trong dung dịch tuần hoàn thấp, cũng được thiết kế/tính toán ứng với việc sử dụng các thiết bị rẻ tiền, mau hỏng;
+ Modul kiềm caustics trong dung dịch tuần hoàn được thiết kế thấp (chỉ ứng với thiết bị công nghệ rẻ tiền có khả năng chống ăn mòn hóa học thấp) đã làm tăng tổn thất alumina vào bùn đỏ;
+ Mức tiêu hao vôi được tính toán không có cơ sở khoa học (không có kinh nghiệm), làm giảm tỷ lệ thu hồi alumina;
+ Hiệu quả kiềm hóa (caustic hóa) được nhà thầu cam kết ở mức thấp nhất đối với qui trình công nghệ Bayer;
+ Tiêu hao quặng bauxite đầu vào được thiết kế rất cao (2,737 tấn bauxite/tấn alumina), chứng tỏ các giải pháp kỹ thuật kém hiệu quả, dẫn đến tổn thất tài nguyên lớn;
+ Cỡ hạt (độ nghiền) của bauxite đầu vào được thiết kế không dựa trên các phân tích thực tế đúng qui định các mẫu thí nghiệm làm tăng chi phí nghiền và ảnh hưởng xấu đến quá trình cô đặc của dung dịch trong khâu kiềm hóa;
+ Mức độ tự động hóa của nhà máy quá thấp, dẫn đến năng suất lao động thấp, chi phí tiền lương cao.
Kết luận: “Mọi con đường đều dẫn đến thành Roma”. Kết quả xem xét các thông số thiết kế trên đây cho thấy nhà thầu chưa có kinh nghiệm về gibbsite.
1.2 Chủ đầu tư bị sập bẫy “giá rẻ”
TKV đã không chọn các nhà tư vấn quốc tế có kinh nghiệm, chỉ chọn tư vấn theo tiêu chí “nội lực” và tiêu chí “đang không có việc làm” nên đã bị “sập” cái “bẫy giá rẻ” do chính mình đặt ra. Về mặt luật pháp, việc chủ đầu tư (với bất kỳ lý do gì) đã bỏ qua giai đoạn đấu thầu quốc tế rộng rãi để chọn nhà tư vấn độc lập là một sai phạm không thể chấp nhận được.
Theo Luật đấu thầu, trong HSMT của dự án alumina cần phải xác định chi tiết: phạm vi công việc; giá trị/chất lượng công việc; và tiến độ thực hiện công việc.
Trên cơ sở đó, theo qui định trong đấu thầu, các sai lệch (deviations) trong bản chào (HSDT) của Chalieco cần được đánh giá để đưa về “giá đánh giá”, làm cơ sở cho việc chọn nhà thầu:
Về công suất thiết kế: theo cam kết của nhà thầu chỉ có 630.000 tấn/năm, giảm 20.000 tấn/năm so với công bố của TKV. Sai lệch này cần được đánh giá cả về giá trị thực và giá trị hiện tại thuần.
Giá trị thực của sai lệch này bằng (giá trị 20.000 tấn/năm nhân (x) với suất đầu tư bình quân (khoảng 1000U$/tấn công suất) = 20 triệu U$.
Giá trị hiện tại thuần của sai lệch này được tính theo mức độ giảm doanh thu hàng năm trong vòng 20 năm. Doanh thu giảm hàng năm là (20.000 t./n.*250 U$/tấn =) 5 tr.U$/năm. Như vậy, giá trị hiện tại thuần (NPV) trong 20 năm với lãi suất 5%/năm của 5 tr.U$ này là 62,31 tr.U$.
Hệ số huy động công suất: theo nhà thầu cam kết là >92,5% tức tương đương với 8.103 h/năm. Trong khi đó, cũng trong cam kết của nhà thầu, thời gian phải dừng để sửa chữa 28 ngày/năm, tức tương đương với hệ số huy động chỉ có 92,3%, hay tương đương với 8.088 h/năm. Sai lệch (8.103-8088=) 15 h này tương đương với công suất là 1302 tấn/năm và có giá trị bằng tiền là (1302 tấn/năm*250 U$/tấn =) 325.000 U$/năm. Giá trị hiện tại thuần của sai lệch này là (NPV với lãi suất 5%/năm, trong 20 năm của 325.000 U$) = 4,05 tr.U$.
Mức tiêu hao quặng bauxite tinh: là chỉ tiêu đánh giá rất quan trọng của dự án alumina. Chỉ tiêu này được đánh giá trên cơ sở so sánh với mức b/q của các nhà thầu khác, hoặc (trường hợp không có các nhà thầu khác), so sánh với mức b/q của thế giới. Cụ thể: mức tiêu hao quặng để sản xuất alumina b/q trên thế giới là 60U$/tấn; giá bán alumina được giả định có 250 U$/tấn, trong khi giá bán b/q của TKV là 326 U$/tấn v.v.)...
1.3 “Sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó” không phải là sự thật
“Một nửa sự thật thì không phải là sự thật”. Dự án alumina Tân Rai được đánh giá “sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó” chỉ là một phần của sự thật. Còn nhiều phần khác chưa được công khai:
1/ Năm 2013: chưa tính đủ đã lỗ
Giá thành xuất xưởng (chi phí sản xuất) của alumina Tân Rai năm 3013 đã được quyết toán là lỗ nặng (xem bảng sau).
Tổng hợp Giá thành alumina Tân Rai năm 2013 đã được quyết toán:
Giá thành 7.545.450 đ/tấn nêu trên là “giá thành xuất xưởng”, chưa tính chi phí vận chuyển alumina từ Tân Rai về cảng Gò Dầu (được khoán ~390.000 đ./tấn); và chưa tính khấu hao tài sản nhà máy alumina, chỉ tính khấu hao các tài sản khác với giá trị rất thấp (36.207 đ/tấn).
Ngoài ra, giá bauxite nguyên khai cấp cho dự án được TKV tính rất thấp (chỉ có 70.838 đ/tấn- tương đương 3,3 U$/tấn) do không phải khai thác (phần lớn có sẵn nhờ thu hồi trong quá trình xây dựng cơ bản- chi phí đã tính vào vốn đầu tư của công trình) và do thuế tài nguyên của VN không đáng kể (gần như “biếu không” tài nguyên bauxite cho TKV). Theo quyết toán trên, giá quặng bauxite tinh cấp cho nhà máy alumina chỉ có 561.097 đ/tấn (tương đương 26,1 U$/tấn). Giá quyết toán này quá thấp so với mức b/q của thế giới là trên 60 U$/tấn (xem http://www.boxitvn.net/bai/32850).
Theo công bố của TKV tại VUSTA 9/5/2013, tổng mức đầu tư của Tân Rai là 14.642.227 tr.VND và thời hạn khấu hao dự kiến 30 năm. Như vậy, giá trị khấu hao tài sản phải được đưa vào giá thành hàng năm là (14.642.227 tr.đ : 30 năm =) 488.074 tr.đ/năm. Như vậy, tính b/q năm 2013 (với sản lượng 235.201 tấn) khoản mục chi phí khấu hao phải là (488.074 tr.đ/năm : 235.201 tấn/năm=) 2.075.136 đ/tấn. Như vậy, giá thành tính đủ khấu hao và chi phí vận chuyển của alumina Tân Rai năm 2013 là (7.545.450 + 390.000 + 2.075.136 - 36.207=) 9.974.379 đ/tấn, tương đương 464 U$/tấn.
Giá bán cũng theo “dự kiến” TKV công bố 9/5/2013 tại VUSTA là 7.957.414 đ/tấn (tương đương 370 U$/tấn). Như vậy, để báo cáo Thủ tướng “sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó”, TKV đã cố tình “lờ” đi con số lỗ khổng lồ của năm 2013 là (464 - 370=) 94 U$/tấn.
Nếu tổng số alumina tiêu thụ lũy kế được 663 ngàn tấn, năm 2014 tiêu thụ 492 ngàn tấn, thì năm 2013 tiêu thụ được (663-492=) 171 ngàn tấn (tương đương tổng mức lỗ khoảng 16 tr.U$/năm 2013).
2/ Năm 2014: tiếp tục lỗ TKV đã không dám công bố quyết toán
TKV đang “phong tỏa” số liệu quyết toán của dự án Tân Rai. Vì vậy, dưới đây sẽ xem xét hiệu quả dựa trên các số liệu của TKV đã công bố. Theo đó:
Năm 2014 tổng số alumina tiêu thụ 492 ngàn tấn với giá bán b/q cả 326,5 U$/tấn. Vì “sản xuất đến đâu, tiêu thụ đến đó”, nên mức khấu hao tài sản năm 2014 vào giá thành của 492 ngàn tấn alumina b/q là (488.074 tr.đ: 0,492 tr.tấn=) 992.020 đ/tấn. Nếu các chi phí khác coi như không tăng, giá thành b/q của alumina tính cả chi phí vận tải về cảng Gò Dầu, và tính đủ khấu hao năm 2014 tối thiểu là (7.545.450 + 390.000 + 992.020 -36.207=) 8.891.263 đ/tấn, tương đương 413,5 U$/tấn. Như vậy, trong năm 2014, mỗi tấn alumina bị lỗ ít nhất là (413,5-326,5=) 87 U$/tấn. Tổng số lỗ do “sản xuất đến đâu tiêu thụ đến đó” là (87 U$/tấn*492.000 tấn=) 42,8 tr.U$/năm 2014.
3/ Năm 2015: TKV đã đưa “lỗ” vào “Kế hoạch phối hợp kinh doanh”
Về giá bán: Theo Kế hoạch phối hợp kinh doanh năm 2015 của TKV, cả 2 dự án Tân Rai và Nhân Cơ sản xuất 660 ngìn tấn alumina, được dự kiến tổng doanh số 4.920 tỷ đ. Như vậy, giá bán b/q của alumina năm 2015 được TKV dự tính là (4.920 tỷ đồng : 660.000 tấn=) 7,454545 tr.đ/tấn, tương đương với giá bán chỉ có 346,7 U$/tấn. Trong khi đó, theo công bố của Golman Sachs, do Indonesia hạn chế xuất khẩu quặng bauxite, và thị trường alumina sẽ bị thiếu 138÷639.000 tấn, giá bán alumina năm 2015 sẽ đạt mức 370 U$/tấn vào quí II 2015, và sẽ tăng lên 380 U$/tấn vào quí III 2015 (http://lityo.com.ua/13299-goldman-sachs-obnovil-prognoz-po-tsenam-na-gli...).
Giá thành b/q năm 2015: Giả sử các khoản mục chi phí sản xuất không tăng (bằng mức năm 2013), nhà máy alumina đạt công suất 630.000 tấn/năm, khoản mục khấu hao phải tính vào giá thành b/q là (488.074 tr.đ/năm : 630.000 tấn/năm=) 774.720 đ/tấn. Giá thành tính đủ khấu hao và chi phí vận chuyển năm 2015 sẽ là (7.545.450+390.000+774.720-36.207=)8.673.963 đ/tấn, tương đương với 403,4 U$/tấn.
Như vậy, alumina “sản xuất đến đâu, tiêu thụ đến đó” trong năm 2015 sẽ lỗ (403,4-346,7=) 56,7 U$/tấn, tương đương với tổng mức lỗ là (56,7 U$/tấn*660.000 tấn=) 37,42 tr.U$/năm 2015.
Toàn cảnh bức tranh “sản xuất đến đâu, tiêu thụ đến đó” theo các số liệu của chính TKV được tổng hợp như trong bảng sau:
Dự kiến mức lỗ tối thiểu của alumina chưa được TKV báo cáo:
Ghi chú (*): năm 2015, nếu dự án Tân Rai cũng vẫn chưa đạt công suất thiết kế 630.000 tấn thì giá thành sẽ còn cao hơn rất nhiều, tức lỗ còn nặng hơn.
1.4 Dự án đã “chết” nhưng chưa được “chôn”
Phải nói ngay, hiện TKV cũng đang có một dự án khác được triển khai sau dự án alumina trên Tây Nguyên, đó là dự án sản xuất ammonium nitrate tại Thái Bình, dưới vùng đồng bằng Bắc Bộ, cũng thuộc loại lỗ nặng, nhưng chưa được công bố. Khác với trên Tây Nguyên, ở Thái Bình TKV đã bị sập thầu “giá đắt”. Hai dự án có hai cách chết khác nhau, nhưng giống nhau ở chỗ là chưa được “chôn”.
Quay trở lại Tây Nguyên, như trên đã phân tích, cái “bẫy giá rẻ” đã làm cho mỗi tấn alumina của TKV bị lỗ ít nhất gần 56,7 U$/tấn (14%). Trong quản trị kinh doanh, cái “bẫy giá rẻ” đang dẫn đến cái bẫy “chết người” là dòng tiền của dự án. Với tình trạng như hiện nay, dự tính sơ bộ, cả 2 dự án alumina sẽ có dòng tiền “âm” (B-C 2Al + 3/2CO2
Theo công nghệ trên, mức b/q trên thế giới, để điện phân ra được 1 tấn nhôm kim loại cần phải có:
Ô xít nhôm (alumina): 1,90÷1,95 tấn;
Chất điện phân (electrolyte): 0,04÷0,06 tấn;
Các bon điện cực (anode carbon): 0,43÷0,50 tấn;
Điện năng: 13.000÷16.000 kWh
Với mức tiêu hao điện thấp nhất thế giới (12.900 kWh/tấn), dự án nhôm kim loại Nhân Cơ có công suất 450 nghìn tấn nhôm/năm sẽ phải mua 5,8 tỷ kWh/năm.
Hiện nay, giá bán điện b/q của EVN là 1.622 đ/kWh, tương đương ~7,5 cents/kWh, và giá bán điện thấp nhất (cho các hộ nghèo dùng
......
⤑